Ban Hoằng pháp Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
PHẬT HỌC CƠ BẢN
Chương trình Phật học Hàm thụ (1998-2020)
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh
NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ PHẬT GIÁO.
Phật giáo được khai sinh từ chiếc nôi thành Ca Tỳ La Vệ (thuộc nước Ấn Độ bây giờ), trải qua hơn 2.500 năm lịch sử, đầy những thăng trầm, có lúc tưởng chừng như đã biến mất hẳn ngay trên bản địa, Phật giáo vẫn tồn tại và phát triển rộng rãi khắp năm châu. Hiện nay, sự thành tựu vượt bậc của khoa học cùng với tư tưởng tiến hóa của nhân loại đòi hỏi thẩm định lại giá trị của nhiều tư tưởng triết học xưa nay; và đương nhiên, những tư tưởng mang tính phi lý, lạc hậu, phản khoa học đều phải tự đào thải trước những văn minh tiến bộ của loài người. Thế mà tòa nhà cổ 25 thế kỷ của Phật giáo vẫn tồn tại cùng với năm tháng thời gian, sừng sững như cây đại thọ giữa núi rừng trùng điệp. Điều này chứng minh rằng Phật giáo đã toát ra một sức sống mãnh liệt bắt nguồn từ một giá trị chân lý. Tinh thần ấy chính là sự thể hiện giáo pháp trong mỗi đời sống con người.
Để có thể khái niệm
được ý nghĩa về tinh thần Phật giáo, chúng ta có
thể liên hệ mấy đặc tính sau đây:
* Nhân
bản
* Bình
đẳng
* Từ
bi
* Vô thường & Vô ngã
NHÂN BẢN
Điểm căn bản nhất
mà chúng ta nhận thấy được ở Phật giáo, vị Giáo
chủ không phải là một Thần linh, không phải là một Thượng
đế đầy quyền uy thưởng phạt, mà là một con người thật
sự như bao người khác. Tên Ngài là Sĩ Đạt Ta (Tất Đạt Đa), tiếng Phạn là Siddhàrtha.
Ngài thuộc giai cấp Sát Đế Lợi, dòng dõi vua chúa, con của
Vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Da. Ngài sinh ra, lớn lên, đi học;
vợ Ngài là Công chúa Da Du Đà La, con Ngài là La Hầu La. Thấu rõ
những nỗi thống khổ sinh, già, bệnh, chết..., chứng
kiến những lầm than cơ cực của dân chúng trước những bất công
của xã hội Ấn thời bấy giờ, Ngài đã từ bỏ gia đình, vợ
con, một mình ra đi tìm phương giải quyết những vấn đề ấy. Sau
những tháng năm học đạo cùng với những đạo sĩ nổi
tiếng bấy giờ, kết quả ấy cũng không giúp được cho vị đạo sĩ trẻ
tuổi thông minh Sĩ Đạt Ta giải quyết những vấn
đề bức xúc trong lòng. Cuối cùng, Ngài đã quyết định tự
mình tìm ra chân lý. Suốt 49 ngày tham thiền nhập định dưới
cội Bồ đề, khi sao Mai vừa mọc, Ngài đã thấu đạt được chân lý, hiểu
rõ được chân tướng của vạn pháp, Ngài đã giác
ngộ thành đạo, hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
Sự kiện trên đây đã hình thành
một khái niệm về tính nhân bản của Phật giáo, con
người là trung tâm của Phật giáo, hay nói một cách
khác, nếu không có nhân loại thì Phật giáo không hiện
hữu trên cuộc đời này.
Trong thế
giới quan Phật giáo, chủng loại được chia thành 6: Thiên,
Nhơn, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Trong sáu cõi
ấy, con người được ca ngợi là hội đủ điều
kiện tốt nhất để đạt đến quả vị tu chứng trong Phật
giáo. Tuy vậy các cõi ấy đều tồn tại thể hiện qua hình tướng và cuộc sống
của chúng sinh. Phật giáo giải thích rằng chúng sanh ở cõi
Thiên khó nhận thức được chân tướng khổ đau, vì cuộc sống
của họ quá ư sung sướng (đó là những hạng người có phước báu rất lớn từ
nhiều đời nhiều kiếp trước, họ sinh ra và lớn lên đều được thọ hưởng theo ý
thích của mình, mọi việc đối với họ đều diễn ra êm đẹp, suông sẽ, họ ít bị khổ
đau hành hạ, họ thường là những bậc vua chúa, quan chức, đại trưởng giả...). Trái
lại, ở các cõi A tu la, Địa ngục, Súc sanh, Ngạ
quỷ, chúng sinh vì quá si mê ngu dốt trong hoàn
cảnh tối tăm đọa đày nên cũng không dễ gì nắm bắt được giáo
nghĩa Phật Đà, (đó là những hạng người chất chứa đầy dẫy tham, sân, si...
