6 thg 6, 2024

KHÔNG SINH KHÔNG DIỆT: ĐỪNG SỢ HÃI - CHƯƠNG 3

Thích Nhất Hạnh

Nhà xuất bản Saigon Books thuộc bản quyền Reverhead Books

Chân Huyền dịch Việt ngữ

Chương 3

THỰC TẬP NHÌN SÂU.

Tất cả các giáo pháp chính thống của đạo Bụt có ba yếu tố căn bản gọi là Tam Pháp Ấn.  Ba dấu ấn đó là vô thườngvô ngã và Niết bàn (diệt khổ). Giống như các tài liệu pháp lý cần có đóng dấu hợp pháp và chữ ký của người làm chứng, các phép thực tập trong đạo Bụt cũng phải có chứng tích của ba dấu ấn này.

Khi nhìn vào pháp ấn thứ nhất: vô thường, ta thấy rằng nó không chỉ có nghĩa là mọi sự đều thay đổi. Nhìn vào bản chất mọi sự vật, ta thấy không có vật nào mà không thay đổi trong hai thời điểm nối tiếp nhau. Vì không có sự vật nào bất biến với thời gian, nên chúng không có tự tánh cố định, không có cái ngã thường hằng, vĩnh cữu. Vậy thì trong giáo pháp vô thường, ta không thể tìm thấy một cái ngã bất biến. Ta gọi đó là vô ngã. Chính nhờ sự biến đổi không ngừng, nhờ tính cách vô ngã của vạn vật mà ta có thể có tự do.

Dấu ấn thứ ba là Niết bàn. Có nghĩa là sự vững chãi, là sự tự do không bị ràng buộc vào bất cứ ý niệm nào. Từ ngữ Niết bàn có nghĩa là sự vắng bặt của tất cả mọi khổ đau phát sinh từ ý niệm. Nhìn sâu vào vô thường cho phép ta khám phá ra vô ngã. Khám phá được vô ngã dẫn ta tới Niết bàn. Niết bàn là vương quốc của Thượng đế. Thượng đế chính là bản chất chân như của ta, là thứ vượt lên trên mọi ý niệm.

BÀI 1

VÔ THƯỜNG

Thực tập và hiểu biết về vô thường không phải chỉ là một cách để mô tả khác về thực tại. Nó là một dụng cụ giúp chúng ta chuyển hóa, buông xả và hàn gắn các vết thương.

Vô thường có nghĩa là mọi sự đều thay đổi, không có sự vật nào bất biến trong hai thời điểm nối tiếp nhau. Vì nó thay đổi mỗi phút mỗi giây, nên chúng ta không thể mô tả một cách chính xác là lúc này nó giống hay khác với trước đây.

Hôm nay, khi chúng ta tắm lại trong dòng sông mà ta đã tắm bữa qua, dòng nước có còn là dòng nước cũ hay không? Triết gia Heraclitus đã nói: “Chúng ta không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông”. Ông ta nói đúng. Nước sông hôm nay hoàn toàn khác với nước sông mà chúng ta tắm hôm qua, dù đó vẫn là một con sông quen thuộc. Khi đức Khổng Tử đứng nhìn dòng sông trôi chảy, Ngài nói: “Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ!” (Ôi, nước sông trôi chảy ngày đêm, không bao giờ ngừng nghỉ sao!).

Sự giác ngộ về vô thường giúp chúng ta vượt thoát được các ý niệm. Nó giúp ta vượt lên trên được ý niệm về giống nhau hay khác nhau, đi hay đến, có hay không. Nó cũng giúp ta nhìn được là dòng sông bữa nay không giống cũng không khác dòng sông hôm qua. Nó cho ta thấy rằng ngọn nến ta thắp bên giường ngủ tối nay cũng không phải là ngọn nến còn đang cháy buổi sớm mai. Và ta của hôm nay cũng đang chuyển hóa thành ta của ngày mai. Ta của quá khứ và hiện tại không phải là hai người khác nhau cũng không phải là một.

