Thích Nhất Hạnh
Chương 81
Đường xưa mây trắng.
Trời
đã sáng, đại đức Anuruddha bảo đại đức Ananda:
-
Sư huynh hãy đi vào thành phố Kusinara và báo cho những người hữu
trách biết đức đạo sư của chúng ta đã diệt độ, để họ
làm những việc họ thấy cần làm.
Đại
đức Ananda vâng lời. Thầy khoác áo đi vào thành phố. Những
vị chức sắc của bộ tộc Malla đang họp bàn công vụ. Được tin đại
đức cho biết Bụt đã nhập diệt, tất cả đều đau buồn và
luyến tiếc. Họ lập tức bỏ ngang buổi nghị sự đang bàn và đề
cập tới công việc cần làm. Khi mặt trời lên tới ngọn cây thì tất cả
dân chúng trong thành phố đều biết tin Bụt đã nhập diệt tại rừng
Sala. Nhiều người đấm ngực than khóc, tiếc rằng đã không được nhìn mặt Bụt và
làm lễ Người trước khi Người nhập diệt. Dân chúng lũ lượt kéo nhau ra
rừng, người thì đem theo hoa, người thì đem theo hương,
người thì đem theo nhạc khí, người thì đem theo vải lụa. Ra
tới rừng Sala, họ quỳ lạy và rải hương hoa lên thi thể Bụt
để cúng dường. Họ cũng tổ chức vũ nhạc tang lễ truyền thống, vây
quanh chỗ nằm của Bụt. Vải lều ngũ sắc được căng lên khắp rừng. Dân
chúng đã đem theo thức ăn để cúng dường cho năm trăm
vị khất sĩ. Rừng Sala trở nên nhộn nhịp như một ngày hội. Thỉnh
thoảng đại đức Anurudda lại thỉnh một tiếng cồng ra lệnh cho mọi
người im lặng và đại đức hướng dẫn mọi người đọc
những đoạn trong Pháp Cú.
Trong
suốt sáu ngày sáu đêm, dân chúng trong hai thị trấn Kusinara và
Pava liên tục cúng dường Bụt bằng hoa, hương, vũ và nhạc. Hoa
Mandarava và các thứ hoa khác đã phủ lấp giữa hai cây sala. Đến ngày thứ bảy, tám
vị tộc trưởng của bộ tộc Malla tắm gội bằng nước ngũ hương, mặc lễ
phục và bắt đầu đưa rước thi hài của Bụt vào thành phố. Tất cả các
vị khất sĩ và dân chúng đều đi theo sau, hướng về cửa Bắc
mà vào thành, rồi lại đi ra khỏi thành bằng cửa Đông và dừng lại trước sân đền
Makuta-bandhana, ngôi đền chính của bộ tộc Malla. Thi hài Bụt được an táng ngay
trước đền.
Các
vị chức sắc kinh thành ra lệnh làm lễ hỏa táng Bụt theo nghi
thức hỏa táng của một vị Chuyển Luân Thánh Vương. Thi hài Bụt
được vấn bằng vải mới, rồi đến bông gòn, rồi đến vải mới, cứ như thế
cho đến nhiều lớp vải và bông. Sau cùng thi hài được đặt trong một áo
quan bằng sắt, và áo quan này lại được đặt trong một áo
quan bằng sắt lớn hơn nữa.
Kim
quan được đưa lên một hỏa đàn vĩ đại chất toàn bằng các
loại gỗ thơm.
Giờ
châm lửa hỏa đàn đã đến. Bốn vị tộc trưởng bộ tộc Malla tiến
tới; họ vừa định làm lễ châm lửa hỏa đàn thì bỗng có một vị sứ
giả đi tới bằng ngựa. Vị sứ giả này cho biết đại
đức Mahakassapa đang lãnh đạo năm trăm vị khất sĩ tiến
về Kusinara. Đại đức và các vị khất sĩ đang ở giữa chặng
đường Pava và Kusinara. Nghe nói thế, đại đức Anuruddha liền đề
nghị hoãn lại giờ hành lễ để chờ đại
đức Mahakassapa và đoàn khất sĩ.