tạo nhiều nghiệp ác từ nhiều đời nhiều kiếp trước, kể cả trong kiếp hiện tại họ
vẫn gây nghiệp, do nghiệp ác chồng chất nên họ luôn bị hành hạ khổ đau trong
quả báo luân hồi của mình, họ không thể tiếp cận Phật pháp, không biết quy
hướng về điều thiện để tích lũy công đức và phước báu cho mình). Duy chỉ có ở
cõi Nhân, bản thân con người cùng hoàn cảnh (người có
cơ duyên đủ điều kiện tiếp cận Phật pháp, thích ứng dễ dàng khơi
sáng), họ tỉnh giác và nhận thức được bản thân và cuộc đời, nhìn thấu
vào những khổ đau của nhân loại và có khả năng khơi sáng ngọn đèn trí
tuệ nơi chính tấm thân nhỏ bé này. Vì vậy, đạo Phật còn được gọi là đạo
Tỉnh Thức, đạo Giác Ngộ.
Trong quan niệm Phật
giáo, con người là chủ nhân của mọi hành vi mà
chính bản thân mình tạo ra ở cả ba thời quá khứ, hiện
tại và vị lai, là người duy nhất toàn quyền thưởng phạt cho
chính cuộc đời mình; ngoài mình ra, không bất cứ ai hoặc vị Thần
linh nào khác có khả năng đưa mình lên Thiên đàng hay đày mình
xuống Địa ngục. Kinh Pháp Cú, câu 345, Đức Phật dạy
rằng: «Chỉ có ta làm điều tội
lỗi, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm, chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ
có ta gội rửa cho ta. Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta,
không ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch«.
Lại nữa, Phật giáo luôn
luôn đề cao nỗ lực và ý chí của con người. Tinh
tấn là một trong những đức tính quyết định việc thành
tựu đạo quả Bồ đề, bến bờ Giác Ngộ chẳng bao giờ
có dấu chân của kẻ biếng lười và bạc nhược. Với những tâm
hồn khát khao tự do tuyệt đối, dốc hết sức mình cùng với
sự hiểu biết chánh pháp một cách chân chính, mỗi chúng
ta chắc chắn sẽ đạt được những thành tựu lớn, mang đến cho
mình và cho muôn loài cuộc sống an vui, phúc lạc đích thực. Bằng ngược lại, cho
dù ngàn vị Phật dang tay tế độ cũng không làm sao đưa ta thoát
khỏi biển trần lao đầy thống khổ này.
Ngoài ra, Phật giáo còn đề
cập đến những trường hợp của những thời kỳ chưa có Đức
Phật ra đời, có những con người tự lực, tự vận dụng triệt
để ý chí và khả năng của chính mình trong quá trình tư
duy, chiêm nghiệm và tu tập đúng đắn, quán
tưởng và thấu rõ lý vô thường của vạn pháp, vẫn
có thể bừng sáng được chân lý. Đức Phật công
nhận những người này là Bích Chi Phật. Tính nhân bản được thể
hiện mạnh mẽ ở điểm này. Đây là một đặc điểm ưu
việt của đạo Phật mà chúng ta khó tìm thấy ở
một giáo lý của bất cứ tôn giáo nào khác, và đạo Phật cũng
không thể gọi là tôn giáo hay tín ngưỡng, mà đạo Phật là con đường nhận thức đúng
đắn về chân lý cuộc đời. Ở đạo Phật, vị Giáo chủ Sĩ Đạt Ta luôn đề
cao khả năng của con người một cách khách quan như vậy, chứ không
thần thánh hóa uy lực và có quyền năng thưởng phạt như một Đấng tối cao. Xuất
phát từ tính nhân bản này, nhân cách con
người được tôn trọng triệt để trong Phật giáo: quyền sống,
quyền tự do, quyền bình đẳng... đều có một giá trị đích
thực. Phần này, chúng ta sẽ bàn thêm ở sau.