BÀI 2

VÔ THƯỜNG LÀM CHO MỌI SỰ ĐỀU CÓ CƠ HỘI

Chúng ta thường buồn rầu và đau khổ rất nhiều khi sự việc thay đổi. Nhưng sự thay đổi, sự vô thường có khía cạnh tích cực của nó. Nhờ vô thường mà mọi sự vật mới có cơ hội. Đời sống nhờ vô thường thì mới hiện hữu. Nếu hạt bắp không có vô thường thì hạt bắp không bao giờ chuyển hóa thành cây bắp. Nếu không vô thường thì cây bắp không thể cho ta trái bắp để ăn được. Nếu con gái quý vị không thay đổi thì nó không thể lớn lên để trở thành phụ nữ. Và cháu của quý vị không bao giờ ra đời. Vậy, thay vì than vãn về vô thường, chúng ta nên nói: “Hoan nghênh vô thường, chúc vô thường mãi mãi”. Chúng ta hãy sung sướng khi thấy được phép lạ của vô thường, sự màu nhiệm của cuộc sống, nỗi đau buồn chúng ta sẽ qua đi.

Vô thường cũng cần được hiểu bằng ánh sáng của trí tuệ, sự liên hệ tương tức. Vì mọi sự đều liên quan mật thiết với nhau, chúng luôn có tác động ảnh hưởng vào nhau. Người ta thường nói rằng tiếng cánh bướm đập ở bên này quả đất có thể ảnh hưởng tới khí hậu ở bán cầu bên kia. Mỗi sự vật đều không cố định vì chúng chịu ảnh hưởng của các sự vật khác với nó.

BÀI 3

THỰC TẬP VÔ THƯỜNG

Tất cả chúng ta đều có thể hiểu vô thường bằng trí não, nhưng như thế thì không thể hiểu được chân nghĩa của nó. Trí não không đưa chúng ta tới giải thoát. Khi chúng ta vững chãi và có định lực, ta có thể thực tập nhìn sâu. Khi nhìn sâu và hiểu được bản chất của vô thường ta có thể quán chiếu về cái biết sâu xa đó. Như vậy, cái hiểu biết về vô thường trở thành một phần của con người chúng ta. Nó trở thành sự thực tập hằng ngày của ta. Chúng ta phải duy trì sự giác ngộ về vô thường đó để có thể nhìn thấy và sống với vô thường trong mọi lúc. Nếu chúng ta thiền quán về đối tượng vô thường, ta sẽ nuôi dưỡng được tri giác về vô thường khến cho nó sống trong ta hằng ngày. Tu tập như thế, vô thường sẽ là chiếc chìa khóa mở cho ta cánh cửa vào chân lý thực tại.

Chúng ta cũng không thể chỉ giác ngộ về vô thường một chốc lát rồi đóng cánh cửa hiểu biết đó lại, và nhìn mọi sự thường hằng bất biến như xưa. Hầu như chúng ta nhiều lần đối xử với con cái như thể chúng sống cùng với chúng ta mãi mãi. Chúng ta không bao giờ nghĩ vài năm sau, chúng sẽ lấy chồng, lấy vợ, và lập gia đình riêng của chúng. Vậy nên chúng ta không trân trọng những giờ phút con trẻ còn ở nhà cùng với chúng ta.

Tôi biết có nhiều phụ huynh có con tuổi mười tám hay mười chín là chúng rời xa gia đình, tách ra sống riêng. Cha mẹ mất con và cảm thấy rất buồn bã. Họ không biết quý những giờ phút sống gần con. Vọ chồng cũng vậy. Bạn nghĩ rằng người bạn đời sẽ cứ ở bên bạn suốt đời. Nhưng vì sao bạn tin chắc như thế? Chúng ta thực sự không thể biết trong trong hai, ba mươi năm, hay trong bao lâu nữa, người bạn đời của ta sẽ ở đâu. Thực tập về vô thường hằng ngày là chuyện thật sự quan trọng.

BÀI 4

NHÌN CÁC CẢM XÚC VỚI CON MẮT VÔ THƯỜNG

Khi có người nào nói gì và làm gì cho bạn giận dữ và bạn mong cho họ biến mất đi. Xin hãy nhìn kỹ bằng con mắt vô thường. Nếu người kia biến mất thật sự thì bạn cảm thấy ra sao? Bạn sung sướng hay bạn sẽ khóc? Thực tập cái hiểu biết này rất quan trọng và đây là bài kệ để thực tập:

Giận nhau trong bản môn

Nhắm mắt nhìn mai sau

Trong ba trăm năm nữa

Người đâu và ta đâu?

