Thiền sư Ajahn Chah
Minh Vy dịch Việt ngữ
PHẦN 2
THIỀN ĐỊNH
CHƯƠNG 22
TRONG MÀN ĐÊM DÀY ĐẶC.
Đừng chạy theo cảm xúc của bạn.
Hãy huấn luyện chính mình.
Trong sự tu hành, bạn cần phải đánh liều mạng sống.
Trời đã về chiều, và
tôi không có gì khác để làm. Nếu tôi suy nghĩ thêm, tôi biết tôi sẽ không đi,
nên tôi kéo một sa di, và chúng tôi cùng đi. “Đã đến lúc phải nhìn vào sự sợ
hãi của mình”, tôi tự nhủ. “Nếu cuộc sống tôi đã tận, thì để nó tận. Nếu tâm
tôi cứ ngoan cố và vô minh như thế này mãi, thì để nó chết cho rồi”. Tôi nghĩ
như thế. Thật ra, tôi không muốn đi, tôi tự ép mình đi. Với những việc như thế
này, nếu bạn đợi cho đến khi đúng thời điểm, bạn sẽ không bao giờ đi. Cho nên,
tôi cứ đi đại.
Tôi chưa bao giờ ở
trong một nghĩa địa. Đó là một cảm giác vô cùng khó tả. Đứa sa di muốn cắm lều
ngay bên cạnh tôi, nhưng tôi không chịu. Tôi buộc nó phải ở cách tôi rất xa.
Thật ra tôi rất muốn nó ở bên cạnh, nhưng tôi không cho phép điều này xảy ra.
“Nếu sự sợ hãi sẽ kinh
khiếp, hãy để nó chết trong đêm nay”. Tôi thách thức chính mình. Tôi sợ, nhưng
tôi cũng can đảm. Trước sau gì bạn cũng chết thôi.
Đến gần tối, thì tôi
có cơ hội. Từ trong làng, người ta khiêng ra một cái xác chết. Hay quá! Tôi
không cảm thấy bàn chân của mình nữa, tôi muốn chạy khỏi đó ngay. Họ muốn tôi
làm lễ cầu siêu, nhưng tôi không làm. Tôi bỏ đi nơi khác. Khi họ đi rồi, tôi
mới quay lại. Tôi nhìn thấy họ chôn cái xác chết gần cạnh chỗ tôi. Tôi cầm mấy
cây tre mà họ khiêng xác chết để lót chỗ ngồi cho mình. Bây giờ tôi làm gì đây?
Làng mạc thì cách đây khá xa, khoảng ba cây số.
“Được, nếu phải chết
thì chết thôi”.
Nếu bạn không dám làm
điều này, bạn sẽ không bao giờ biết nó như thế nào. Thật là một kinh nghiệm nhớ
đời. Trời tối dần, và tôi không biết mình phải chạy đi đâu trong cái nhà mồ đó.
“Ôi, cứ chết đi, người
ta sinh ra là để chết mà”.
Tôi không muốn đi kinh
hành. Tôi chỉ muốn vào trong mùng. Mỗi khi tôi thử cố đi về phía cái xác, thì
làm như có thứ gì kéo tôi lại, không cho tôi đi tiếp. Tôi có cảm giác như sự sợ
hãi và lòng can đảm của tôi đang đấu tranh kịch liệt. Nhưng tôi đã đi. Bạn phải
huấn luyện mình như vậy.
Khi trời tối, tôi vào
ngồi trong mùng. Tôi có cảm tưởng như có bảy lớp tường bao quanh mình. Nhìn
thấy cái bát ăn quen thuộc bên cạnh mình, tôi cảm thấy rất an ủi. Nó giống như
một người bạn cố tri của tôi. Phải, đôi lúc, ngay cả cái bát cũng có thể làm
bạn! Tôi ngồi trong mùng quan sát cái mộ suốt đêm. Tôi không nằm xuống và cũng
không ngủ. Tôi chỉ ngồi yên lặng. Dầu có muốn ngủ, tôi cũng không ngủ nổi. Tôi
quá sợ, nhưng tôi vẫn ngồi đó. Suốt đêm.
Có ai trong chúng ta ở
đây dám làm như thế? Bạn dám ngồi suốt đêm trong nhà mồ không? Nếu bạn không
thể làm thế, bạn không thật sự biết tu hành.
Khi trời sáng, tôi nói
với mình, “Ồ! Tôi vẫn còn sống!” Tôi rất vui. “Có gì đâu”, tôi nghĩ. “Chỉ là sự
sợ hãi của mình thôi”.
Sau khi đi khất thực
và ăn uống đầy đủ, tôi cảm thấy sảng khoái. Trời nắng ấm. Tôi nghĩ ngơi một
chút rồi đi kinh hành. “Đêm nay mình nên có một buổi thiền tốt và yên lặng, bởi
mình đã trải qua tất cả đêm qua rồi”, tôi suy nghĩ, “Chắc không còn gì khác nữa
đâu”.
Rồi, chiều hôm đó,
người ta khiêng đến một xác chết thật lớn. Có lẽ lần này sẽ dễ sợ hơn lần
trước. Họ mang cái xác vào và hỏa táng ngay bên cạnh chỗ ngồi của tôi, ngay
phía trước. Tôi nghĩ, “Được lắm. Hỏa táng cái xác ngay đây sẽ giúp cho tôi”.
Lần này tôi cũng không chịu làm lễ cầu siêu cho người dân làng. Tôi đợi cho họ
về trước khi quay trở lại.