Điều đáng nói nhất về khả năng
của con người mà Phật giáo luôn nhấn mạnh chính
là trí tuệ. Đó là khả năng tối cao của nhân loại,
là di sản vô cùng quý báu mà bất kỳ ai nếu biết vận dụng và
phát huy đúng đắn đều có thể tận diệt mọi khổ đau, đạt
đến bến bờ hạnh phúc. Điều này đã được minh chứng cụ
thể qua đời sống của Đức Phật cùng những vị tiền
nhân kế thừa trong lịch sử đạo Phật. Đồng thời, Đức
Phật đã tuyên bố: «Tất
cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật«. Trong lịch
sử tiến hóa của nhân loại, từ cuộc sống thô sơ lạc
hậu của thời xa xưa cho đến hôm nay, những phát minh khoa học
cùng những thành quả vinh quang của nó đã đưa nhân
loại đến thời kỳ vàng son của kỷ nguyên hiện đại. Kết
quả ấy có được là do từ khả năng khối óc của con người. Dù vậy, theo phân
tích của Phật giáo, khả năng đó chỉ mới là giới hạn của một
phần trí tuệ, hay nói một cách khác, con người của
khoa học chỉ mới vận dụng được cái trí năng của thế gian, chưa phải
là đỉnh cao trí tuệ như Đức Phật đã chỉ rõ trong giáo
điển, thuật ngữ đó tạm gọi là Trí tuệ Bát nhã, và chính
trí tuệ ấy là chiếc chìa khóa vàng duy nhất để mở cánh
cửa vô sanh của Niết bàn tịch tĩnh.
Tóm lại, đối với Phật giáo, con
người vốn là một chúng sinh ưu việt, có rất nhiều tiềm
năng phi thường; nếu chúng ta khéo triển khai thì
không gì không thực hiện được trên cõi đời này. Như vậy, ta có thể
nói rằng Phật giáo là Phật giáo của con
người, xuất phát từ chân lý mà Đức Phật Thích Ca đã tìm ra,
Ngài là đấng Giác Ngộ nhưng Ngài cũng là một con người; Ngài
đã cất tiếng nói chân thật và có một đời sống rất người, và
vì con người mà khai thị chân lý, hướng dẫn con
người đến đời sống thực sự an vui.
BÌNH ĐẲNG
Chúng ta biết rằng Phật
giáo đã ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng phức
tạp của một đất nước mà trong đó, đời sống con người phải
chịu nhiều bất công, trong chế độ phân chia giai cấp lâu
đời của xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Giai cấp Bà La
Môn tập trung số người tu của 62 đạo phái khác nhau, chủ trương công
việc lễ, nghi, tế tự; giai cấp này chiếm vị trí tối
cao. Kế đến là giai cấp Sát Đế Lợi, tập trung dòng dõi vua
chúa, là giai cấp nắm quyền điều hành xã hội. Giai
cấp thứ ba là Tỳ Xá, bao gồm những người buôn bán,
tiểu thủ công và người bình dân. Đa phần còn lại thuộc giai cấp Thủ
Đà La, họ làm những nghề hạ tiện, cũng gọi là dân nô lệ. Hai giai
cấp Bà La Môn và Sát Đế Lợi thuộc giai cấp thống
trị, Thủ Đà La và Tỳ Xá thuộc giai cấp bị trị. Bốn
giai cấp này theo chế độ thế tập, cha truyền con
nối. Vì vậy, người dân nô lệ thì cứ suốt đời làm nô
lệ, tạo thành một xã hội bất công, khốn khổ.
Ngay trong buổi hoàng
hôn tăm tối của một thực trạng như vậy, một hiền
nhân thuộc dòng dõi vua chúa đã dũng
mãnh gióng tiếng chuông tiên phong, phá tan bóng đêm của
xích xiềng nô lệ và bức tường phi lý của phân
chia giai cấp bằng một châm ngôn vĩ đại: «Không có giai cấp trong dòng máu
cùng đỏ và dòng nước mắt cùng mặn«. Lời tuyên bố hùng hồn ấy
của Đức Phật là nền tảng để hình thành một hệ thống giáo
lý, mà trong đó tính bình đẳng được thể hiện trọn
vẹn cả về phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn.