Đại
đức Mahakassapa đã khởi hành từ Campa để đi hành
hóa miền Bắc. Tới Vesali, đại đức được tin Bụt tuyên
bố sẽ nhập niết bàn trong ba tháng và hiện Người đang đi về
hướng Bắc. Đại đức liền lên đường đi tìm Bụt, tới đâu cũng
có các vị khất sĩ xin đi theo. Khi đại đức tới
Bhandagama, số các vị khất sĩ đi theo đã lên tới năm trăm vị.
Rời
Pava, đại đức gặp một khách bộ hành đi ngược chiều, túi áo có cài hoa
sala. Người này cho đại đức biết Bụt đã nhập diệt tại rừng
Sala ở Kusinara từ bảy hôm trước. Đóa hoa trên áo đã được nhặt lên từ trong
rừng nơi chỗ Bụt nhập diệt. Nghe tin, đại đức Mahakassapa
không còn chần chừ nữa, liền tiếp tục hướng dẫn đoàn khất
sĩ đi về Kusinara. Nhân gặp một người đi ngựa cùng hướng, đại
đức nhờ người này phi nhanh tới trước và nhắn tin cho đại đức Ananda
biết là đại đức và năm trăm vị khất sĩ khác đang
trên con đường tới dự lễ trà tỳ của Bụt.
Mặt
trời vừa đứng bóng thì đại đức Mahakassapa và đoàn khất
sĩ tới được đền Makuta-bandhara, nơi dựng hỏa đàn của
lễ trà tỳ. Tới nơi, đại đức trật áo tăng già
lê bên vai phải, chắp tay, cung kính và im lặng, độc
hành quanh hỏa đàn ba lần. Rồi đại đức dừng lại, chắp
tay hướng về nhục thân Bụt để lạy xuống. Năm trăm vị khất sĩ đi
theo cũng đồng thời lạy xuống. Đại đức vừa lạy xong ba
lạy và đứng lên thì hỏa đàn đột nhiên bốc lửa lớn. Tất cả các
vị khất sĩ đều quỳ xuống chắp tay hướng về hỏa đàn. Hàng
ngàn người có mặt cũng đều làm như thế. Đại đức Anuruddha lại thỉnh
chuông và hướng dẫn mọi người đọc những đoạn pháp về vô
thường, vô ngã, xả ly và giải thoát. Giọng đọc trầm
hùng vang dội khắp một vùng.
Sau
khi lửa đã cháy tàn, nước thơm được tưới lên giàn hỏa. Kim quan được
thỉnh xuống, mở ra và xá lợi của Bụt được các vị tộc trưởng thâu lượm
và an trí trong một chậu vàng đặt trên bàn thờ trung ương
trong đền. Các vị khất sĩ lớn được thay phiên canh
giữ và bảo vệ xá lợi của Người.
Tin
Bụt diệt độ ở Kusinara đã được báo về các thủ đô từ nhiều hôm trước.
Sứ đoàn các nước đã cử đến chiêm bái và thỉnh một phần xá
lợi của Bụt về các tòa tháp được xây dựng trang nghiêm hoành tráng. Đại
diện Magadha, Vesali, Sakya, Koliya, Bulaya, Pava và Vetha đều có một phần
xá lợi của Bụt. Xá lợi Bụt đã được chia ra làm tám phần để an
trú trong tám chiếc bảo tháp tại địa phương họ: người Magadha sẽ
xây tháp ở Rajagaha, dân Licchavi sẽ xây tháp ở Vesali, dân Sakya sẽ xây tháp ở
Kapilavatthu, dân Buli sẽ xây tháp ở Allakappa, dân Koliya sẽ xây tháp ở
Ramagama, dân Vetha sẽ xây tháp ở Vethadipa, dân Malla sẽ xây tháp một tháp ở
Kusinara và một tháp khác ở Pava.