Rồi tôi ngồi đó và
quan sát cái xác chết bị thiêu đốt đó suốt đêm. Không có gì diễn tả được nỗi sợ
của tôi. Trong đêm đen – ngọn lửa từ xác chết cứ chập chờn và nổ lách tách. Tôi
muốn đi kinh hành trước cái xác chết, nhưng không đủ can đảm làm thế. Mùi hôi
thối bốc ra từ xác chết đang cháy. Cuối cùng tôi cũng phải vào trong mùng.
Tôi quay lưng về phía
ngọn lửa. Tôi quên cả ngủ, tôi cũng chẳng nhớ đến điều đó nữa. Mắt tôi cứng đơ
vì sợ hãi. Không có ai ở gần đó, không có nơi nào để lẫn tránh trong cái đêm
đem nghịt đó.
“Được, tôi sẽ ngồi, và
chết ở đây. Tôi sẽ không rời khỏi chỗ này”.
Một cái tâm bình
thường có muốn đặt bạn vào một tình huống như vậy không? Nếu bạn cứ lý luận với
nó, bạn sẽ không bao giờ đi. Ai lại muốn đi làm một việc như thế? Nếu bạn không
có niềm tin mãnh liệt vào giáo lý của Đức Phật, bạn sẽ chẳng bao giờ làm thế.
Lúc đó là khoảng 10
giờ tối, tôi ngồi quay lưng về phía ngọn lửa. Tôi không biết đó là gì, nhưng có
tiếng sột soạt từ phía ngọn lửa sau lưng tôi. Không lẽ cái xác vừa sụp đổ? Hay
có lẽ một con chó đang đến gần cái xác chết? Nhưng không, tiếng động này giống
tiếng bước chân chậm chạp của một con trâu.
“Thôi đi, mặc kệ nó…”.
Nhưng nó bắt đầu đi về
phía tôi, như thể nó là một con người! Nó đi tới phía sau tôi, bước chân nặng
nề, giống như bước chân của một con trâu, nhưng không phải thế. Có tiếng lá bị
giẫm khi nó đi vòng ra phía trước. Làm sao đây? Tôi chạy đi đâu bây giờ? Nhưng rõ ràng là nó đi đến trước mặt tôi. Rồi
nó đi vòng lại và đi về hướng người sa di. Sự yên lặng trở lại. Tôi không biết
đó là gì, nhưng sự sợ hãi khiến tôi suy đoán đủ thứ.
Đâu chừng nửa giờ sau,
thì bước chân đó bắt đầu quay trở lại. Cứ như là một người! Lần này nó đi thẳng
về phía tôi, đâm thẳng vào như thể sắp giẫm lên người tôi. Tôi nhắm mắt thật
chặt và nhất định không mở ra.
“Tôi sẽ chết nhắm
mắt”.
Nó đến gần dần, gần
dần, và ngừng ngay trước mặt tôi, nó đứng sững lại. Tôi có cảm tưởng là nó đang
đưa cái bàn tay cháy đen của nó vào mặt tôi. Ồ, tôi chịu hết nổi rồi! Tôi muốn
vứt bỏ hết mọi thứ, bỏ luôn Phật, Pháp, Tăng. Tôi quên hết tất cả. Chỉ có sự
kinh hoàng tột độ. Tôi không nghĩ đến chuyện gì khác nữa. Từ ngày sinh ra đến
giờ, tôi chưa bao giờ sợ hãi đến thế. Phật và Pháp biến mất hết, tôi không biết
chúng đi đâu. Chỉ có sự sợ hãi dâng tràn trên ngực, nó như miếng da đang căng
cứng trên mặt trống.
“Cứ vậy. Tôi làm gì
bây giờ?”
Tôi ngồi mà không cảm giác
có mặt đất. Nỗi sợ quá lớn lấp đầy tâm trí tôi như một cái bình nước đầy. Nếu
bạn đổ nước vào bình cho đến khi bình
đầy nước, mà vẫn cố đổ thêm nữa, nước sẽ tràn ra ngoài. Nỗi sợ trong lòng tôi
lúc đó cũng như thế. Nó gần như đã đến tột đỉnh và sắp tràn ra ngoài.
“Nhưng ngươi sợ cái gì
chứ?” Một giọng nói bên trong hỏi tôi.
“Tôi sợ chết”, giọng
nói khác đáp lại.
“Thế à, nhưng cái
“chết” này ở đâu vậy? Tại sao hoảng sợ đến thế? Hãy nhìn xem sự chết này ở
đâu?”
“Tại sao chứ, sự chết
ở trong tôi mà!”
“Nếu sự chết ở bên
trong bạn, thì bạn chạy đi đâu để trốn nó đây? Nếu bạn chạy trốn, bạn chết. Nếu
bạn ở lại đây, bạn cũng chết. Bạn đi tới đâu, cái chết đi theo bạn tới đó, bởi
vì cái chết nằm ngay bên trong bạn. Sợ hay không sợ, bạn cũng chết. Không có
nơi nào có thể tránh được cái chết.
Vừa nghĩ như thế, sự
nhận thức của tôi đảo ngược hoàn toàn. Tất cả sự sợ hãi tan biến, dễ dàng như
trở bàn tay. Thật là kinh ngạc. Sợ hãi nhiều như vậy, mà lại có thể tan biến
trong chớp nhoáng! Cảm giác không sợ
đã thay thế vào đó. Tâm của tôi lúc bấy giờ, cứ đi lên cao dần cho đến khi tôi
cảm tưởng mình đang ở trên mây.
Tôi vừa chế ngự được
sự sợ hãi, thì trời bắt đầu mưa. Gió rất mạnh. Nhưng tôi không sợ nữa. Tôi cũng
không sợ những nhánh cây có thể gãy đổ đè lên tôi. Tôi không quan tâm đến nó.
Trời mưa tầm tả, mưa như trút nước. Khi trời ngừng mưa, mọi thứ đều ướt đẫm.