Theo Phật giáo, mọi sai
biệt trên thế giới này đều tùy thuộc vào các nhân
duyên mà sinh khởi; cũng vậy, sự khác nhau về địa vị, hoàn
cảnh giàu sang hay nghèo khổ, ngu dốt hoặc thông minh...
tất cả đều hoàn toàn do hành vi tạo tác của mỗi con
người chứ không phải do tự nhiên hay được sắp đặt sẵn theo
số mệnh hoặc theo bất kỳ một thông lệ hoặc quy định nào. Dựa
trên tinh thần này, sự phân chia giai cấp trở
thành phi lý và vô nghĩa. Việc Thái tử Sĩ Đạt Ta từ
bỏ ngôi vị đế vương, quay lưng với tất cả vinh hoa phú quý,
khước từ mọi đặc ân cao tột dành cho giai cấp vua chúa,
một thân độc hành với chiếc áo thô sơ, đầu trần chân đất, vân
du đây đó... đã thể hiện tinh thần bình đẳng tuyệt
vời của Ngài. Và cũng chính Đức Phật, con
người với đời sống giản dị khiêm nhường ấy, đã thể
hiện lòng bình đẳng trong suốt cuộc đời giáo
hóa chúng sinh. Ngài rải tình thương vô biên xuống tất cả
muôn loài một cách công bằng vô phân biệt. Từ hạng người cùng
đinh như gã gánh phân, ông thợ cạo tóc cho đến những
người giàu sang phú quý, những hạng người thấp hèn ti tiện
như gái giang hồ, cho đến các bậc vua chúa quyền uy. Đức
Phật luôn thương yêu, chân tình giúp đỡ, khuyên dạy để
họ nhận thức được chân giá trị của cuộc sống và tự thăng
hoa tâm hồn, đạt đến an lạc, hạnh phúc. Lòng bình đẳng ấy
không phải dừng lại ở nhân loại mà lan tỏa đến muôn loài vạn
vật. Ngài luôn dạy rằng tất cả sinh vật đều có cùng tâm lý tham sống
sợ chết, vì vậy không vì lý do gì mà ta nỡ cướp đi mạng
sống của kẻ khác. Tâm trạng buồn nhớ mẹ của một chú cừu non lạc đàn chẳng khác
gì sự đau buồn của một người mẹ phải chia lìa với con thơ bởi một nguyên
nhân nào đó. Và vì vậy, sinh mạng của một con vật cũng quý như bất kỳ
sinh mạng của một ai. Với quan điểm này, trên bước đường du hóa,
có lần Đức Phật đã tự tay bế một chú cừu non lạc đàn tìm về với mẹ.
Và cũng chính Ngài đã lên tiếng giải thích và vạch rõ
những ngu xuẩn của bọn người vì mê tín dị đoan, làm lễ
tế thần bằng cách hiến dâng những con thú sống, để cứu lấy con vật vô tội thoát
khỏi cái chết hỏa thiêu đau đớn chỉ vì một sự tin
tưởng mù quáng.
Trong giáo điển, Phật
giáo luôn thể hiện rằng tất cả mọi loài chúng sanh, từ con
người cho đến các sinh vật nhỏ bé côn trùng đều tiềm ẩn một
khả năng phi thường như nhau, đó là khả năng thành
Phật (Phật tính). Nhưng do các đặc tính cố hữu ở mỗi loài,
việc triển khai khả năng ấy tùy đó mà khó dễ, nhanh chậm khác nhau.
Điều này có thể tóm ý trong một câu kinh: «Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành«.
Đây là nền tảng quan trọng để hình
thành tính bình đẳng triệt để trong đạo đức luân lý
Phật giáo.
TỪ BI
Từ bi là chất liệu
không thể thiếu trong Phật giáo. Từ là cảm thông, Bi là thương xót.