Khi
các sứ đoàn đã ra về; một ngàn vị khất sĩ cũng tuần tự giải
tán và trở về trú sở của mình để hành đạo. Các đại
đức Mahakassapa, Anaruddha và Ananda cũng đưa bình bát của Bụt
về tu viện Trúc Lâm.
Chưa
đầy một tháng sau, đại đức Mahakassapa quyết định triệu tập
một đại hội quan trọng với sự có mặt của các vị khất sĩ, tụ về
thủ đô Rajagaha để ôn lại những lời dạy của Bụt và kết tập tất cả
những lời Người đã thuyết giảng thành kinh và luật. Đại hội gồm năm
trăm vị khất sĩ có thật tu và thật chứng nghiệm được chọn lựa
trong giáo đoàn khất sĩ. Đại hội sẽ khai mạc vào đầu mùa an
cư tới và sẽ kéo dài trong sáu tháng.
Đại
đức Mahakassapa thường được các vị khất sĩ trong giáo
đoàn tôn trọng như vị đại đệ tử Bụt, sau các vị Kondanna,
Sariputta, và Moggallana. Đại đức nổi tiếng là người ưa
sống đơn giản và đạm bạc. Đại đức đã được Bụt tin
tưởng và thương mến không khác gì các đại
đức Moggallana và Sariputta. Hơn hai mươi năm trước, áo cà
sa sanghati của đại đức là một chiếc áo bách nạp kết lại bằng
hàng ngàn mảnh vải vụn. Có lần đại đức đã xếp tư chiếc áo ấy và trải
ra trong rừng mời Bụt ngồi. Đại đức đã ngỏ ý cúng
dường Bụt chiếc áo bách nạp ấy. Bụt mỉm cười nhận lời và tặng
lại đại đức chiếc áo sanghati của chính Người. Trong đại chúng,
ai cũng biết chuyện này. Đại đức là người đã mỉm cười khi
Bụt đưa cành sen lên mà không nói gì ở giảng đường Cấp Cô Độc, là Người
đã tiếp nhận được “kho tàng của con mắt chánh pháp” do Bụt trao
truyền.
Vua
Ajatasattu đứng ra bảo trợ đại hội kết tập kinh luật này.
Trong đại hội, đại đức Upali vốn nổi tiếng về luật học
đã được mời lên ôn lại giới luật. Nhờ những câu hỏi của đại
đức Mahakassapa mà đại đức Upali nhắc lại được hết
những nhân duyên, do đó các giới luật được thiết lập.
Đại
đức Ananda được đại hội thỉnh lên trùng tuyên tất cả những
bài pháp thoại của Bụt nói, và tập kết lại nội dung gọi là kinh. Nhờ
những câu hỏi của đại đức Mahakassapa và của đại
chúng mà đại đức Ananda có dịp nói ra hết những chi
tiết về thời gian, nơi chốn và cơ duyên đã đưa
tới mỗi bài pháp thoại của Bụt.
Cố
nhiên là các đại đức Upali và Ananda không thể nhớ hết được tất cả
mọi chi tiết; vì vậy sự có mặt của năm trăm vị khất
sĩ có thật học và thật chứng trong đại hội đã bổ túc cho
hai đại đức rất nhiều. Tất cả những tài liệu về giới và
luật sau khi kết tập được gom lại thành một kho tàng luật học được
gọi là Luật tạng -vinaya pitaka. Tất cả những tài
liệu về giáo lý được gom thành một kho tàng kinh
giáo gọi là Kinh tạng -sutta pitaka. Các kinh Bụt nói được phân
làm bốn bộ, căn cứ trên sự dài ngắn của kinh và cũng được xếp
đặt theo đề tài và pháp số. Về luật, đại
đức Ananda có thông cáo với đại hội là Bụt đã
từng dặn rằng sau khi Người diệt độ, những giới điều nhỏ nhặt có thể được
bỏ bớt. Đại hội hỏi đại đức Ananda xem Bụt có nói rõ là
những giới điều nhỏ nhặt ấy là những giới điều nào không, đại
đức trả lời và vì đại đức không hỏi nên Bụt đã không
nói. Đại hội thảo luận rất lâu về vấn đề này
và cuối cùng quyết định giữ lại tất cả mọi giới điều,
trong giới bản khất sĩ cũng như trong giới
bản nữ khất sĩ, đã có khoảng hai trăm năm mươi giới điều được tập kết.
Nhớ
lời Bụt, đại hội không chấp nhận việc dịch các kinh văn
ra cổ ngữ của truyền thống Vệ Đà. Ngôn
ngữ Ardhamagadhi được xem như là sinh ngữ chính của Tạng
kinh và Tạng luật. Đại hội khuyến khích việc phiên
dịch kinh văn ra các sinh ngữ địa phương để dân chúng các nước có
thể học hỏi và hành trì giáo lý bằng tiếng mẹ đẻ của
họ. Đại hội cũng khuyến khích việc tăng cường số lượng các
vị bhanaka, có nhiệm vụ tụng đọc thường xuyên các kinh văn
để phổ biến và truyền tụng trong hiện tại và
trong vị lai.
Đại
hội hoàn mãn, mọi người lại trở về trú sở để tu
học và hành hóa.
*****
Trên
bờ sông Neranjara, đại đức Svastika đứng nhìn dòng nước chảy. Mấy em
bé chăn trâu ở phía bờ bên kia đang lùa bầy trâu xuống sông
để lội qua bên này. Mỗi em bé đều có mang theo liềm và giỏ. Bên này
sông, cỏ kusa đã lên xanh mướt. Các bé đang làm y hệt như đại
đức Svastika trước đây bốn mươi lăm năm. Chúng để trâu ăn cỏ trong
khi chúng dùng liềm cắt cỏ kusa cho thật đầy những chiếc giỏ đem theo.
Dòng
sông này ngày xưa Bụt thường xuống tắm. Cây Bồ đề vẫn xanh tốt
như tự bao giờ. Đại đức đã tới đây từ chiều hôm qua và đã ngủ đêm
dưới cội cây thân yêu đó. Rừng không còn hoang vu như xưa,
bởi vì cây Bồ đề đã trở nên quá nổi tiếng. Cây Bồ
đề đã trở thành một nơi để thiên hạ đến chiêm bái, vì
vậy khu đồi đã được dọn dẹp sạch sẽ, không còn rậm rạp và nhiều gai
góc như ngày xưa.
Đại
đức Svastika may mắn có mặt trong đại hội kết tập kinh
và có cơ duyên nghe lại hết kinh luật. Đại đức năm nay đã
năm mươi sáu tuổi. Người bạn tu thân thiết nhất của đại
đức là đại đức Rahula đã viên tịch trước đây năm năm.
Rahula đã được các đại đức lớn công nhận là một
vị khất sĩ có chí nguyện và hành động lớn. Tuy là con nhà
vương giả, đại đức Rahula đã học được nếp sống đơn
giản và bình dị. Công đức hóa độ của ngài rất lớn
nhưng ít ai biết đến, vì đại đức Rahula không hề có tính khoe
khoang; trái lại đại đức rất kín đáo và khiêm nhường. Tuy lớn
hơn đại đức Rahula, nhưng đại đức Svastika đã học được rất
nhiều từ người bạn của mình. Đại đức Svastika cũng đã được theo Bụt
trong chuyến đi cuối cùng của Người từ Rajagaha đến Kusinara và đã
được chứng kiến những ngày giờ cuối cùng mà Bụt còn tại thế.
Đại
đức còn nhớ trên đường từ Pava đến Kusinara, đại đức đã
nghe ngài Ananda hỏi Bụt dự định đi tới đâu. Bụt trả lời: “Đi về
phương Bắc”. Lúc ấy, đại đức Svastika có cảm tưởng là
mình đã hiểu được Bụt. Suốt cuộc đời, Bụt đã đi, nhưng Người chỉ đi để mà
đi chứ không cần tới. Vì vậy, nên Người cứ đi thong thả, mỗi
bước chân của Người đưa Người tới phút giây hiện tại. Sự sống chỉ có mặt
trong giờ phút hiện tại, ngay ở chỗ mình đứng. Đại đức Svastika
thấy Bụt hướng về phía Bắc mà đi, cũng như một con voi chúa hướng về quê
hương của nó, khi nó biết đã tới lúc để trở về. Bụt đâu cần phải về tới
Kapilavatthu hoặc vườn Lumbini mới có thể nhập Niết bàn. Hướng về phương
Bắc là đủ. Kusinara cũng chính là vườn Lumbini vậy.
Cũng
chính vì nghĩ như thế mà đại đức đã về đây, bên bờ sông Neranjara này
là quê hương của ngài. Đại đức thấy mình vẫn còn là cậu
bé chăn trâu mười một tuổi, một mình phải chăn cả bầy trâu cho
người khác để nuôi ba đứa em thơ. Thôn Uruvela vẫn còn đó với những cây đu đủ
sai trái trước mọi nhà. Những cánh đồng lúa vẫn còn, con sông hiền
lành vẫn chảy. Lũ trâu hiền từ và các em bé chăn
trâu vẫn còn giữ trâu, tắm trâu và cắt cỏ như những ngày nào. Tuy chị
Sujata không còn đây, tuy ba đứa em đã có chồng có vợ đi làm ăn xa xứ, thôn
Uruvela và bờ sông Neranjara vẫn là quê hương của đại đức. Đại
đức nhớ lại lần đầu gặp vị sa môn trẻ Siddhatta đi thiền
hành trong rừng, nhớ lại những bữa cơm trưa được ăn chung với vị sa
môn và với các em bé khác trong làng dưới gốc cây Pipala râm
mát. Tất cả những hình ảnh đó tuy đã qua đi nhưng vẫn còn là hiện
thực. Đại đức biết rằng nếu muốn, đại đức có thể làm cho
những hình ảnh đó trở thành hiện tại. Một lát nữa đây, khi
bọn trẻ đưa trâu sang tới bờ bên này, đại đức sẽ đến làm quen với
chúng. Đứa nào cũng đang là Svastika. Đại đức cũng vẫn là Svastika.
Nếu một ngày năm xưa đã đưa đại đức vào con đường an
lạc giải thoát thì hôm nay đại đức cũng sẽ đưa các em bé
này vào con đường an lạc giải thoát.
Đại
đức Svastika mỉm cười. Tháng trước tại Kusinara, thầy có
nghe đại đức Mahakassapa kể chuyện vị khất sĩ Subhada.
Vị khất sĩ này cùng đi với đại đức từ trên đường từ Pava
tới Kusinara. Khi nghe tin Bụt nhập diệt, vị này đã tỏ
ý mừng rỡ, ông ta nói: “Ông già đã tịch rồi, không còn ai kiểm
soát và rầy la mình nữa, sướng quá”. Nghe nói như thế
đại đức Mahakassapa đã ngạc nhiên mở tròn hai mắt nhìn
vị đại đức trẻ tuổi Subhada này. Sao mà trong giáo đoàn của
Bụt lại có người dại dột đến thế, đại đức nghĩ, nhưng cuối
cùng, đại đức đã không la rầy vị khất sĩ Subhada kia
một lời nào.
Đại
đức Mahakassapa không rầy la thầy Subhada, nhưng đại
đức Svastika nghe nói rằng đại đức Mahakassapa đã rầy
la đại đức Ananda, dù đại đức Ananda là một vị đại
đức lớn, trên đầu đã có lấm tấm hoa râm. Ai cũng biết rằng trong đại
hội kết tập kinh luật, sự có mặt của đại đức Ananda là
rất cần thiết, vậy mà chỉ ba hôm trước ngày khai mạc đại
hội, đại đức Ananda đã bị sư huynh Mahakassapa khiển trách
và dự tính sẽ không chấp nhận vào trong số năm trăm
vị khất sĩ thành viên của đại hội. Lý do đưa ra
là đại đức Ananda tuy kiến thức về đạo lý uyên
bác, nhưng sự chứng đắc chưa được vững vàng. Ai cũng e ngại đại
đức sẽ phật ý bỏ đi. Ai ngờ đại đức Ananda đã đóng
cửa tĩnh tu trong suốt ba ngày đêm. Ngay trong đêm cuối
cùng trước ngày khai mạc đại hội, đại đức đã khai tâm đại
ngộ. Theo các bạn tu kể lại, việc này xảy ra lúc giữa giờ Sửu. Thiền
tọa suốt đêm đến gần sáng, đại đức mới chịu ngã lưng xuống
để nghỉ ngơi, chính vào lúc mà đại đức ngã lưng xuống thì đại
đức đạt tới giác ngộ. Sáng hôm đó, khi gặp đại đức Ananda,
nhìn vào mặt đại đức, đại đức Mahakassapa biết ngay việc gì đã
xảy ra. Đại đức mời ngay đại đức Ananda vào tham
dự đại hội mà không cần nói thêm một lời hỏi han nào khác.
Nắng
lên cao, những đám mây trắng nhỏ vẫn còn lơ lững trên nền trời xanh
biếc. Bờ sông bên kia vẫn xanh mướt cỏ non. Con đường bờ sông
này ngày xưa Bụt đã qua lại nhiều lần. Con đường bờ sông
này có thể dẫn về Banarasi, có thể dẫn về thủ đô Savatthi, có thể dẫn về thủ đô
Rajagaha, mà cũng có thể dẫn đi khắp chốn. Bụt đã ghi dấu chân trên
mọi nẻo đường hành hóa. Đi đâu đại đức cũng sẽ bước
theo dấu chân của Người. Đường xưa còn đó, những đám
mây trắng vẫn còn, nếu mình bước một bước trên con
đường này, bước với tâm trạng an nhiên và tỉnh thức, thì con
đường ngày xưa và những đám mây trắng cũng sẽ mầu
nhiệm biến thành con đường của ngày hôm nay và những đám
mây trắng bay lững lờ trong hiện tại. Những đám
mây trắng ngày xưa còn đó và con đường ngày
xưa hiện thực nằm dưới chân ta.
Bụt
đã nhập diệt, nhưng nhìn vào đâu đại đức cũng thấy sự có mặt của
Người. Hạt giống Bồ đề đã được gieo trồng nuôi dưỡng khắp
nơi trong thế gian này; những hạt giống ấy đã nứt mầm và mọc lên tươi
tốt. Bốn mươi mấy năm về trước đã có ai nghe nói tới Bụt đâu, đã có ai nghe nói
đến đạo lý tỉnh thức đâu; vậy mà bây giờ đây, không
nơi nào mà không có bóng dáng những vị khất sĩ áo vàng,
không nơi nào mà không có những trung tâm tu học. Các bậc vua chúa
cũng đã quy y. Các giới trí thức và quyền quý cũng
đã quy y, các giới nghèo khổ bị xã hội khinh miệt nhất
cũng đã quy y và đã tìm thấy trong đạo tỉnh
thức con đường giải phóng cho thân phận và cho tâm
linh mình. Bốn mươi năm về trước, Svastika chỉ là một chú bé chăn
trâu nghèo khổ thuộc giới ngoại cấp. Bây giờ Svastika đã
trở nên một vị khất sĩ vượt thoát xích xiềng của giai cấp,
của mặc cảm, đứng lên trên mọi sự kỳ thị và bất công. Svastika đã từng
được các quốc vương thỉnh mời và chào hỏi với tất cả
niềm cung kính của họ. Bụt là ai mà công năng giải
phóng lớn lao như vậy? Đại đức Svastika vừa nhìn các em
bé chăn trâu đang cắt cỏ bên bờ sông vừa đặt câu hỏi ấy. Tuy một số
các đại đệ tử của Bụt đã nối tiếp nhau viên tịch, giáo
đoàn khất sĩ vẫn còn đầy những vị đại đức xuất sắc, trong
đó có rất nhiều giới trẻ, Bụt như hạt giống của một cây Bồ
đề vĩ đại; Hạt giống không mất; hạt giống đã trở
thành cây Bồ đề. Bụt đã từng dạy không có gì từ có mà trở nên không. Bụt
chỉ hóa thân nhưng chẳng hề
biến diệt. Những ai có pháp nhãn nhìn vào giáo đoàn là sẽ
thấy Bụt. Người có pháp nhãn nhìn vào các vị khất sĩ trẻ
có đạo phong, có đức độ và có tuệ giác thì cũng thấy
Bụt. Đại đức Svastika thấy mình có bổn phận phải chăm lo vun
tưới cho pháp thân Bụt. Pháp thân đó là giáo
pháp và giáo đoàn. Chừng nào giáo pháp và giáo
đoàn còn hưng thịnh thì chừng đó Bụt còn hiển hiện giữa muôn
loài.
Nhìn
các em bé đã qua tới bên này sông, đại đức lại mỉm cười. Nếu ta
không tiếp tục sự nghiệp của Bụt để đem lại bình
đẳng, an lạc và giải phóng cho các em bé này, thì ai sẽ
làm? Bụt chỉ mới bắt đầu công cuộc chuyển đổi. Môn đệ của Người
sẽ cần phải có trách nhiệm kế tiếp sự nghiệp của Người.
Những hạt giống Bồ đề mà Bụt đã gieo trồng sẽ
còn tiếp tục nẩy mầm và bén rễ trong cuộc sống. Đại
đức thấy mình phải cẩn trọng gìn giữ và vun tưới thân tâm
để những hạt giống ấy được mọc lên thành những cây Bồ
đề tươi tốt. Người ta nói Bụt đã nhập diệt nhưng thầy Svastika
lại thấy Bụt hiện thực hơn bao giờ hết. Chính thân tâm của
thầy cũng mang theo sự có mặt của Bụt.
Nhìn cây
Bồ đề, nhìn dòng sông Neranjara, nhìn bờ cỏ xanh mướt, nhìn làn
mây trắng, nhìn khung trời trong xanh, nhìn chiếc lá Pipala rung rinh
trước gió, đại đức thấy ở đâu cũng có Bụt. Những em bé chăn
trâu đang bắt đầu cắt cỏ bên bờ sông kia cũng là Bụt. Đại
đức nhận thức được mối liên hệ giữa mình và các em bé ấy,
và biết rằng mình sẽ phải nói gì và sẽ phải làm gì để các em bé ấy trở
thành sự tiếp nối của Bụt. Đại đức Svastika thấy rõ phương
cách tiếp nối sự nghiệp của Bụt là nhìn mọi vật một
cách tỉnh thức như Bụt đã nhìn, bước những bước chân
thanh thản như Bụt đã bước, và mỉm cười nụ cười từ
bi như Bụt đã cười. Bụt là suối nguồn. Thầy Svastika và các em
bé chăn trâu bên bờ sông là những dòng sông liên tục chảy
từ suối nguồn đó. Dòng sông đi tới đâu là Bụt đi tới đó.
----- Hết -----