Tôi ngồi bất động.
Ướt nhèm như thế, tôi
làm gì sau đó. Tôi khóc! Nước mắt chảy xuống má tôi. Tôi nghĩ, “Tại sao tôi
ngồi đây giống như một đứa trẻ mồ côi, ướt nhẹp, như một người vô gia cư, như
một người bị lưu dày vậy?”
Và rồi tôi nghĩ thêm,
“Tất cả những người nằm thoải mái trong nhà lúc này có lẽ không bao giờ nghĩ
rằng có một vị sư ngồi đây, tắm mưa suốt đêm như thế này. Làm vậy để làm gì?”
Nghĩ thế rồi tôi bắt đầu thấy tội nghiệp cho mình, nên nước mắt tuôn tràn.
“Những giọt nước mắt
này có gì tốt đâu, cứ để chúng chảy ra hết”.
Tôi tu hành như vậy
đó.
Sau khi chế ngự cảm
xúc của mình, tôi ngồi đó và quan sát mọi thứ bên trong. Có quá nhiều thứ phát
sinh, tôi không thể diễn tả được. Rồi tôi nhớ đến lời Đức Phật: “Kẻ trí sẽ tự
mình biết”.
Kinh nghiệm này tôi đã
trải qua, chỉ tôi mới hiểu mà thôi. Một nỗi sợ kinh hoàng, nhưng nó tan biến
hết. Đây là một kinh nghiệm cá nhân. Dầu tôi có kể cho người khác, họ cũng
không hiểu. Đó là điều mà mỗi người phải tự kinh nghiệm lấy. Tôi càng quán
chiếu sự việc này, nó càng sáng tỏ hơn. Tôi trở nên mạnh mẽ hơn dần. Niềm tin
của tôi càng lúc càng vững chắc, cho đến khi trời sáng.
Khi tôi mở mắt, mọi
thứ đều là một màu vàng. Vào lúc giữa đêm tôi muốn đi tiểu, nhưng cảm giác đó
đã ngừng hẳn. Khi tôi đứng dậy từ chỗ ngồi, mọi thứ chung quanh đều ửng vàng.
Khi tôi đi tiểu, tôi thấy có máu.
“Cái gì vậy? Ruột tôi
bị rách à?” Có tiếng nói. “Nếu nó rách thì thôi, chết thì chết. Tôi chỉ ngồi đó
suốt đêm, đâu làm gì có hại đâu. Nếu nó sắp nổ tung, cứ để nó nổ”, có giọng nói
như thế.
Tâm tôi cứ như đang tranh
cãi với chính nó. Giọng nói từ phía này, nói “Ê, nguy hiểm quá!” Một giọng nói
khác sẽ phản đối, thách thức nó, và thắng thế.
“Hừm, mình đi đâu tìm
thuốc đây?” Tôi suy nghĩ. Nhưng rồi một ý tưởng phát sinh , “Ai cần những thứ
đó, người tu đâu thể cắt cây cỏ để làm thuốc. Chết thì chết, có sao đâu? Có gì
khác để làm đâu? Nếu tôi chết trong khi đang tu hành như thế này, tôi sẳn sàng.
Nếu tôi đang làm một điều gì xấu, thì không tốt. Nhưng tôi sẳn sàng chết trong
khi tu hành như thế”.
Đừng chạy theo cảm xúc của bạn. Hãy huấn luyện chính mình. Trong
sự tu hành, bạn cần phải đánh liều mạng sống. Có đôi lúc, bạn sẽ cảm thấy vô cùng đau khổ,
đến độ bạn khóc sướt mướt. Đúng vậy. Tu hành là thế đó. Nếu bạn buồn ngủ và
muốn nằm xuống, đừng cho phép mình ngủ. Đánh tan sự buồn ngủ trước khi bạn nằm
xuống.
Đôi lúc, sau khi đi
khất thực và đang quán tưởng trước khi ăn, bạn sẽ không giữ được sự điềm tĩnh.
Tâm của bạn giống như một con chó điên, nước dãi chảy lòng thòng, bạn quá đói.
Có lúc bạn cũng quán tưởng, bạn cứ cắm đầu ăn, ăn, ăn… Tai họa là đó. Nếu tâm
không chịu lắng dịu xuống và nhẫn nại, hãy đẩy bát cơm ra và không ăn. Hãy huấn
luyện mình, kỷ luật bản thân. Đó là tu hành. Đừng chạy theo ham muốn của mình. Hãy
đẩy cái bát đi, đứng dậy và rời khỏi chỗ đó. Đừng cho phép mình ăn. Nếu tâm rất
muốn ăn nhưng vẫn ngoan cố, đừng cho nó ăn. Nước miếng sẽ ngừng chảy. Nếu phiền
não biết rằng nó sẽ không có gì để ăn, nó sẽ biết sợ. Ngày hôm sau, nó sẽ không
dám quấy rầy bạn nữa. Hãy thử đi, nếu bạn không tin tôi.
Con người không tin vào sự tu hành. Họ không dám thử. Họ sợ đói,
sợ chết. Nếu bạn không thử, bạn không biết nó là như thế nào. Đa số chúng ta không
dám làm, không dám thử, chúng ta quá sợ.
Thử nghĩ đi: điều quan
trọng nhất là gì? Không có gì khác ngoại trừ sự chết. Chết là điều quan trọng
nhất trong thế gian. Nếu bạn không có quần áo mặc, bạn không chết. Nếu bạn
không có trầu cau để ăn hoặc thuốc lá để hút, bạn vẫn không chết. Nhưng nếu bạn
không có gạo, lửa và nước, bạn sẽ chết. Chỉ có ba thứ này là quan trọng ở đây.
Bạn cần gạo, lửa và nước để nuôi dưỡng thân thể. Cho nên tôi không quan tâm đến
những thứ khác. Tôi mãn nguyện với những gì người ta cho. Chừng nào tôi có gạo,
lửa và nước, tôi có thể tu hành, và tôi mãn nguyện.
Bạn có thấy như thế là
đủ không? Những thứ khác đều dư thừa. Bạn có chúng hay không cũng không quan
trọng. Điều duy nhất là quan trọng là cơm và nước.
“Nếu sống như thế, tôi
có sống nổi không?” Tôi tự hỏi mình. “Đủ để tiếp tục tu hành. Ít nhất tôi cũng
sẽ có cơm để ăn, mỗi nhà cho một miếng. Nước thì có sẳn chung quanh đây. Chỉ
hai thứ này là đủ”.
Cái tâm này đã bị lừa
gạt quá nhiều kiếp rồi. Bất cứ thứ gì chúng ta không thích, chúng ta muốn tránh.
Chúng ta nói là mình tu hành, nhưng thật ra chúng ta đang chìm đắm trong sự sợ
hãi. Đây không thể gọi là tu hành. Nếu là tu hành thật. Bạn sẽ đánh liều cả
mạng sống của mình. Nếu đã quyết tâm tu hành, tại sao bạn lại quan tâm đến
những chuyện nhỏ mọn? “Tôi chỉ được một chút, bạn có nhiều hơn”. “Bạn cãi với
tôi, cho nên tôi cãi lại”. Tôi không có những tư tưởng này, bởi tôi không quan
tâm đến những thứ đó. Ai tu cao, ai tu thấp, tôi không để ý. Tôi chỉ lo việc
của mình. Và vì vậy, tôi dám tu hành, và sự tu hành dẫn đến trí huệ, và sự giác
ngộ.
Khi sự tu hành của bạn
có kết quả, đó mới thật sự là tu hành. Bạn tu hành cả ngày lẫn đêm. Ban đêm,
lúc yên tĩnh, tôi ngồi thiền, rồi đi kinh hành. Tôi cứ thay đổi như vậy ít nhất
là hai, ba lần mỗi đêm. Đi, rồi ngồi, rồi lại đi. Tôi không thấy chán.
Có lúc trời mưa nhẹ,
và tôi nghĩ đến cái thời tôi còn làm ruộng. Quần tôi đến hôm sau vẫn còn ướt.
Nhưng tôi phải thức dậy trước khi trời sáng và mặc nó vào lại. Và tôi đi xuống
để dẫn trâu ra khỏi chuồng. Tất cả những thứ gì tôi có thể thấy là con trâu và
cái cổ của nó, bởi ở trong đó đầy cả sình. Sợi dây thừng mà tôi nắm dính đầy
phân trâu. Rồi đuôi trâu cứ quất qua quất lại, bét thêm phân trâu vào người
tôi. Bàn chân tôi đau nhức và bị nhiễm trùng, tôi vừa đi vừa suy nghĩ, “Tại sao
đời sống khổ quá thế?” Và bây giờ đây, tôi đang đi kinh hành… một chút mưa đâu
có ăn nhằm gì với tôi? Nghĩ như thế, tôi tự khích lệ mình trong sự tu hành.
Nếu sự tu hành đã dự
lưu (đạt đến thánh quả đầu tiên) thì không có gì để so sánh. Không còn cái khổ
giống như cái khổ của một tu sĩ. Không có sự hăng hái hay biếng nhác giống như
sự hăng hái hay biếng nhác của một tu sĩ. Những người tu hành theo chánh pháp
là tối thượng. Cho nên, nếu bạn thật sự tu hành, bạn sẽ tự mình nhìn thấy điều
kỳ diệu mà tôi muốn nói.
Nhưng đa số chúng ta
chỉ nói về sự tu hành. Chúng ta giống như một người mà mái nhà bị dột, nên phải
ngủ tránh qua một bên. Khi trời nắng rọi vào phía đó, hắn lăn qua bên kia và
suy nghĩ, “Không biết bao giờ mình mới có được một căn nhà tử tế như những
người khác?” Nếu mái nhà chỗ nào cũng dột, hắn đứng dậy và bỏ đi. Đây không
phải là cách để làm việc, nhưng đây là cách mà đa số người làm.
Cái tâm này của chúng
ta, những phiền não này, nếu bạn chạy theo chúng, bạn sẽ gây phiền phức cho
chính mình. Bạn càng chạy theo chúng, sự tu hành của bạn càng thối hóa. Nếu tu
hành đúng, đôi lúc bạn ngạc nhiên với sự hăng say của mình. Bất kể người khác tu hành tốt hay không,
đừng để ý. Chỉ quan tâm đến sự tu hành của mình. Ai đến, ai đi, không quan
trọng, cứ tu hành.
Nơi nào bạn còn vụng
về, nơi nào bạn còn khiếm khuyết, đó là nơi bạn phải tu hành. Nếu bạn chưa giải
quyết được, đừng bỏ cuộc. Vừa giải quyết xong một vấn đề, bạn lại bị kẹt vào
một vấn đề khác, hãy cứ kiên trì cho đến khi bạn giải quyết xong tất cả. Đừng
hài lòng cho đến lúc đó. Đặt tất cả sự chú tâm của bạn vào nơi này. Trong khi
ngồi, nằm, hay đi, hãy xem xét nơi đây.