Đây là trọng trách thiêng liêng mà Phật giáo đã mang
trên mình đi suốt 25 thế kỷ qua, bằng mọi cách để thực hiện ở bất cứ
nơi nào. Và chính vì sứ mệnh cao cả này mà đạo Phật đã tồn
tại trên một lịch sử lâu dài của loài người, và phát
triển cũng chỉ bằng chất liệu yêu thương mà hoàn
toàn không sử dụng một bạo lực bạo quyền, không dính
dáng đến lưỡi gươm mũi súng. Chất liệu yêu thương của Phật
giáo như dòng suối mát lịm ngọt ngào đã làm cho vạn vật xanh
tươi, cỏ cây đâm chồi nẩy lộc. Cũng vậy, Từ bi đã hiện
hữu giữa cuộc đời, là thần dược xoa dịu những nỗi
đau nhân thế, hàn gắn những rạn vỡ tình người, xua tan những oán
hờn thù hận; và hơn thế nữa, giải quyết những căn bản khổ
đau của kiếp phù sinh, đưa ta đến an vui trọn vẹn.
Theo nghĩa căn bản, «Từ« nói cho đủ là Từ
năng dữ nhất thiết chúng sanh chi lạc, Bi năng bạt nhất thiết
chúng sanh chi khổ, vắn tắt «Từ năng dữ lạc, Bi năng bạt khổ«,
có nghĩa là lòng Từ thường mang niềm vui cho tất cả chúng sanh,
lòng Bi diệt mọi khổ đau cho tất cả chúng sanh. Ở lãnh vực tình
cảm, lòng thương yêu của Phật giáo có thể sánh với lòng mẹ
thương con bao la rộng rãi. Tuy vậy, khi đi sâu vào ý
nghĩa của nó, chúng ta thấy rằng lòng Từ bi là
một tình thương vượt qua mọi ranh giới, mọi quan hệ và bao
trùm lên trên tất cả muôn loài. Trong thế gian, thương yêu bao
giờ cũng đi đôi với hạnh phúc; tuy nhiên, những loại tình cảm ở đời thì
chỉ là sự ràng buộc trong một mối quan hệ có lợi ích cá nhân, một đẳng cấp, một
chủng loại, một phạm trù nào đó. Khi vượt ra ngoài phạm
trù ấy, lắm khi chúng ta lại đối xử xa lạ, hững hờ, kỳ
thị với nhau, thậm chí còn dẫn đến chống đối, tàn sát lẫn nhau một cách
khủng khiếp.
Trong khi đó, Từ bi vượt
lên tất cả mọi tình cảm hẹp hòi của thế gian, không bến bờ,
không hạn định. Lòng thương yêu ấy tuyệt nhiên không chứa
đựng bất kỳ ý niệm vì lợi ích, kỳ thị nào, dù cho đó là một tín
đồ Phật giáo hay không. Đối với Phật giáo, tất cả chúng sinh đều
là bạn hữu, và mọi nơi chốn trên thế gian này đều là quê
hương xứ sở của mình. Lòng cảm thương vô tận ấy tựa như ánh mặt
trời tỏa sáng khắp không gian, bao trùm muôn loài vạn vật,
chẳng phân biệt đây hay kia, thân hay sơ, bạn hay thù, giàu hay
nghèo, sang hay hèn, người hay vật.
Từ ý nghĩa này, Phật
giáo đã có một tinh thần khoan dung, cảm
thông và tha thứ. Chúng ta đang sống giữa một thời
đại mà quyền lực và danh vọng đang khống chế con
người, tham vọng nhân loại bùng phát một cách cùng cực, chiến
tranh liên tục xảy ra, những cuộc chạy đua kinh tế, chính trị, quân
sự đang phô bày khắp nơi trên thế giới, lửa hận thù tràn ngập
khắp hành tinh. Thảm trạng này đang là cơ hội đưa nhân
loại đến vực thẳm của diệt vong. Chính ngay lúc
này, Từ bi là chất liệu rất cần thiết cho cuộc đời; và
chỉ có vận dụng lòng thương yêu ấy của Phật giáo, chúng
ta mới thật sự có đủ năng lực dập tắt ngọn lửa chiến tranh
và hận thù đang ngút ngàn giữa buổi hoàng hôn của thế kỷ 21
này.
Đức Phật dạy: «Hận thù
không dập tắt được hận thù, chỉ có tình thương yêu
mới dập tắt được hận thù, đó là định luật của ngàn
xưa«.