Khi giận dữ, chúng ta thường làm gì? Chúng ta la hét, chửi rủa và ráng đổ lỗi cho người khác đã gây ra chuyện, nhưng khi nhìn cái giận đó với con mắt vô thường, ta có thể ngừng lại và thở. Giận nhau trong bản môn (bình diện tuyệt đối), ta nhắm mắt lại và nhìn cho sâu. Ta ráng nhìn vào tương lai, khoảng ba trăm năm sau. Họ sẽ ra sao? Ta sẽ ra sao? Họ sẽ ở đâu và ta sẽ ở đâu? Ta cần thở vào thở ra, nhìn vào tương lai của ta và tương lai của người kia. Chúng ta cũng không cần nhìn xa tới ba trăm năm, chỉ cần nhìn sâu khoảng năm mươi, sáu mươi năm khi chúng ta đều đã qua đời.

Nhìn vào tương lai, ta sẽ thấy người kia vô cùng quý hóa. Khi thấy chúng ta có thể mất nhau bất cứ giờ phút nào, ta không còn giận dữ nữa. Ta sẽ muốn ôm người đó và nói: “Thật tuyệt diệu là em (hay anh) còn sống ở đây, tôi thật sung sướng. Làm sao mà tôi giận cho được? Cả hai chúng ta đều có ngày chết đi, thật điên rồ nếu chúng ta giận nhau trong khi còn có thể sống bên nhau”.

Lý do khiến cho ta điên rồ đủ để làm khổ chính mình và người khác, chỉ vì ta quên rằng cả hai người đều vô thường hết. Tự do và an lạc trong lúc này là điều quan trọng nhất mà ta có được. Nhưng khi không có chánh niệm về vô thường, chúng ta không thể có hạnh phúc.

Có khi ta còn không muốn nhìn người kia khi họ còn sống. Nhưng khi người đó chết rồi, thì ta mua hoa phúng điếu. Nhưng người chết rồi thì đâu có ngửi được hoa thơm. Khi ta hiểu và nhớ được rằng mọi sự đều vô thường thì ta có thể làm mọi thứ để người kia được vui sướng lúc này, ngay ở đây. Khi ta giận người mình thương tới hai mươi bốn giờ, đó là vì mình quên mất vô thường.

Ta nhắm mắt để tập quán xem người thương của ta sẽ ra sao trong một trăm năm hay ba trăm năm nữa. Khi tưởng tượng về mình và người thương trong khoảng thời gian còn lại, bạn sẽ thấy trân quý vì người kia đang còn sống hôm nay. Bạn mở mắt ra và ôm lấy người ấy. Hãy thực tập: “Thở vào, người thương mình còn sống, thở ra tôi thực sự sung sướng”. Khi bạn nhắm mắt để nghĩ tới hình ảnh bạn và người thương trong tương lai, bạn đang thiền quán về vô thường. Trong bình diện tuyệt đối (bản môn) cái giận không có mặt.

Sự thù ghét cũng vô thường. Dù lúc này ta đang có lòng sân hận, nhưng khi biết nó vô thường thì ta có thể làm cho nó thay đổi. Người tu tập có thể làm cho lòng căm phẫn, niềm si mê hay tham đắm trong mình biến mất. Cũng như thực tập với cái giận, chúng ta nhắm mắt lại và quán chiếu: “Ta sẽ ra sao trong 300 năm tới?” Hiểu được điều này trong bình diện tuyệt đối, nó sẽ bốc hơi ngay.

BÀI 5

HÃY ĐỂ VÔ THƯỜNG NUÔI DƯỠNG TÌNH THƯƠNG

Vì chúng ta mê muội và quên mất vô thường nên ta đã không nuôi dưỡng tình thương cho đúng cách. Khi mới cưới nhau, tình yêu của ta rất lớn. Ta nghĩ rằng nếu không có nhau, ta sẽ không thể sống thêm một ngày nào nữa. Vì không biết thực tập vô thường nên sau một hai năm, tình yêu của ta biến thành nỗi thất vọng, giận hờn. Nay ta nghĩ rằng làm sao ta chịu đựng thêm một ngày nào nữa, cái con người đáng ghét kia? Ta cho rằng không còn phương cách nào khác ngoài li dị. Khi sống mà có hiểu biết vô thường, ta biết nuôi dưỡng tình yêu. Chỉ như vậy nó mới bền lâu được. Bạn phải nuôi dưỡng và chăm sóc thì tình yêu mới lớn lên và bền chặt được.

BÀI 6

VÔ NGÃ

Vô thường là nhìn vào thực tại trong khía cạnh thời gian. Vô ngã là nhìn trong bình diện không gian. Đó là hai mặt của thực tại. Vô ngã là một biểu hiện của vô thường cũng như vô thường là một biểu hiện của vô ngã. Mọi sự vật không có cái ngã riêng biệt nên chúng vô thường. Vô thường nghĩa là biến đổi luôn luôn. Đó là một chân lý. Vì không có gì bất biến nên làm sao có được cái ngã riêng biệt và thường hằng? Khi nói về “ngã”, là ta muốn nói tới một thứ gì tự nó hiện hữu và không thay đổi từ ngày này qua tháng khác. Nhưng không thể có cái gì như vậy được. Thân ta vô thường, cảm xúc ta vô thường, các nhận thức cũng vậy. Cái giận, cái yêu, cái buồn, cái vui và các tâm thức của chúng ta cũng đều vô thường cả.

Vậy thì có cái gì thường hằng để chúng ta có thể gọi nó là cái ngã? Tờ giấy viết những dòng chữ này cũng không có một cái ngã riêng biệt, nó chỉ có mặt khi có đủ các điều kiện như đám mây, rừng cây, mặt trời, trái đất, và các phương tiện máy móc, sức lao động của con người để làm ra tờ giấy. Nếu những thứ đó không có mặt, thì tờ giấy cũng không thể có mặt. Khi ta đốt tờ giấy thì cái ngã nó ở đâu?

Không có thứ gì có thể tự nó hiện hữu được. Nó phải phụ thuộc vào nhiều thứ khác. Đó là tương tức, là sự liên quan mật thiết của mọi sự vật, luôn luôn tương hỗ nhau. Hiện hữu có nghĩa là tương tức (cùng có mặt, có liên quuan mật thiết với nhau). Tờ giấy tương tức với mặt trời, đám mây, rừng cây… Bông hoa không thể tự nó xuất hiện được, nó phải tương tức với đất, nước, gió, nhiệt độ, ánh sáng và côn trùng. Không có một sự hiện hữu nào mà không cần đến sự tương tức của các đối tượng khác. Không có thứ gì hiện hữu độc lập, mà tất cả đều tương tức, sự liên quan mật thiết giữa mọi sự vật.

Nhìn sâu vào một bông hoa, ta thấy hoa làm bằng những yếu tố không-hoa. Ta có thể mô tả hoa làm bằng mọi thứ khác. Không có gì là không hiện hữu trong bông hoa. Chúng ta thấy ánh mặt trời, thấy mưa, thấy mây, thấy đất và ta cũng thấy thời gian, không gian trong hoa. Một bông hoa cũng như mọi thứ khác: hoàn toàn được cấu tạo bởi những thứ có trong thế gian này. Tất cả vũ trụ đã tập hợp lại để giúp cho bông hoa biểu hiện. Bông hoa có đủ thứ, trừ một thứ: đó là cái ngã riêng biệt hay tự tính độc lập của nó.

Bông hoa không thể tự riêng nó là hoa. Nó hiện hữu trong tương tức cùng với các thứ khác trong vũ trụ. Nếu ta hiểu nghĩa chữ hiện hữu là cùng hiện diện với những thứ khác, thì ta tới gần chân lý hơn. Tương tức hay interbeing không phải là hiện hữu hay không hiện hữu, mà nó có nghĩa là không có tự tánh riêng biệt, không có cái ngã độc lập.

Vô ngã cũng có nghĩa là trống rỗng; một thuật ngữ trong Phật giáo, nghĩa là không có tự tánh độc lập. Nhưng nó không có nghĩa là chúng không hiện hữu tại đây. Cũng không có nghĩa là mọi sự đều có ở đây. Một ly nước có thể trống hay đầy nước trà. Muốn trống hay đầy, cái ly phải hiện hữu cái đã. Trống rỗng không có nghĩa là hiện hữu hay không hiện hữu. Nó vượt qua mọi ý niệm. Nếu bạn tiếp xúc thật sâu được với bản chất vô thường, vô ngã và tương tức, bạn sẽ tiếp xúc được với bình diện tuyệt đối, bản chất của Niết bàn.

BÀI 7

CHÚNG TA LÀ AI?

Chúng ta nghĩ về cái thân này như nó là chính mình. Thân này là tôi, là của tôi. Nhưng nếu nhìn cho kỹ, bạn sẽ thấy cái thân bạn cũng là cái thân của tổ tiên, cha mẹ, của con và cháu bạn, của mọi sinh vật mà bạn dùng để làm thức ăn nuôi dưỡng cái thân này, và của tất cả mọi thứ… Vậy nó không phải là “tôi” hay “của tôi”! Thân bạn có mặt nhờ đầy đủ các yếu tố nhân duyên khác, vô số những thứ khác hợp thành mà không phải là riêng bạn.

Vô thường cần được nhìn dưới ánh sáng trí tuệ của sự trống rỗng, tương tức và vô ngã. Những thứ đó không có tính cách tiêu cực. Trống rỗng là một sự màu nhiệm. Ngài Long Thọ (Nagarjuna), một vị thầy nổi tiếng của đạo Bụt thế kỷ thứ hai đã nói: Nhờ có “Không” mà mọi sự đều “”!.

Bạn có thể thấy vô ngã trong vô thường và vô thường trong vô ngã. Bạn có thể nói vô thường là vô ngã nhìn trong bình diện thời gian và vô ngã là vô thường nhìn trong khía cạnh không gian. Hai thứ đó là một. Vì vậy vô thường và vô ngã tương tức, tương nhập (có liên quan tương hỗ với nhau). Nếu bạn không thấy vô thường trong vô ngã thì đó không phải là vô ngã. Nếu bạn không thấy vô ngã trong vô thường thì đó không thực sự là vô thường. Chưa hết, bạn cũng phải nhìn thấy Niết bàn trong vô thường và Niết bàn trong vô ngã. Nếu tôi vẽ một đường thẳng, một bên đường thẳng là vô thường vô ngã, bên kia là Niết bàn. Đường thẳng đó có ích lợi nhưng nó cũng có thể làm ta hiểu lầm. Niết bàn vượt qua tất cả mọi ý niệm, kể cả ý niệm về vô thường và vô ngã. Nếu ta thấy Niết bàn trong vô thường và vô ngã có nghĩa là ta không bị kẹt vào các ý niệm vô thường và vô ngã.

BÀI 8

SINH SẢN VÔ TÍNH VÀ VÔ NGÃ

Nếu bạn lấy 3 tế bào từ thân tôi rồi theo phương pháp sinh sản vô tính (cloning), làm ra ba đứa bé từ các tế bào đó, chúng sẽ có các yếu tố di truyền trong máu của gia đình huyết thống và của chính tôi.

Nhưng chúng ta ai cũng có thêm một di sản khác. Một cách tự nhiên, thân thể của chúng ta được thừa kế từ gia đình huyết thống của ta. Ta cũng là di sản của môi trường ta sống. Đó là sự nuôi dưỡng. Tưởng tượng nếu ta bỏ ba đứa bé do sinh sản vô tính đó vào ba môi trường sống khác nhau. Bé nào sống trong môi trường tệ nạn xã hội, cờ bạc, ma túy thì khả năng nó cũng bị ảnh hưởng và sẽ trở nên nghiện ngập, ham mê cờ bạc. Nó sẽ không trở thành một nhà sư như tôi. Nếu bạn nuôi dưỡng một đứa khác sống trong môi trường kinh doanh và cho nó học về thương mại, có lẽ nó sẽ trở thành một thương gia. Chuyện này có thể xảy ra dù cho các bé có cùng huyết thống và ra đời bằng phép vô tính. Tôi đã được thấm nhuần giáo pháp của Bụt. Nhưng những giáo pháp đó không tưới tẩm ở môi trường thương mại, hay một môi trường nào khác ngoài sự thiện lành. Chú bé kia có thể trở thành một thương gia, dù cho mắt, tai, mủi… giống hệt như tôi, chú ta không có gì giống tôi hết.

Ta hãy giả thuyết chú thứ ba do sinh sản vô tính trở thành một tăng sĩ. Ta để chú vào Lộc Uyển và giao cho các tăng ni nuôi dưỡng chú. Mỗi ngày chú nghe kinh kệ và đi thiền hành. Chú sẽ là một vị sư còn khá hơn tôi ngày nay nữa.

Sự nuôi dưỡng là chuyện rất quan trọng. Dù cho bạn sản xuất vô tính bao nhiêu ‘bản sao’ đi nữa, thì biểu hiện đặc biệt của các ‘bản sao’ đó tùy thuộc vào điều kiện nuôi dưỡng và môi trường sống của chúng, tùy vào ý tưởng, tình thương, sự quan tâm hay ghét bỏ, tùy vào sự học hỏi của chúng với những thứ chung quanh. Tưởng tượng có những người sợ mất tôi, hỏi rằng: “Xin cho chúng con tế bào của Thầy để làm phép sinh sản vô tính”, và nếu đồng ý thì tôi sẽ phải nói: “Được, nhưng hãy nuôi đứa bé đó ở một tu viện như Lộc Uyển hay Rừng Phong, nếu không nó sẽ đau khổ đó”.

BÀI 9

NIẾT BÀN

Vô thường và vô ngã không phải là những luật lệ Bụt đặt ra cho chúng ta. Đó là hai mặt của thực tại. Ý niệm thường hằng là sai lầm, vậy nên giáo pháp vô thường giúp chúng ta có cái nhìn đúng về sự thường hằng bất biến. Nhưng nếu chúng ta bị kẹt vào ý niệm vô thường, chúng ta cũng không đạt tới Niết bàn được. Ý niệm về ngã là sai lầm, vậy nên ta có giáo pháp để chữa nó. Nếu ta vướng vào ý niệm vô ngã, thì cũng không hay ho gì. Vô thường và vô ngã là những chìa khóa để thực tập, chúng ta không sống chết với chúng và không giết hại ai để bảo vệ chúng.

Trong đạo Bụt không có tư tưởng hay thiên kiến nào để chúng ta phải giết hại nhau. Chúng ta không hại người khác chỉ vì họ không chấp nhận tôn giáo của mình. Các giáo pháp của Bụt là những phương tiện khéo léo để giúp chúng ta thấy được chân lý, nhưng không phải là chân lý tuyệt đối. Bụt dạy: “Giáo pháp của ta là ngón tay chỉ trăng, đừng để bị vướng vào ý tưởng của ngón tay mà cho đó là trăng. Ngón tay chỉ là phương tiện, để giúp ngươi thấy được mặt trăng mà thôi”.

Vô thường và vô ngã là những phương tiện để ta hiểu được thực tại. Đó chỉ là các dụng cụ, không phải là chân lý tuyệt đối. Vô thường không phải là chủ thuyết bạn phải sống chết với nó. Bạn không nên chống đối một người vì hắn nói ngược lại với bạn. Bạn không nên dùng quan niệm của mình để chống lại quan niệm của người khác. Những phương tiện đó đưa ta tới chân lý sau cùng. Đạo Bụt là một con đường thiện hảo giúp đỡ chúng ta, không phải là một con đường của kẻ cuồng tín. Phật tử không được nhân danh tôn giáo để gây chiến, không đổ máu hay giết hại con người.

Vì vô thường chứa đựng trong nó bản chất Niết bàn, ta sẽ được an toàn khi không bị vướng vào một ý niệm. Khi bạn học hỏi và hành trì giáo pháp này, bạn không còn bị mắc kẹt, bạn được tự do, không vướng vào các ý niệm của mình, kể cả ý niệm vô thường hay vô ngã. Theo con đường đó, bạn đạt tới sự tự do, không còn đau khổ, sợ hãi nữa. Đó là Niết bàn, là vương quốc của thượng đế.

BÀI 10

NGỪNG BẶT Ý NIỆM

Chúng ta sợ hãi vì các ý niệm về sinh-tử, được-mất, hiện hữu-không hiện hữu. Niết bàn là sự ngừng bặt của tất cả các ý niệm và tư tưởng. Nếu chúng ta thoát khỏi được hết các ý niệm và tư tưởng, chúng ta có thể tiếp xúc được với niềm an lạc trong bản thể chân thật của ta.

Có tám ý niệm nuôi dưỡng sự sợ hãi. Đó là ý niệm về sinh-diệt, đến-đi, khác nhau-giống nhau, có-không. Những ý niệm đó làm cho chúng ta không hạnh phúc. Giáo pháp của Bụt dạy ta tám ý niệm đối nghịch gọi là tám không: không sinh-không diệt, không đến-không đi, không giống-không khác, không có cũng không không.

BÀI 11

CHẤM DỨT Ý NIỆM VỀ HẠNH PHÚC.

Mỗi chúng ta ai cũng có một quan niệm làm sao để ta được hạnh phúc. Nếu ta có thời gian để nhìn lại ý niệm của ta về hạnh phúc thì đó quả là một chuyện có ích. Ta có thể làm một danh sách những thứ mà ta cần để có được hạnh phúc như: “Tôi sẽ được hạnh phúc nếu…”, viết xuống tất cả những chuyện gì mà bạn muốn và không muốn. Hãy nhìn xem! Những ý tưởng đó đến từ đâu? Chúng có phải chân lý không? Hay đó chỉ là ý niệm của bạn? Nếu bạn bị ràng buộc vào một quan niệm nào đó về hạnh phúc thì bạn ít có cơ hội để được an vui rồi!

Hạnh phúc tới từ nhiều phương. Nếu bạn có quan niệm nó tới từ một hướng thì bạn sẽ đánh mất đi cơ hội khác, vì bạn chỉ muốn hạnh phúc tới từ hướng mà bạn đã chọn. Bạn nói: “Tôi thà chết chứ không cưới người khác (thay vì cưới nàng). Tôi thà chết chứ không để mất địa vị hay mất danh tiếng. Tôi không thể sung sướng nếu không đạt được cái này cái kia, hay không mua được căn nhà này, không có số tiền kia…”. Bạn đặt quá nhiều điều kiện vào hạnh phúc của bạn. Nhưng ngay khi bạn thành đạt tất cả những điều kiện đó, bạn vẫn thấy chưa đủ hạnh phúc. Bạn tiếp tục đặt thêm các điều kiện khác, bạn muốn tất cả phải cao hơn, nhiều hơn, lớn hơn, hơn nữa và hơn nữa.

Một quốc gia cũng có thể tin rằng chỉ có một con đường để cho dân giàu nước mạnh. Quốc gia và dân tộc đó có thể tự buộc mình vào một chủ thuyết hàng trăm năm hay nhiều hơn. Trong khi đó, người dân phải chịu nhiều đau khổ. Ai bất đồng ý kiến hay đi ngược lại với chủ trương đó liền bị cầm tù. Họ cũng có thể bị cho là điên rồ. Bạn có thể biến xứ sở của bạn thành một nhà tù nếu bạn bị kẹt vào một quan niệm. Xin nhớ rằng quan niệm về hạnh phúc mà bạn tự đặt ra có thể rất nguy hiểm. Bụt dạy, hạnh phúc chỉ đơn giản là có mặt ngay bây giờ và ở đây. Vậy, ta nên cần nhìn lại và xem xét cho kỹ các quan niệm về hạnh phúc của mình. Bạn có thể nhận ra rằng các điều kiện của hạnh phúc mà bạn đang có trong hiện tại là đầy đủ rồi. Như thế bạn sẽ có hạnh phúc ngay lập tức.

 

(Hết chương 3)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài Quan Tâm

NHỮNG CÂU NÓI Ý NGHĨA TRONG ĐẠO PHẬT

*** Bạn đã có thể gặp gỡ và yêu thương một ai đó nhưng đừng nên dính mắc, vì sự ly biệt là lẽ tất nhiên. Đã có hợp thì sẽ có tan, đã có sinh...