Hãy giống như một
người nông dân chưa hoàn tất thửa ruộng của mình. Mỗi năm ông đều trồng lúa và
năm nay ông chưa trồng xong. Cho nên tâm ông bị kẹt vào đó. Ông không an tâm. Ngay
cả khi ông đang tiếp khách, ông cũng không thể thư giãn, ông luôn nghĩ tới công
việc đồng án của mình. Hoặc giống như một người mẹ để con mình nằm ngủ trên
lầu, trong khi bà đi xuống lầu cho gia súc ăn: bà luôn nghĩ đến đứa bé, sợ nó
té xuống lầu. Bà có thể đang làm những việc khác, nhưng đứa con bà không bao
giờ rời khỏi tâm trí bà.
Sự tu hành của chúng
ta cũng vậy. Chúng ta không bao giờ quên nó. Dẫu đang làm việc khác, sự tu hành
của chúng ta không bao giờ rời khỏi tâm trí của chúng ta. Nó luôn ở bên chúng
ta, ngày lẫn đêm. Sự tu hành của bạn phải giống như vậy nếu bạn thật sự muốn
tiến bộ.
Lúc ban đầu, bạn phải
nương vào một vị thầy để được chỉ dẫn, khuyên bảo. Khi vị thầy chỉ dạy bạn, hãy
làm theo sự chỉ dạy đó. Nếu bạn đã hiểu, thì không cần vị thầy bên cạnh, bạn tự
mình tu. Khi những phẩm chất bất thiện hay buông lung phát sinh, hãy tự mình
nhận biết, tự dạy dỗ mình. Tâm là “người biết”, là người chứng kiến. Tâm biết
bạn còn vô minh nhiều hay ít.
Tu hành là như thế đó.
Bạn có thể nói rằng mình bị điên. Khi bạn thật sự tu hành, bạn giống như người
điên. Bạn chối bỏ nhận thức trước kia và rồi bạn điều chỉnh sự nhận thức của
mình. Nếu bạn không điều chỉnh nó, nó sẽ phiền phức và khốn khổ như lúc trước.
Cho nên, tu hành sẽ
gặp nhiều khó khăn, nhưng nếu bạn không nhận biết sự đau khổ của mình, bạn sẽ
không hiểu Chân Lý về sự khổ(1). Để hiểu sự khổ, để đập tan nó, bạn
phải đối diện với nó. Nếu bạn muốn ăn, nhưng không đi ra ngoài để tìm thức ăn,
làm sao có để ăn? Đau khổ, đó là điều Đức Phật dạy: sự khổ của sinh, sự khổ của
già, sự khổ của tử. Nếu bạn không chịu
kinh nghiệm sự khổ, bạn sẽ không hiểu rõ về khổ, bạn sẽ không thể dứt trừ nó.
Người ta không muốn
nhìn thấy sự khổ. Họ không muốn kinh nghiệm sự khổ. Nếu họ khổ ở đây, họ sẽ
chạy qua bên kia. Họ chỉ kéo cái khổ đi theo họ, chứ không bao giờ dứt trừ nó.
Họ không quán chiếu hay khảo sát nó. Chừng nào bạn còn vô minh, dầu đi tới đâu,
bạn cũng thấy khổ. Bạn lên máy bay, nó cũng lên máy bay với bạn. Bạn lặng xuống
nước, nó cũng lặn xuống với bạn. Sự khổ nằm bên trong chúng ta. Nhưng chúng ta
không hiểu điều này. Nếu nó đã nằm bên trong chúng ta, chúng ta chạy đi đâu để
trốn nó?
Bạn phải xem xét điểm
này thật kỹ, cho đến khi bạn không còn nghi ngờ. Bạn phải dám tu hành. Đừng sợ,
dầu tu với một nhóm người, hay tu một mình. Nếu những người khác biếng nhác,
không quan trọng. Bất cứ ai đi kinh hành nhiều, tu hành nhiều… tôi bảo đảm kết
quả. Nếu bạn thật sự kiên trì, dầu ai đi, ai ở, hay bất cứ gì, chỉ một kỳ kiết
hạ là đủ. Hãy tu hành như tôi đã nói ở đây. Tu hành kiên trì, đều đặn. Đừng tu
hành như kiểu Đại đức Peh. Trong một kỳ kiết hạ, Ông quyết định tịnh khẩu. Ông
ngừng nói, được lắm, nhưng ông bắt đầu viết: “Ngày mai, làm ơn rang cho tôi ít
gạo”. Ông muốn ăn gạo rang! Ông ngừng nói, nhưng viết lại rất nhiều đến độ tâm
càng tán loạn hơn lúc trước. Cứ mỗi phút, ông lại viết một thứ. Thật là buồn
cười!
Tôi không biết tại sao
ông quyết định tịnh khẩu. Ông không hiểu tu hành là gì cả.
Thật ra, sự tu hành
của chúng ta là tập hài lòng với rất ít, và chỉ cần để tự nhiên. Đừng lo là bạn
sẽ giải đãi hay tinh tấn. Cũng đừng nói, “Tôi tinh tấn”, hay “Tôi giải đãi”. Đa
số người tu chỉ tu khi họ tinh tấn. Nếu họ cảm thấy lười biếng, họ không màng
tu. Nhưng người xuất gia không nên nghĩ như thế. Khi bạn tinh tấn, hãy tu hành. Khi bạn giải đãi, hãy tu hành. Đừng để ý
đến chuyện khác. Hãy ném chúng ra ngoài, hãy huấn luyện mình. Hãy tu hành
kiên trì, ngày và đêm, năm này lẫn năm tới, bất cứ lúc nào. Đừng để tâm đến
những quan niệm tinh tấn hay giải đãi. Đừng lo là trời nóng hay lạnh, cứ tu.
Đây gọi là tu hành đúng.
Có người dốc sức tu
hành trong sáu, bảy ngày liên tục, nhưng khi không nhìn thấy kết quả mà họ mong
muốn, họ ngừng lại, và quay trở về với
lối sống thế tục, chuyện trò, giao hảo, v.v… Rồi họ nhớ đến sự tu hành và phấn
đấu thêm sáu, bảy ngày nữa, rồi lại ngừng tu. Đó là cách làm việc của vài nông
dân. Lúc đầu, họ xông xáo làm việc một cách hăng say. Rồi khi họ ngừng, họ
không màng đến việc nhặt những dụng cụ làm rẫy của mình, mà cứ việc bỏ chúng ở
đó. Sau đó, khi đất bị khô cứng hết, họ nhớ lại công việc của mình và làm thêm
một chút nữa, rồi lại bỏ đó. Làm việc kiểu này, họ sẽ không bao giờ có được
được một mảnh vườn hay thửa ruộng màu mỡ.
Sự tu hành của chúng
ta cũng tương tự, nếu bạn không cho sự tu hành của mình là quan trọng, bạn sẽ
không đi tới đâu cả. Tu hành đúng là điều rất quan trọng. Hãy kiên trì. Đừng
nghe theo cảm xúc của mình. Nếu bạn thấy khoan khoái thì sao chứ? Đức Phật
không màng tới những điều này. Ngài đã kinh nghiệm tất cả điều thiện và điều
ác, điều đúng lẫn điều sai. Đó là sự tu hành của Ngài. Chỉ lấy những gì bạn
thích và bỏ những thứ bạn không thích, không phải là tu hành, đó là tai họa.
Bất kể đi tới đâu, bạn cũng sẽ không mãn nguyện, và bất kể ở đâu, bạn cũng thấy
khổ.
Có người tu hành vì
muốn đạt được điều gì đó. Nếu không đạt được điều mình muốn, họ sẽ không muốn
tu hành nữa. Nhưng Đức Phật dạy rằng tu hành là xả bỏ, là ngừng lại, là dứt trừ
tận gốc.
Có một người, khi mới bắt
đầu tu hành, đôi lúc ông ta nhịn đói đến mười lăm ngày, rồi khi ăn, ông chỉ ăn
lá cây và cỏ. Ông cho rằng ăn thịt là nghiệp chướng, nên ông chỉ ăn lá và cỏ.
Sau một thời gian, “Hừm, làm nhà sư phiền toái quá, khó ăn chay lâu được. Có lẽ
mình nên là một sa di”. Thế là ông bỏ áo tu và trở thành một sa di. Từ đó, ông
có thể nhặt lá, cỏ và đào củ để ăn, điều mà khi còn là một tỳ kheo, ông không
thể làm. Ông tiếp tục như thế một thời gian, cho đến khi ông không biết mình
phải làm điều gì nữa. Thế là ông bỏ hết. Ông bỏ làm tỳ kheo, bỏ làm sa di, bỏ
hết tất cả. Dạo này, tôi không biết ông đang làm gì. Có lẽ ông đã chết. Tôi
không biết. Nhưng ông bỏ cuộc bởi vì ông không tìm thấy điều gì thích hợp với
tâm của mình. Ông không nhận ra rằng những gì mà ông đang làm là chạy theo
phiền não. Phiền não đang dẫn ông đi, nhưng ông không biết.
“Đức Phật có hoàn tục
và trở thành một sa di không? Ngài tu hành như thế nào? Ngài đã làm gì?” Ông ta
không suy ngẫm về điều này, Đức Phật có đi tìm lá cây và cỏ để ăn không? Dĩ
nhiên, nếu bạn muốn ăn như thế, cứ tự nhiên, nếu đó là tất cả những gì bạn có
thể làm, nhưng đừng đi quanh chỉ trích những người khác. Bất cứ tiêu chuẩn tu
hành nào mà bạn thấy thích thì cứ theo đuổi nó. “Đừng đục, đừng cắt quá nhiều,
nếu không bạn sẽ không có một cái tay cầm tử tế”.
Và rồi bạn không còn
gì cả và cuối cùng thì bỏ cuộc. Thử nghĩ xem bạn tu hành để làm gì. Sự tu hành ở đây là xả bỏ. Tâm muốn thương
người này, ghét người kia. Chúng ta tu hành là để xả bỏ những thứ này. Ngay cả
khi bạn đạt được bình an, hãy ném sự bình an đó đi. Nếu kiến thức phát sinh,
ném kiến thức đó đi. Nếu bạn biết, thì biết, nhưng nếu bạn biến cái đó
thành của riêng, thì bạn sẽ cho rằng mình biết một điều gì đó. Bạn nghĩ rằng
bạn hay hơn người khác. Sau một hồi, bạn không thể sống ở bất cứ nơi nào, bởi
vì dầu bạn sống ở đâu, vấn đề cũng nảy sinh. Nếu bạn tu hành sai, thì cũng
giống như bạn không tu hành gì cả.
Hãy tu hành tùy vào
khả năng của bạn. Bạn có ngủ nhiều quá không? Vậy hãy cố ngủ ít bớt. Bạn có ăn
nhiều quá không? Vậy hãy cố ăn ít bớt. Hãy tu tập thuận theo nhu cầu của bạn,
với giới, định, huệ là nền tảng, và rồi ném thêm vào đó hạnh Đầu Đà (dhutanga).
Tu hạnh đầu đà là để đào sâu vào sự phiền não. Bạn có thể nhận ra rằng những
pháp tu hành căn bản vẫn không đủ để nhổ tận gốc rễ phiền não, cho nên bạn kết
hợp với pháp tu khổ hạnh. Sống nơi gốc cây, sống trong nhà xác – hãy thử đi.
Bạn thấy sống trong nhà xác ra sao? Nó có giống như sống trong một đoàn thể
không?
Dhatanga có nghĩa là “những pháp tu khó làm”. Đây là sự tu hành
của Đấng Giác Ngộ. Ai muốn trở thành Thánh Nhân Giác Ngộ phải sử dụng pháp tu
khổ hạnh để dứt trừ phiền não. Pháp tu khổ hạnh không dễ thực hiện và có rất ít người có đủ
quyết tâm, bởi vì pháp tu này đi ngược lại với khuynh hướng của con người. Bạn
chỉ được phép giữ bên mình ba cái y căn bản, chỉ ăn những gì bạn xin được, chỉ
ăn từ bát của mình, và không ăn bất cứ gì khác sau đó.
Giữ được giới cuối
cùng ở miền trung Thái Lan thì dễ, bởi vì thức ăn ở đó rất phong phú, và người
ta cho rất nhiều thức ăn vào bát của bạn. Nhưng khi bạn lên phía bắc, ở đây
pháp tu khổ hạnh này có ý nghĩ rất tế nhị - bạn chỉ nhận được cơm trắng mà
thôi! Ở những vùng này, theo tục lệ, người ta chỉ cho bạn cơm trắng thôi. Pháp
tu khổ hạnh này trở nên quá hành xác. Bạn chỉ được ăn cơm trắng, và bất cứ món
ăn nào được mang đến cúng dường sau đó, bạn không thể dùng. Và bạn chỉ ăn mỗi
ngày một lần duy nhất, từ bình bát của mình – khi ăn xong, bạn đứng dậy và
trong ngày hôm đó bạn không ăn nữa. Thời nay, khó có người nào có đủ quyết tâm
tu hành như thế, bởi vì nó quá khó, nhưng đó là lý do tại sao nó rất có lợi.
Thời nay, cái mà người
ta gọi là tu hành thì không thật sự là tu hành. Nếu bạn thật sự tu hành, nó
không dễ đâu. Đa số người ta không dám tu hành thật sự, không dám đi ngược lại
thói thường. Họ không muốn làm điều gì đi ngược cảm giác của họ. Họ không dám
chống lại phiền não, họ không muốn đào sâu vào phiền não để dứt trừ chúng.
Trong sự tu hành, đừng
chạy theo cảm xúc của mình. Chúng ta đã bị lừa gạt trong vô số kiếp rằng cái
tâm này là của riêng ta. Thật ra nó chỉ là một kẻ lừa đảo. Nó lôi kéo chúng ta
vào tham, sân, si, vào sự trộm cướp, ham muốn, và thù hận. Những thứ này không
thuộc về chúng ta. Cứ tự hỏi mình, “Tôi có muốn là người tốt không?” Người ta
làm điều ác, nhưng họ cứ muốn là người tốt. Đó là tại sao tôi nói những thứ này
là kẻ lừa đảo. Chúng chỉ vậy thôi.
Đức Phật không muốn chúng ta chạy theo cái tâm này, Ngài muốn
chúng ta huấn luyện nó. Nếu nó muốn qua bên này, hãy đem nó qua bên kia. Khi nó
qua bên kia, hãy đem nó trở lại đây. Nói tóm lại, bất cứ tâm muốn gì, đừng để
nó có điều đó. Như thể chúng ta đã từng là bạn bè đã nhiều năm, nhưng đến một
lúc nào đó, quan điểm của chúng ta không còn giống nhau. Chúng ta chia tay và
đường ai nấy đi. Chúng ta không những không hiểu nhau nữa, mà còn cãi vả nhau,
cho nên chúng ta chia tay. Cho nên đừng chạy theo cái tâm của bạn. Ai chạy theo
tâm của mình, chạy theo sự ưa thích và ham muốn của nó, người đó chưa biết tu
hành là gì. Đây là lý do tôi nói rằng điều mà người ta gọi là tu hành không
thật sự là tu hành. Nó chỉ là tai họa. Nói ngắn gọn, trong sự tu hành, bạn phải
phó thác ngay cả cuộc đời mình. Sự tu hành này đòi hỏi bạn phải kinh nghiệm một
ít đau khổ. Nhất là trong một hay hai năm đầu, bạn đau khổ rất nhiều. Những tỳ
kheo và sa di trẻ tuổi phải trải qua nhiều thử thách.
Tôi cũng phải khổ sở rất
nhiều trong quá khứ, nhất là với thức ăn. Bạn nghĩ sao? Trở thành một tỳ kheo
lúc hai mươi tuổi, khi bạn đang thèm ăn, thèm ngủ… Có những ngày, tôi chỉ ngồi
đó mà nghĩ đến thức ăn. Tôi muốn ăn một trái chuối ngâm nước xi-rô, hay một đĩa
xà lách đu đủ, và tôi bắt đầu chảy nước miếng. Đây là một phần của sự huấn
luyện. Thật không dễ chút nào. Miếng ăn và sự uống có thể khiến cho con
người gây ra rất nhiều nghiệp ác. Hãy
quan sát một đứa trẻ mới lớn, chỉ biết ăn và ngủ, và giam nó trong chiếc áo tu
này – cảm xúc của nó chạy lồng lên. Nó giống như việc xây đập để ngăn nước lũ,
đôi lúc cái đập nước vỡ tung ra.
Sự thiền hành của tôi
trong năm đầu không có gì khác ngoại trừ thức ăn. Có lúc, tôi chỉ ngồi đó, mà
cứ như thể tôi đang nhai trái chuối trong miệng. Tôi có cảm giác như mình đang
bẻ trái chuối thành từng miếng nhỏ và bỏ chúng vào miệng. Và đây là tất cả sự
tu hành của tôi lúc đó.
Cho nên đừng sợ những
điều này. Tất cả chúng ta đã bị phỉng gạt
từ vô số kiếp rồi, cho nên để huấn luyện chính mình, sửa đổi chính mình, không
phải là chuyện dễ. Nhưng dầu là khó, nó đáng làm lắm.
Tại sao chúng ta phải
bận tâm với những chuyện dễ làm? Chúng ta nên huấn luyện mình để làm những việc
khó làm.
Đức Phật hẳn đã trải
qua những kinh nghiệm tương tự. Nếu Ngài chỉ quan tâm đến gia đình và thân
quyến, sự giàu sang và những thú vui dục lạc của mình, Ngài đã chẳng bao giờ
thành Phật. Những thứ này cũng không phải là chuyện nhỏ; chúng là những thứ mà
đa số người tìm kiếm. Cho nên, xuất gia khi còn trẻ và phải buông bỏ những thứ
này cũng giống như chết đi vậy. Thế mà có người nói với tôi rằng, “Ồ, với ngài
thì dễ rồi. Ngài không có vợ và con để lo lắng!” Tôi nói, “Đừng đến gần tôi quá
khi bạn nói thế, nếu không bạn bị đánh đấy!” cứ như thể tôi không có trái tim
hay sao ấy!
Hãy thiết lập sự bình an bên trong bạn. Rồi từ từ bạn sẽ hiểu.
Tu hành, quán chiếu, xem xét, và kết quả của sự tu hành sẽ ở đó. Nhân và quả
luôn cân xứng với nhau. Đừng làm nô lệ cho cảm xúc của bạn. Mới đầu, ngay cả việc tìm
thấy số lượng giờ ngủ thích hợp cho bạn đã là khó. Bạn có thể quyết định chỉ
ngủ bao nhiêu giờ đó thôi, nhưng không thể thực hiện được. Bạn phải huấn luyện
mình. Bất cứ giờ nào bạn quyết định thức giấc, hãy ngồi dậy khi đã tới giờ đó.
Có lúc bạn làm được, nhưng lúc vừa thức giấc, bạn cần phải nói với mình, “Một…
hai… Nếu tôi đếm đến ba mà vẫn không ngồi dậy, tôi sẽ rơi vào địa ngục!” Bạn
phải dạy đỗ mình như thế. Khi bạn đếm đến ba, bạn sẽ lập tức ngồi ngay dậy. Bạn
sợ bị rớt xuống địa ngục. Cái tâm được huấn luyện tốt sẽ không dám gây phiền
phức. Có người xuất gia chỉ vì muốn có được cuộc sống thoải mái, nhưng sự thoải
mái xuất phát từ đâu thế? Điều kiện của nó là gì? Tất cả sự thoải mái phải đến
sau sự đau khổ. Bạn phải làm việc rồi mới có tiền, có phải vậy không? Bạn phải
cày ruộng mới có gạo ăn. Trong bất kỳ việc gì cũng vậy, bạn phải trải qua sự
khó khăn trước. Nếu bạn không học, làm sao bạn có thể đọc và viết?
Đây là lý do mà tại
sao đa số những người nghiên cứu, học hỏi nhiều rồi xuất gia, không đi tới đâu
cả. Kiến thức của họ là một loại kiến thức khác, một con đường khác. Họ không
tự huấn luyện. Họ không xem xét tâm của họ. Họ chỉ khuấy động tâm trí của họ,
khiến cho nó rồi rắm, và tìm kiếm những thứ không có lợi ích gì cho sự tĩnh
lặng và kiềm thúc. Kiến thức của Đức Phật
không phải là kiến thức của thế gian, mà là kiến thức xuất thế gian – đó là một
thứ kiến thức hoàn toàn khác.
Đây là tại sao bất cứ
ai muốn xuất gia tu theo Phật pháp phải vứt bỏ tất cả địa vị xã hội mà họ có từ
trước. Ngay cả một vị vua khi xuất gia cũng phải vứt bỏ địa vị quốc vương của
mình. Ông không thể mang quyền lực thế gian vào nơi tu hành để hù dọa thiên hạ.
Sự tu hành đòi hỏi sự buông bỏ, ngừng lại và nhổ tận gốc. Phải hiểu điều này,
rồi bạn mới có thể làm cho sự tu hành của mình có kết quả.
Nếu bạn bị bệnh mà
không uống thuốc, bạn có nghĩ bệnh sẽ tự lành không? Bất cứ nơi nào bạn sợ hãi,
hãy đi đến nơi đó. Nếu bạn biết một nhà xác hay một nghĩa địa nào rất kinh sợ,
hãy đi đến đó. Mặc áo vào, đi đến đó và quán tưởng sự vô thường, khổ, và vô
ngã… Đứng ngay đó hay đi kinh hành chung quanh đó. Nhìn vào trong, và tìm ra
nơi mà nỗi sợ của bạn ngự trị. Nó sẽ lộ diện rõ ràng. Hãy hiểu bản chất của các
pháp hữu vi. Ở lại nơi đó và quán sát đến khi trời tối, cho đến khi bạn ở lại
đó suốt đêm.
Đức Phật nói, “Bất cứ
ai thấy Pháp, thấy Như Lai. Bất cứ ai thấy Như Lai, thấy Niết Bàn”. Nếu chúng
ta không theo gương Ngài, làm sao chúng ta thấy được Pháp? Nếu chúng ta không
thấy Pháp, làm sao chúng ta biết được Phật? Chỉ
khi nào chúng ta đi theo bước chân của Phật, chúng ta mới biết rằng những gì mà
Đức Phật dạy là hoàn toàn chắc chắn, rằng sự giảng dạy của Đức Phật là chân lý
tối thượng.
-------------------------------------------------
(1) Chân lý thứ nhất trong Tứ Diệu Đế.