VÔ THƯỜNG
VÀ VÔ NGÃ
Nhận xét về thế giới và vũ
trụ, Phật giáo khẳng định rằng mọi sự vật hiện tượng trên đời đều
không có một hình tướng nào cố định, tất cả đều luôn luôn biến đổi, chuyển
động không ngừng; hay nói cách khác, vạn pháp luôn luôn
đang biến diệt từng sát na - đây là vận động của Vô thường. Trong khi
đó, nhận thức thông thường của chúng ta tưởng chừng như mọi
sự vật đang thực sự hiện hữu và cố định; kỳ thực, tất cả đều đang
chuyển động một cách vi tế mà ta khó nhận rõ được. Nhưng nếu bình tâm
và chịu khó quan sát, ta có thể thấy được điều này; chỉ cần nhìn vào
các sự vật quen thuộc nhất trong đời sống thường nhật như các
bộ phận cơ thể, cái bàn, căn nhà v.v..., ta sẽ nhận thức được ý
nghĩa ấy. Trong cơ thể, ta nhận thấy các tế bào đang sinh khởi và biến
diệt, từng hơi thở cũng đang sinh khởi và biến diệt, ý nghĩ vọng tưởng trong
đầu đang sinh khởi và biến diệt... từ lúc sinh ra ta biến đổi dần thành lớn lên
và già đi rồi chết. Xét đến vật chất, ta thấy cái bàn khi mới được đóng thành,
nó rất mới; nhưng qua một thời gian, nó đã trở thành cũ rồi mục
rã. Và cứ thế, tất cả các sự vật cũng đều cùng tuân thủ theo một quy
luật như vậy, ta có thể nói rằng tất cả tướng trạng của sự vật đều chỉ là tạm
thời; và vì chúng luôn chuyển đổi, nên sự vật mà ta nhận
biết được chẳng qua cũng chỉ là một chuỗi thay đổi liên
tục của vô số tướng trạng từ mới đến cũ, từ trẻ đến già, từ sanh
đến diệt... Phật giáo tạm phân quá trình vận động ấy thành
4 giai đoạn «sanh, trụ, dị, diệt« hoặc «thành, trụ, hoại, không«. Đó chính là
chuỗi vận động của Vô thường tính.
Mặc khác, theo Phật giáo, tất cả các
sự vật, hiện tượng trên thế giới này đều hoàn
toàn không có một cái chủ thể nhất định, luôn luôn là duyên sanh
nương tựa vào nhau mà thành. Ví như sự có mặt của một trái quít, khi trái quít
được sinh ra cần phải có cây quít, cây quít được sinh ra cần phải có đất, nước,
không khí, sức nóng và ánh sáng mặt trời, cần phải có nơi chốn khí hậu phù hợp,
cần phải có đủ các yêu tố tự nhiên, rồi những yêu tố tự nhiên ấy có mặt nhờ vào
sự có mặt của trái đất và vũ trụ... vì vậy, trái quít có mặt trên đời là nhờ
vào duyên sinh khởi của tất cả vạn vật mà hợp thành. Con người hay bất cứ một
sự vật hiện tượng nào đều phải có nhân duyên sinh khởi như thế. Trong con người
có tất cả vũ trụ và trong tất cả vũ trụ có con người. Và vì vậy, tất cả
đều vô ngã, nghĩa là không có một tướng trạng nào nhất định,
nương nhau mà thành, bất di bất dịch. Đây gọi là Vô ngã tính.
Liên hệ đến bản
thân của mỗi người, vì không thấy rõ được sự thật của tướng
trạng này, không nhận biết được sự giả hợp của ngũ
uẩn tạo thành tấm thân này; nên ngay từ lúc lọt lòng mẹ, một cái tên gọi
cùng với nhận thức sai lầm về cái “Tôi” đã tạo thành một sự
ngộ nhận căn bản về sự hiện hữu và giá trị của
một con người. Từ đó, bản ngã và sự ích kỷ hình thành; đây chính
là xiềng xích trói buộc con người vào bao nỗi thống khổ, mà tự
chúng ta đã mang suốt cả kiếp người. Chính ảo mộng về
một cái “Tôi” và những cái “của Tôi” đã đưa đến thảm trạng chiến
tranh, hận thù cấu xé lẫn nhau.
Phật giáo đã soi
sáng chân tướng của vạn pháp bằng ánh sáng của chân
lý vô ngã. Sự soi sáng ấy không nhằm mục đích thỏa
mãn tri thức của nhân loại, mà nó mang ý nghĩa về
một sự thật của tướng trạng, của con người và thế
giới, nhằm mục đích xây dựng cho nhân
loại một nhận thức đúng đắn, hướng đến một nếp
sống cao đẹp, đầy tình người. Thật vậy, một khi chúng ta nhận
thức được bản chất thực của thân tâm mình, thấu rõ được cái gọi
là “Ta”, là “Tôi”, là “của Tôi”, chỉ là những gì rất ảo tưởng, không bền
chắc, luôn biến chuyển. Khi ấy, bức tường thành của nhận thức ích kỷ, hẹp
hòi mới thực sự sụp đổ, ranh giới của chủ nghĩa cá nhân mới
bị xóa nhòa, thành trì của bảo thủ mới thực sự bị phá vỡ,
lòng bao dung vị tha sẽ bừng sáng trong tâm
hồn mỗi con người, nhân loại xích lại gần nhau
để mỉm cười, thương yêu và cùng sống hòa bình thân ái với
nhau trong tinh thần khoan dung và tha thứ, sẵn sàng
quên đi những lầm lỗi mà chúng ta đã từng gây tạo cho nhau. Hạnh
phúc thực sự hiện hữu ngay trên quả đất này.
Tóm lại, tinh thần Vô
ngã vị tha là một trong những điểm quan trọng khiến Phật
giáo phát huy và tồn tại khi đi đến bất cứ một quốc
gia nào. Chính điểm này là một trong những căn bản tạo nên mạch
sống cho Phật giáo tồn tại cùng với lịch sử tiến
hóa của nhân loại, và bao giờ Phật giáo cũng luôn hiện
hữu chỉ vì hạnh phúc và an sinh của loài người.
Với tình trạng hiện thời của thế giới, tiếng
chuông báo động của các nhà khoa học về các mối nguy cơ của trái đất
và an sinh của loài người đang gióng lên liên tục, sinh
mệnh của nhân loại đang bị đe dọa bởi quá
nhiều nguyên nhân cũng do chính con người gây tạo ra. Ngồi
lại với nhau trong tình thương yêu, đoàn kết
liên hiệp trong cùng một chí hướng là điều quan trọng trong
việc giải quyết các vấn đề trên. Tinh thần vô
ngã vị tha, lòng từ bi, sự bình đẳng và tôn
trọng lẫn nhau là nhân tố cần thiết để thực hiện được
điều ấy.
KẾT LUẬN
Những điều vừa trình bày trên
đây: Nhân bản, Bình đẳng, Từ bi, Vô thường & Vô ngã là
những trọng điểm được đề cập trong Phật giáo, nhưng đó chính là
những yếu tố cần thiết của con người nếu muốn
tạo hạnh phúc thật sự cho chính mình và thiết lập một nền
hòa bình thực sự cho nhân loại. Như vậy, chúng ta có thể nói
rằng, Phật giáo là Phật giáo của con người,
nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản nhất của con
người. Mặc dù đối tượng của Phật giáo là tất cả chúng sinh,
nhưng con người là trung tâm điểm, là đối tượng duy
nhất để mang bức thông điệp trao cho cuộc đời, là
loại chúng sinh có khả năng tốt nhất để thực
hiện bức thông điệp ấy. Thực hiện bức thông
điệp ấy có nghĩa là phải thực sự vận dụng được những tinh
hoa Phật giáo vào trong đời sống và thân tâm của
chính mình.
Mặc dù đời
sống luôn biến đổi theo dòng chảy của thời gian, nhưng
trong sự mong manh phù du ấy của cuộc đời, ta vẫn luôn nhìn thấy
được một điều gì thật dễ thương, thật ý nghĩa, thật thú
vị giữa trần gian mộng mị. Và chỉ khi nào thực sự sống trọn
vẹn trong tinh thần cao đẹp ấy của Phật giáo, chúng
ta mới trọn hưởng niềm hạnh phúc vô biên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét