8 thg 3, 2022

ĂN MÀY CỬA PHẬT (Phần 6)

Lê Sỹ Minh Tùng

Washington - Mùa Phật Đản PL 2559, DL 2015

 

"LINH HỒN", "TÁI SINH" VÀ GIẢI THOÁT

1. Thế nào là “tái sinh”?

Theo tinh thần Phật giáo Đại thừa, mỗi chúng sinh là sản phẩm của chính mình, con người chúng ta hiện tại là sản phẩm do chính chúng ta tạo nhân trong quá khứ và bây giờ chúng ta đang tạo ra cuộc đời cho chính mình trong tương lai. Cuộc sống là một quá trình liên tục chỉ tạm thời gián đoạn mỗi khi thân xác vật lý biến đổi không còn phù hợp cho việc tiếp tục tồn tại và dừng hoạt động, chúng ta tạm thời rơi vào trạng thái không còn thân xác cho đến khi có cơ hội kết hợp đủ các yếu tố cần thiết thì một chu kỳ sống mới với thân xác mới lại bắt đầu. Tuy nhiên khái niệm về sự “tái sinh” không phải là đặc thù của Phật giáo Nguyên thủy. Từ xa xưa, trước khi Phật giáo ra đời, các tôn giáo khác nhau cùng đưa ra các học thuyết chủ trương sự “đầu thai” mà trong đó họ cho rằng một “linh hồn” có thể luân chuyển trong nhiều thân xác khác nhau.

2. “Linh hồn” là gì? Linh hồn có bất tử không?

"Linh hồn", tiếng Hy Lạp là “Psyche”, nghĩa là sự sống, tinh thần, ý thức. Socrates cho rằng linh hồn là tinh thể (Essence). Platon lý luận rằng linh hồn bao gồm lý trí (Logos), tình cảm (Thymos) và ái dục (Eros). Trong khi đó, Aristote định nghĩa linh hồn là hoạt tính của một cơ thể sống và cho rằng linh hồn sẽ mất đi khi cơ thể không còn nữa, giống như hoạt tính của con dao là cắt, khi con dao bị hư hoại thì hoạt tính cắt không còn nữa. Mỗi tôn giáo, mỗi tín ngưỡng có quan niệm khác nhau về “linh hồn”, nhưng thông thường linh hồn thường được hiểu là phần tinh anh, cái tinh thể, phần tinh thần của con người. Xa hơn nữa, các tôn giáo như Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo, Hồi Giáo đều cho rằng linh hồn là phần thiêng liêng, bất diệt. Linh hồn là do Thượng đế ban cho mỗi người như là sự sống. Nếu một người biết thờ kính Thượng đế thì khi chết linh hồn đó sẽ được về sống hạnh phúc đời đời trên Thiên đường. Ngược lại, nếu làm ác, không tin vào Thượng đế thì linh hồn đó khi chết chắc chắn sẽ bị đọa vào địa ngục để gánh chịu mọi sự khổ đau.

Nói chung, các tôn giáo hữu thần đều cho rằng có một linh hồn bất tử trong con người. Nếu khi sống làm như lời Thần linh, Đấng tạo hóa hoặc Chúa dạy, thì sau khi chết người ấy được cứu rỗi lên Thiên đường hoặc ngược lại thì bị đày xuống Hoả ngục. Cái phần phi vật chất được lên thiên đường hay xuống hoả ngục đó, họ gọi là “linh hồn”.

Vào thời Đức Phật còn tại thế, Bà la môn giáo (Ấn độ giáo ngày nay) tin rằng có một linh hồn hay bản ngã (Atman) (tiểu ngã) trường tồn. Đối với Ấn độ giáo, cặp phạm trù cơ bản nhất là tiểu ngã (Atman) và đại ngã (Brahman). Đại ngã là cái bản ngã vũ trụ, cái tuyệt đối. Nếu nhìn  dưới góc độ tôn giáo, đại ngã là yếu tố thần linh được bao chứa và thấm nhuần trong vạn vật. Còn tiểu ngã là cái bản thể của mỗi con người. Ấn độ giáo cho rằng tiểu ngã và đại ngã là nền tảng của vũ trụ quan, trong khi đó thuyết nghiệp báo và luân hồi là nền tảng nhân sinh quan. Thuyết luân hồi của Ấn độ giáo quan niệm rằng cái chết của con ngưởi là sự chuyển hóa sang kiếp sống khác, sự tái sinh trong luân hồi là do nghiệp báo mà ra. Nói cách khác, bất cứ hành động nào của con người cũng phải trả giá, nó toàn năng ngoài ý muốn con người và nó theo đuổi con người không bao giờ lầm lẫn. Sau cùng thuyết giải thoát cho rằng tuy rất khó, nhưng con người có thể tránh khỏi luân hồi nghiệp báo bằng cách nỗ lực gắng sức dập tắt động lực đẩy bánh xe nghiệp báo thì có thể đi đến giải thoát. Và lúc đó tiểu ngã sẽ hòa đồng vào đại ngã của vũ trụ. Tóm lại, Bà la môn giáo cho rằng thờ phượng các Thượng đế (đại ngã) cũng chính là thờ phượng tiểu ngã (Atman) của mình cho nên tiểu ngã là linh hồn và đại ngã (Thượng đế) (Brahman) là chúa tể các linh hồn đó.

Trong khi Ấn Độ giáo (Bà la môn giáo) tuyệt đối tin vào một linh hồn, một tiểu ngã thường hằng bất biến thì sự xuất hiện của Đức Phật đã thổi một luồng sinh khí mới vào trong xã hội Ấn độ lúc bấy giờ. Thuyết Duyên Khởi của Đức Phật với chân lý “Vô Ngã”, một trong ba pháp ấn (Vô thường, Vô ngã, Khổ) của giáo lý Phật Đà, đã phủ định cái Ngã trong Ta của Bà la môn giáo. Ấn Độ giáo càng phát triển vun bồi cho “tiểu ngã” bao nhiêu thì giáo lý đạo Phật càng xa lìa, đánh đổ nó để trở về với trạng thái không dính mắc mà có thanh tịnh tự tại Niết bàn. Vì thế con đường giải thoát của đạo Phật là phải phá chấp, trong thì phá chấp ngã, ngoài thì phá chấp tướng, trong ngoài tự tại là có thanh tịnh Niết bàn.

Tuy vậy, Phật giáo Trung Hoa tin rằng sau khi chết thì linh hồn sẽ bị Ngưu đầu Mã diện đưa về cõi âm. Sau khi được sự phán xét của Diêm vương, linh hồn thiện đi đầu thai ở dương thế còn linh hồn ác bị đọa đày đời đời trong hỏa ngục. Do đó, người Trung Hoa quan niệm rằng “sinh ký tử quy” nghĩa là “sống gửi, thác về” cho nên dương thế chỉ là cõi tạm trong khi cõi âm mới là cõi sống thật sự do vậy mới có tập tục đốt giấy vàng bạc để cho linh hồn ông bà tiêu xài ở cõi âm. Nhưng thử nghĩ lại đã ở trong hỏa ngục thì làm sao tiêu xài?

Trải qua ngàn năm sự cai trị thời phong kiến của Trung Hoa, chúng ta đã bị thâm nhiễm quan niệm ấy và cùng quan niệm đó, vào thế kỷ thứ 18, thi hào Nguyễn Du (Tố Như) có viết trong truyện Kiều như sau:

“…Rằng: Những đấng tài hoa

Thác là thể phách, còn là tinh anh”.

Phách mà thi hào Nguyễn Du nói ở đây là thân tứ đại sẽ tan rã, tiêu mất. Cái duy nhất còn lại của con người mà thi hào gọi là “tinh anh” thì chính là “linh hồn” mà dân gian thường gọi..

Tuy có rất nhiều học thuyết về Thượng đế, linh hồn, nhưng Phật giáo phủ nhận tất cả. Phật giáo không chấp nhận khái niệm về một linh hồn bất tử hay một bản ngã trường tồn.

3. Phật giáo giải thích hiện tượng “tái sinh” và “linh hồn” này thế nào?

Đức Phật dạy rằng con người là sự tập hợp của hai thành phần chính gọi là Danh và Sắc. Danh là phần tư tưởng gồm có 4 hợp tố, đó là thọ, tưởng, hành và thức. Sắc gồm có hai, đó là nội sắc và ngoại sắc, nhưng đại để là sự kết hợp của đất, nước, gió, lửa. Theo quan điểm của đạo Phật, mọi sự vật hiện tượng, trong đó có cả con người, đều chịu  sự chi phối của quy luật biến dị, thay đổi của vũ trụ. Định luật đó gọi là Vô thường. Chính vì bản chất của mọi sự vật hiện tượng là không thật, do các nhân duyên hội tụ mà thành, nên chúng mới chịu sự chi phối của định luật vô thường nầy. Thân (sắc) hay tâm (danh) của con người cũng  phải chịu sự chi phối, tác động này. Tất cả mọi sự vật hiện tượng, dù là các ý niệm hay tư tưởng đều luôn luôn thay đổi nên không có một cái gì gọi là một linh hồn bất tử được. Do vậy, Phật giáo phủ nhận những quan niệm về thuyết linh hồn bất tử vì những quan niệm đó hoàn toàn không phù hợp với “duyên sinh, duyên diệt” của sự thật mà Ngài đã giác ngộ ra. Thật ra trên thế gian này không có cái gì gọi là trường tồn, bất tử cả, bởi vì tất cả mọi sự vật đều sinh diệt vô thường. Cho dù to lớn như những hành tinh, những dãy Thiên hà hay bé nhỏ như hạt bụi, nguyên tử thì không có sự tồn tại vĩnh cửu. Vì sự tồn tại là do nhân duyên cho nên mọi sự vật không có tự thể, không có tự tánh nghĩa là tất cả đều là vô ngã, tức là không, là trống rỗng. Nhân duyên tụ hội gọi là sinh, nhân duyên ly tán, gọi là diệt thế thôi.

Không những quy luật vô thường vận hành trong thế giới vật chất hữu vi, mà ngay cả trong thế giới tư tưởng (tinh thần) thì tất cả cũng đều sinh diệt vô thường cả. Nhân sinh vũ trụ thay đổi từng giây, từng phút, từng sát na, từng ý niệm. Ngày nào chúng ta còn trai trẻ tráng kiện mà bây giờ lưng mõi, gối mòn, lưng còng má hóp, nhớ trước quên sau, nếu không phải là vô thường thì còn là gì? Cái tâm trước đâu có giống cái tâm sau cho nên tư tưởng liên tục sinh diệt trong ta, thế không là vô thường thì là gì?

Vì vậy khi đạo Phật ra đời, Đức Phật phủ nhận con người là do Thượng đế sinh ra và phủ nhận luôn cả chủ thuyết linh hồn (Soul) mà các quan niệm chấp ngã của con người tạo ra. Ngay cả khái niệm về một linh hồn bất tử hay ngay cả một bản ngã thường tại cũng bị Đức Phật phủ nhận. Sau khi đắc tứ thiền, Đức Phật với Tuệ Minh Sát và trí tuệ của bậc Chánh đẳng Chánh giác thấy biết như thật rằng từ con người cho đến nhân sinh vũ trụ tất cả đều là do nhân duyên, cái này có vì cái kia có, cái này sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt, nhân này quả nọ mà tạo thành chớ tuyệt đối không có ai là tác giả cả. Do đó Đức Phật phủ nhận sự hiện hữu của Thượng đế trong cuộc sống và dĩ nhiên không có Thượng đế thì làm gì có ai cho ai linh hồn. Vì vậy, dựa theo các tôn giáo thần quyền, linh hồn là một thực thể vĩnh hằng do Thượng đế ban cho loài người cho nên linh hồn có thể chuyển từ thân xác này sang thân xác khác hay từ cõi này sang cõi khác là phi thực tế và thuộc về tà kiến. Đối với đạo Phật thì cái tâm còn không có thật thì làm gì có linh hồn. Tâm nhà Phật gọi là Thức. Thức là cái nhận thức cũng biến đổi liên tục dựa theo sự biến dạng tâm lý và sinh lý của con người mỗi khi lục căn tiếp xúc với lục trần. Thí dụ mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm mùi vị hay thân cảm xúc hoặc ý duyên với pháp trần thì có biết bao tư tưởng đưa vào tâm để cho ta cái nhận biết. Phật giáo dùng chữ sát na để chỉ cho đơn vị thời gian và một sát na xảy ra rất nhanh bởi vì mỗi một cái nháy mắt có thể có hàng trăm sát na cũng như đơn vị nhỏ nhất để đo thời gian của nhân loại ngày nay là giây. Trong sách Strangers to Ourselves: Discovering the Adaptive Unconscious viết bởi giáo sư Timothy D. Wilson trang 24 có dẫn chứng rằng: Cứ mỗi giây, năm giác quan của con người là mắt thấy, mũi ngửi, tai nghe, miệng nếm và thân cảm xúc tiếp nhận khoảng 11 triệu ý tưởng từ bên ngoài đưa vào tâm. Trong 11 triệu ý tưởng đó thì mắt đã thâu nhận trên 10 triệu ý tưởng để chuyển vào hệ thống trung ương não bộ. Nhưng hệ thống thần kinh não bộ trong một giây chỉ có thể phân tích 40 ý tưởng. Cho nên câu hỏi các nhà khoa học đặt ra là 10,999, 960 ý tưởng không được bộ óc phân tích kia sẽ đi về đâu và sẽ có tác dụng hay ảnh hưởng đến tầng ý thức của con người như thế nào? Do đó nhà tâm lý học Sigmund Freud mới giới thiệu tảng băng tâm lý mà trong đó ông ta lý luận rằng phần tiền ý thức (trí nhớ, và lưu giữ kiến thức) và phần vô thức chiếm đa phần trong tâm tư của con người. Vô thức luôn hối thúc, lấn áp ý thức để con người có những tư tưởng, lời nói hay hành vi không thể kiểm soát được.

 Đức Phật với tuệ minh sát, với trí tuệ của bậc Chánh đẳng Chánh giác khi quán chiếu lại thân, tâm của mình và của nhân loại thì Ngài thấy rằng chúng sinh không hề có tâm mà chỉ có những sát na tư tưởng kết nối và kết nối lại với nhau khiến chúng ta cảm giác như có tâm. Thí dụ ở sát na trước mắt thấy sắc cho ta cái biết của sắc (nhãn thức), đến sát na sau tai nghe âm thanh cho ta cái biết về âm thanh (nhĩ thức)…Cái biết sau nối tiếp (thay thế) cái biết trước và cứ thế cái biết liên tục sinh diệt tạo thành chuổi nhận thức chớ thật sự không có một thức nào (hay một cái tâm nào) cố định cả. Cái tâm sau thay thế cái tâm trước và cứ thế tâm luôn sinh diệt tuôn chảy trong tâm hồn của chúng ta, vì thế Thức dựa theo Phật giáo là kết nối của các dòng chảy liên tục của các ý niệm (sát na tư tưởng). Vì sự ngộ nhận lầm lẫn cho rằng mình có tâm cho nên họ mới nghĩ rằng trong ta phải có “cái Tôi”. Bây giờ không có tâm thì làm gì có Tôi hay cái của Tôi, tức là hoàn toàn vô ngã. Thí dụ, ban đêm nhìn ra xa lộ ở Hoa Kỳ, chúng ta thấy ánh sáng đèn chạy dài như dòng sông  uốn khúc. Nếu bây giờ lấy hết những chiếc xe kia đi thì dòng sông ánh sáng đó sẽ không còn. Nói cách khác nếu không có những ánh sáng từ những chiếc xe kết nối lại thì không bao giờ có ánh đèn sáng dài đến thế. Cái tâm con người thì cũng thế, tuy mỗi sát na tư tưởng rất nhanh, nhưng vì kết nối liên tục những sát na tư tưởng đó thì chúng ta có một chuổi nhận thức mà con người lầm lẫn cho là có tâm.

Trong kinh Đại Duyên (Mahanidanasutta) của Trường Bộ (Dighanikaya), Đức Phật hỏi Tôn giả A-nan rằng:

Này A-nan, nếu Thức không đi vào trong bụng mẹ thì danh sắc có thể hình thành trong bụng mẹ được không?

Tôn giả A-nan đáp:

- “Bạch Thế Tôn, không”.

Thức dựa theo Phật giáo là dòng chảy liên tục của các ý niệm. Các ý niệm này tùy thuộc nhiều yếu tố khác mà phát sinh và Đức Phật gọi quá trình tùy thuộc phát sinh nầy là “duyên khởi” và “thức” chỉ là một mắc xích trong 12 mắc xích duyên khởi  mà thôi. Chính sự tiếp nối của các ý niệm tương tục  nầy mà thức đi tái sanh, lên xuống trong 3 cõi 6 đường, chứ không phải là một linh hồn bất tử, vĩnh hằng cứ lên thiên đàn hoặc xuống địa ngục như các tôn giáo hữu thần khác. Do đó, khái niệm thức của Phật giáo hoàn toàn khác biệt với "linh hồn bất tử" của các tôn giáo khác.

Hãy lắng nghe câu chuyện trong kinh Tỳ kheo Na Tiên như sau :

Vua Di Lan Đà bây giờ hỏi Tỳ kheo Na Tiên rằng :

- Bạch Đại đức! Con người sau khi chết rồi, cái gì sanh trở lại?

Tỳ kheo Na Tiên đáp :

- Tâu Đại vương! Đó là Danh (thọ, tưởng, hành, thức) và Sắc (đất, nước, gió, lửa…).

- Phải chăng đó là Danh và Sắc-thân của người cũ sanh trở lại?

- Thưa không phải Danh cũ, cũng không phải Sắc-thân cũ sanh trở lại. Cái Danh và Sắc-thân của đời này làm các việc thiện ác, do nghiệp thiện ác ấy mà chuyển sang một Danh và Sắc-thân khác để thọ lãnh phước báo hay tội báo đã gây ra.

- Như vậy là không phải cái Danh và Sắc-thân cũ sanh trở lại. Thế thì đời này là điều ác, đời sau đâu có chịu quả báo được? Và nếu không sanh trở lại nữa thì tức là đã giải thoát khỏi luân hồi?

- Không phải như vậy! Nếu sống ở đời mà chỉ toàn làm điều thiện thì sau khi chết có thể không sanh trở lại. Nhưng thông thường thì làm điều thiện cũng có mà gây điều ác cũng nhiều, việc lành, việc dữ tiếp nối xen nhau không ngừng, cho nên phải sanh trở lại mà thọ báo. Làm sao thoát khỏi luân hồi được.

- Xin cho thí dụ về sự liên hệ giữa Danh và Sắc-thân cũ với Danh Sắc-thân mới :

- Ví như người hái trộm xoài của kẻ khác. Chủ vườn xoài bắt được quả tang đem đến báo cáo với Đại vương, yêu cầu Đại vương xử trị. Trước mặt Đại vương bị cáo cãi rằng : ”Tôi không hái xoài của anh ấy. Cây xoài của anh ấy trồng hồi trước là cây mầm tí xíu. Còn những trái xoài mà tôi hái bây giờ nằm trên một cành cây to lớn sum sê. Thế thì tôi đâu có ăn trộm”. Trước những lý lẽ viện ra như thế, Đại vương có cho rằng anh ta vô tội và xử cho anh ta được thắng kiện không?

- Không! Vua Di Lan Đà đáp. Anh ta có tội. Trẩm sẽ xử cho người trồng xoài được thắng kiện. Vì trước kia nhờ người này ra công trồng trọt bón xới cây mầm, cho nên ngày nay mới có cây xoài to lớn đơm hoa kết trái.

- Tâu Đại vương! Con người tái sanh trở lại cũng giống như thế. Với cái Danh và Sắc-thân này, người ta sống trên đời mà làm các việc thiện ác. Nghiệp thiện ác nối tiếp không ngừng, chuyển biến hình thành để sanh ra một Danh và Sắc-thân mới. Cũng như do công phu đào lỗ bỏ hột và vun bón cây mầm nên về sau mới có cây xoài sum sê cành lá với trái chín trĩu cây. Làm việc thiện ác trong đời này tức là gieo hột giống xuống đất và bón xới cây mầm. Đời sau chắc chắn sẽ thọ báo tương ứng.

Vua lại hỏi :

- Bạch Đại đức! Trong con người cái gì làm chủ? Phải chăng đó là linh hồn thường tại?

- Tâu Đại vương! Cái linh hồn thường tại ấy như thế nào?

- Nó thường ở trong ta, dùng mắt mà nhìn hình tướng, dùng tai mà nghe âm thanh, dùng mũi mà ngửi mùi, dùng lưỡi mà nếm vị, dùng thân mà sờ mó cảm nhận, dùng ý mà hiểu biết và nhờ nghĩ. Nó cũng như Đại đức và trẩm hiện đang ở trong cung điện này nhưng vì bốn mặt đều có cửa sổ, nên ngang qua cửa sổ ấy chúng ta mới thấy được phong cảnh bên ngoài.

- Như vậy, ý Đại vương là muốn ví các giác quan nơi con người với các cửa sổ của cung điện này chăng? Ngang qua bất cứ cửa sổ nào, ta cũng thấy được cảnh vật bên ngoài. Thế thì ngang qua bất cứ giác quan nào, linh hồn thường tại cũng phải thấy được ngoại cảnh giống như thế chứ gì? Vậy linh hồn thường tại có thấy được hình tướng chỉ bằng tai, hoặc mũi, lưỡi, thân và ý chăng?

- Thưa không.

- Vậy khi linh hồn thường tại đó thoát khỏi cơ thể có nghe được âm thanh, có ngửi được mùi, có sờ biết nhám trơn, có suy nghĩ  bằng mắt, mũi, lưỡi, thân và ý chăng?

- Thưa không.

- Như vậy thì lời lẽ của Đại vương trước sau không xứng hợp với nhau. Lại nữa, trong khi Đại vương và bần tăng cùng ngồi trong cung điện này, nếu phá bỏ hết tất cả các cửa sổ ở bốn phía thì tầm mắt của chúng ta rộng xa thêm ra không?

- Thưa có.

- Vậy, phá bỏ một cái cửa nơi thân ta là cặp mắt chẳng hạn thì linh hồn thường tại có thấy rộng xa thêm không?

- Thưa không.

- Và nếu phá bỏ thêm mấy cái cửa khác nơi thân ta là tai, mũi, lưỡi, thân, ý thì linh hồn thường tại có nhờ đó mà nghe rộng thêm, ngửi nhiều thêm, nếm tăng lên, sờ nhiều ra và suy nghĩ rộng hơn không?

- Thưa không.

- Như vậy lời lẽ của Đại vương trước sau lại không xứng hợp nhau.

Na Tiên bèn giải thích rằng :

- Con mắt và hình tướng gặp nhau khiến tâm thần kích động. Tâm thần kích động thì liền sanh cảm thọ khổ vui. Với lỗ tai và âm thanh, hoặc với mũi và hương, lưỡi và vị, thân và nhám trơn, ý và điều nhớ nghĩ cũng như thế. Tâm thần kích động thì liền sanh cảm thọ khổ vui. Do cảm thọ khổ vui liền sanh ý niệm. Do ý niệm biến chuyển thành tựu cho nhau mà tạo nên một ông chủ là cái Ngã. Cái gọi là linh hồn thường tại đâu có dính dáng gì ở đây.

Nghiệp lực là sức mạnh (năng lực, power, force) của nghiệp và là động cơ chính khiến chúng sinh dính liền với sinh tử luân hồi. Chính nghiệp lực đã chuyển Thức cuối cùng (tử tâm) sang Thức (tái sinh) cùng với nhân duyên (điều kiện hội tụ) để tạo thành sự sống cho một thai nhi. Nếu cho rằng những con người vừa mới sinh ra là do sự sáng tạo của Thượng đế và không có liên quan gì đến kiếp sống trước thì Phật giáo gọi đây là đoạn kiến, là không đúng. Ngược lại, có quan niệm cho rằng linh hồn từ kiếp trước đầu thai vào kiếp sống mới thì đạo Phật gọi đây là thường kiến, cũng không đúng luôn. Dựa theo tinh thần Phật giáo, sự hình thành của Danh và Sắc trong một kiếp sống mới là kết quả của vô minh, tham ái và nghiệp dẫn từ kiếp trước. Nói thế nghĩa là kiếp sống mới không phải là sự đầu thai của kiếp sống cũ, nhưng nó chuyển tiếp từ kiếp sống cũ mà có. Ví như khi một cây đèn cầy được mồi từ ngọn lửa của cây đèn thứ nhất. Ngọn lửa của cây đèn cầy thứ hai bây giờ không phải là ngọn lửa của cây đèn cầy thứ nhất nữa, do vì lửa được chuyển tiếp sang cây đèn cầy thứ hai, nếu không có cây đèn cầy thứ nhất được thắp lên thì ngọn lửa sẽ không thể hiện hữu trên cây đèn thứ hai. Thế thì hai cây đèn cầy hoàn toàn khác, kích thước khác nhau, màu sắc khác nhau, ngọn lửa cũng khác nhau. Do đó, từ tướng diện, nhân cách, tài năng…cho đến mọi sự khổ, vui trong đời này là phản ảnh trực tiếp từ những nghiệp mà con người đã kiến tạo từ kiếp trước, cho nên ví dụ hai ngọn lửa khác nhau là thể hiện hai cuộc sống khác nhau của hai kiếp sống, nhưng cùng một khởi nguồn từ ngọn lửa. Thí dụ tiền kiếp có người sống trong giàu sang quyền quý, nhưng tham lam bỏn xẻn, ưa hãm hại người (ngọn lửa cây đèn thứ nhất) nay sang đến kiếp này thì cuộc sống trở thành nghèo đói và luôn bị người hãm hại lại (ngọn lửa của cây đèn thứ hai). 

4. Có ai chết rồi mà không sanh trở lại không?

Nếu chúng sinh còn nặng nợ tham dục ái ân, kẻ đó còn sanh trở lại đời sau. Còn những ai đã thoát khỏi vòng tham đắm dục tình thì người đó sẽ không còn tái sanh trở lại. Nói cách khác còn tạo nghiệp là còn sinh tử, hết tạo nghiệp là  thoát ly sinh tử, chứng nhập Niết bàn tịch tĩnh.

5. Tại sao con người phải khổ?

Bất cứ ai sinh ra trong thế gian này đều nghĩ rằng trong ta phải có một cái linh thiêng, làm chủ mạng sống của mình và gọi đó là số mạng của “Ta”, và cái Ta hình thành tức là bản Ngã. Từ đó những vật sở hữu của họ thì gọi là “Cái Của Ta”. Khi cảm tính về “Cái Ta” hiện lên thì tính ích kỷ, tính tư lợi hay là tự xem ta là trung tâm (self-centered) cũng bắt đầu bùng phát. Ta thì lo ích kỷ cho riêng ta, người thì lo ích kỷ cho người vì thế con người bắt đầu tranh chấp, đố kỵ, hơn thua, lo bảo vệ Cái Ta và những cái thuộc về Ta. Cảm tính về Cái Ta và Cái Của Ta được xem là sự bám vúi, chấp thủ một khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần và nỗi khổ niềm đau cũng bắt đầu phát sinh từ đó. Chính vì bám víu vào Cái Ta và Cái Của Ta, do chấp vào ngũ uẩn nên sinh lòng tham, vì dục vọng luôn theo sát bên ta. Lòng tham do tham sắc, tham do thọ uẩn, tham do tưởng uẩn thúc đẩy nên mới có ý tưởng thực hành nghiệp. Và cũng từ đó gây ra bao nhiêu đau khổ cho con người.

Ngã chấp phát triển như thế nào?

Một đứa bé mới sinh ra đời chưa có cảm tính về một “Cái Ta” riêng biệt trong tâm thức của nó. Dần theo môi trường sống lớn lên, đứa bé được cha mẹ, những người thân chung quanh nhét vào trong tâm thức những ý niệm về Cái Của Ta. Đây là cha mẹ của nó, thức ăn của nó, cái giường ngủ của nó, đồ chơi của nó, cái phòng của nó, cái chén cái ly này là của nó, anh chị em của nó….Vì là của nó nên nó phải bảo vệ giữ gìn Cái Của Nó từ đó tâm thức bắt đầu phát triển những ý niệm ích kỷ hẹp hòi. Cái Ta ấy mỗi ngày tiếp tục biến đổi và sinh trưởng dưới tác động của những điều mà nó học hỏi mới và các kinh nghiệm mới trong cuộc sống và trong tâm thức của nó lúc nào cũng có Cái Ta mới khác hẳn với Cái Ta trước đó. Nói chung Cái Ta thay đổi từ lúc còn bé thơ, dần đến trưởng thành và sau cùng là đến lúc mạng chung. Mỗi thời điểm trong cuộc đời có một Cái Ta khác biệt, nào là Cái Ta lúc còn đi học, Cái Ta bước vào ngưỡng cửa cuộc đời, Cái Ta của những cặp nhân tình, Cái Ta của những đấng cha mẹ, Cái Ta của những người lớn tuổi và cuối cùng Cái Ta của người sắp hấp hối. Nói chung, Cái Ta đang tuần tự biến dạng trong kiếp sống này qua những thể dạng khác nhau từ trẻ thơ, đến trưởng thành, rồi già nua và sau cùng nhờ vào cái chết để trở thành Cái Ta của một đứa bé khác dưới một cái tên gọi khác, vào trong một gia đình khác, một dòng họ khác, một quê hương khác, một tôn giáo khác và dĩ nhiên nó mang theo bao nhiêu kinh nghiệm, ký ức, kiến thức từ kiếp trước dưới hình thức những vết hằn ghi đậm trên dòng tri thức liên tục của nó. 

Con người cố bám víu vào Cái Ta và Cái Của Ta dưới đủ mọi hình thức và họ quan niệm rằng Cái Ta chính là sự sống trong cuộc đời. Nhưng trên thực tế, mỗi khi xảy ra sự nắm bắt và bám víu vào bất cứ hiện tượng gì trên thế gian từ vật chất đến tinh thần, kể cả những thứ tốt đẹp nhất thì tức khắc nó sẽ sinh ra phiền não khổ đau.

Thí dụ nếu xem thân xác này là Của Ta thì chắc chắn chúng ta phải quý trọng và cưng chìu thân. Lo sợ khi thân mất. Nhưng thân này thực sự nó là Của Ta chăng? Nếu nó là Của Ta thì Ta phải làm chủ nó. Ta bảo nó đừng già, đừng bệnh, đừng chết…nó có nghe không? Nếu là Của Ta thì tại sao Ta không mang nó theo khi chết mà tứ đại trở về với cát bụi?

Tệ hại hơn nữa, nếu bây giờ nghĩ rằng tâm thức là Của Ta thì tâm sẽ dấy lên biết bao dục vọng để vun bồi cho Ta và những cái thuộc về Ta.

Đức Phật sinh ra trong cung vàng điện ngọc nhưng Ngài thấy rằng những nỗi khổ lúc nào cũng tiềm ẩn phía sau tuổi trẻ, sức khỏe và đời sống của tất cả mọi chúng sinh. Nỗi khổ là hiện tượng vô hình, nhưng nó lại tác động không kém gì những nhát đao, những thanh kiếm xuyên suốt vào tâm của con người. Cái đau đớn trong tâm hồn nhất thiết không thương sót một ai. Người giàu sang phú quý cưu mang nỗi khổ của người giàu, kẻ nghèo khó cũng phải gánh chịu những nỗi bất hạnh đau đớn dành riêng cho họ. Ông hoàng bà chúa có những nỗi khổ niềm đau  theo lối vua chúa, ngược lại kẻ bần cùng cũng có cái đau cái đớn chẳng khác gì. Nhưng tại sao chúng sinh lại phải khổ?

Trong bộ Trường A Hàm (Dĩgha Nikàya) Đức Phật dạy rằng: 

Ái dục bắt nguồn từ đâu và phát sanh ở đâu? Nơi nào có thỏa thích và dục lạc, nơi đó có ái dục bắt nguồn và phát sanh. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp có thỏa thích và dục lạc. Vậy ái dục bắt nguồn từ đó và phát sanh ở đó.

Con người vì bị vô minh che lấp nên không nhìn thấy biết đúng và từ đó ái dục có cơ hội phát sinh rồi chấp thủ, khư khư bám chặt lấy “Cái Ta” và những cái gì gọi là “Cái Của Ta”.  Thí dụ bất cứ ai cũng có thể xây dựng một ngôi nhà, bằng gỗ, bằng gạch hay bằng xi măng cốt sắt, nhưng Đức Phật dạy rằng loại nhà ấy không phải thật sự là “Cái Của Ta mà chỉ là của ta trên danh nghĩa, theo quy ước, trong khái niệm. Nó là một hiện tượng mà chúng ta gọi cái nhà trong thế gian vậy thôi. Còn ngôi nhà thật sự của chúng ta là trạng thái an tĩnh trong tâm thức. Một cái nhà vật chất ở ngoại cảnh có thể thật đẹp, nguy nga tráng lệ, nhưng nó chính là nguyên nhân tạo từ lo âu này đến lo âu khác, băn khoăn tự lo nọ đến áy náy buồn phiền kia. Vì nó ở ngoài ta tức là vật ngoại thân nên sớm muộn gì rồi ta cũng phải bỏ lại cho nên càng bám víu vào nó thì càng khó dứt bỏ tức là càng khổ đau thêm. Nó không phải là nơi chốn mà ta có thể sống vĩnh viễn trong đó, bởi vì nó không thật sự thuộc về ta mà là một phần của thế gian. Do đó ái dục làm động cơ thúc đẩy con người đưa đến hành động tạo nghiệp bất thiện bằng chính thân, khẩu hay ý của ta. Chính ái dục, nằm trong phạm vi ảnh hưởng của vô minh,  sai khiến con người luyến ái, đeo níu, bám chặt vào đời sống và lòng ham muốn khát khao ấy lôi cuốn con người lặn hụp triền miên trôi nổi từ kiếp sống này đến kiếp khác. Do đó có sống là có khổ. 

Nói chung khổ là trạng thái không thỏa mãn, bất toại nguyện làm cho con người khó chịu. Hạnh phúc mà con người đeo đuổi cũng không thể tồn tại vì những điều kiện tạo duyên cho nó phát sinh luôn biến đổi vì thế không có hạnh phúc nào thật sự vững bền cả. Những điều mà chúng sinh mong muốn chỉ tồn tại nhất thời và những đối tượng mà con người khao khát mong mỏi chẳng qua chỉ là phù du tạm bợ, có đó rồi rồi mất đó chẳng khác nào như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt một làn hương.

Nếu con người biết huân tập nhiều hạt giống thiện thì những chủng tử lành đó có công năng dẫn dắt họ tái sinh vào những cảnh giới an lành để tiếp tục hưởng những quả báo tốt đẹp. Ngược lại thì phải thọ báo vào cảnh giới khổ não, đau thương. Nghiệp là hành động lập đi lập lại nhiều lần rồi thành thói quen tức là tập khí. Chính cái thói quen, hay tập khí này có sức mạnh phi thường mà Phật giáo gọi là nghiệp lực để tùy duyên, chiêu cảm đến môi trường thích hợp mà thọ sinh. Tuy nhiên, đạo Phật là đạo chuyển nghiệp nghĩa là trong quá khứ cho dù con người vì sống trong vô minh bất giác tạo nên bao nhiêu tội nghiệp (nhân). Nhưng nếu bây giờ biết thức tỉnh, dừng lại, tu tâm dưỡng tánh, tránh xa ác nghiệp, tạo nhiều thiện nghiệp thì những ác nhân đó không có cơ hội tác tạo với ác nghiệp để gây ra cảnh khổ cho mình. Nhân (cause) mà không có duyên (conditions) thì tuyệt đối không bao giờ thành quả (effect). Cũng như gạo (nhân) mà không có nước, không nấu (duyên) thì không bao giờ thành cơm được (quả).

Ngày nay con người thay vì cố tìm cách thay đổi cuộc sống cho phù hợp với đạo đức nhân bản thì họ nhắm mắt đi tìm phước báo. Giáo lý của Đức Phật rất ngắn gọn, đó là nên tránh xa các việc ác và cố gắng làm các việc lành. Khi đã thành tựu rồi thì cố gắng giữ gìn tâm ý cho được thanh tịnh là có giải thoát. Nhưng đa số người tu Phật cừ lờ đi, tuy họ cũng làm việc thiện mà không muốn buông bỏ những thói quen xấu của mình. Do đó đi tìm phước báo mà không buông bỏ tánh ác thì không bao giờ có. Tất cả hành vi thiện, ác đều do từ thân, khẩu, ý mà ra cho nên đó là nơi mà bạn phải nhìn lại mình mà nhà Phật gọi là “Phản quang tự kỷ”.

Nhìn lại để thấy biết thực hành thân, khẩu, ý thế nào mà có an lành, hạnh phúc. Ngược lại, cũng nhìn lại để thấy biết thực hành thân, khẩu, ý như thế nào mà phải gánh chịu phiền não, khổ đau. Chúng ta hằng ngày cố gắng cực nhọc lo lau sạch nhà cửa, xe cộ, chén bát nhưng lại quên không nhìn lại sự dơ bẩn trong tâm của mình. Bởi vì không nhìn lại chính mình, con người mới có thể làm đủ điều xấu. Tuy bạn có lương lẹo, gian xảo đến đâu thì không bao giờ bạn có thể đánh lừa lương tâm của mình được. Vì thế nếu biết nhìn vào chính mình thì bạn sẽ biết phân biệt thiện, ác rất rõ ràng. Nếu bạn sắp làm một việc ác, bạn nhìn vào chính mình đúng lúc thì bạn có thể dừng lại. Vì tâm luôn hướng ngoại  nên tâm chứa đầy tham vọng và ảo tưởng, nhưng bây giờ nếu nhìn vào bên trong, nhìn lại chính mình thì bạn sẽ thấy rất rõ điều thiện và điều ác. Thấy điều thiện nhắc nhở chúng ta cố gắng nỗ lực tiếp tục và tăng trưởng thực hành điều thiện.  Làm điều thiện và buông bỏ điều ác là có phước báo ngay. Đức Phật dạy rằng: “ Chúng sinh nếu muốn vun bồi phước báo của mình cho được viên mãn thì hãy lánh xa điều ác” nghĩa là nếu mình không làm điều ác thì tất cả việc làm bây giờ đều trở thành thiện hết mà không cần phân biệt thiện, ác gì cả. Ngược lại tuy có làm vài điều thiện, nhưng vẫn còn làm điều ác thì vẫn còn lo lắng, ưu bi, khổ não triền miên. Do đó, nếu tâm của chúng ta thiện lành và đức hạnh thì đây là hạnh phúc trong đời này vậy. Đối với con người hạnh phúc là diễn tiến theo ý muốn của họ, là khi mà mọi người trên thế giới chỉ nói những lời tốt đẹp đối với họ, nhưng nếu thực sự đây là hạnh phúc mà bạn mong muốn thì chính bạn đã xây lâu đài trên cát. Không những người ngoài làm chúng ta bực bội mà ngay cả những người thân yêu quanh chúng ta đôi khi cũng làm cho chúng ta buồn phiền, ưu bi, khổ não. Thậm chí, chính chúng ta cũng làm cho chúng ta buồn bực, không vui. Vì vậy, nếu bạn biết nhìn lại chính mình để buông bỏ điều ác thì chính mình sẽ có hạnh phúc bởi vì tâm lành thì không có lo âu, phiền não. Khi tâm thanh thản, bạn nở một nụ cười. Ngược lại tâm rối ren, lo lắng thì lòng bực dọc, mặt khô cằn, hung hăng, tức giận. 

Tôn chỉ của đạo Phật là giúp chúng sinh giải thoát ra khỏi mọi hệ lụy của phiền não khổ đau để có cuộc sống an vui tự tại mà muốn đạt đến cứu cánh này thì chúng sinh phải biết buông xả. Vì thế trong Kinh Trung A Hàm (Majjhima Nikaya), Đức Phật đã tóm gọn cốt lõi của đạo Phật trong một câu thật ngắn gọn cho những ai muốn đi trên con đường  giải thoát giác ngộ, đó là”Không được bám víu vào bất cứ gì cả” mà Kinh Kim Cang gọi là “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” nghĩa là một khi mắt, tai, mũi, lưởi, thân và ý tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà tâm không bám víu, chấp thủ.    

Cùng ý niệm đó, trong kinh Bahiya Sutta, Đức Phật giảng giải cho một đệ tử tên là Bahiya về sự bám víu, chấp thủ một khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần như sau: 

"Này Bahiya,

Khi nhìn thấy một hình tướng, thì đấy chỉ là cách trông thấy.

Khi nghe thấy một âm thanh, thì đấy chỉ là cách nghe thấy.

Khi ngửi thấy một mùi, thì đấy chỉ là cách ngửi thấy.

Khi nếm thấy một vị, thì đấy chỉ là cách nếm thấy.

Khi xảy ra một sự cảm nhận trên thân xác, thì đấy cũng chỉ là một sự cảm nhận.

Và mỗi khi có một tư duy hiện ra, thì đấy cũng chỉ là một hiện tượng tự nhiên hiện ra trong tâm thức.

Đấy là cách không có cái ngã.

Đấy là sự chấm dứt của dukkha (khổ đau). Đấy là nibbâna (niết-bàn).

Bài kinh trên tuy ngắn gọn, nhưng rất quan trọng. Vậy hãy nghiệm xem Đức Phật muốn dạy chúng ta những gì?

1) Khi mắt nhìn thấy hình tướng nào đó thì chỉ cần biết là mắt thấy hình tướng là đủ, đừng cho rằng mắt Ta thấy hình tướng đó thì sẽ vắng bóng Cái Ta và Cái Của Ta trong tâm thức. Tại sao? Thí dụ nếu mắt thấy chiếc xe thì chỉ là chiếc xe thôi cũng như mắt thấy trăm ngàn vật thể khác cho nên cái thấy đó không có dính mắc, cái thấy dững dưng không có gì quan trọng. Đó là thấy mà cũng như không thấy nên tâm không dao động. Ngược lại nếu cho là mắt Ta thấy chiếc xe thì cái thấy bây giờ là mình thấy, mình đem hình bóng chiếc xe đó vào tâm mình rồi ái dục phát sinh, lòng tham đắm nỗi dậy và nỗi khổ niềm đau cũng từ đó phát sinh. Nếu cố gắng làm đêm làm ngày để có tiền mua chiếc xe giống vậy thì quá khổ, còn muốn mà không được thì quá khổ tâm.

2) Khi tai nghe tiếng nhạc thì biết là tai đang nghe nhạc. Đừng cộng thêm ngã chấp vào mà nghĩ rằng tai Ta đang nghe nhạc.

3) Khi mũi ngửi mùi hương thì biết mũi đang ngửi mùi hương thế thôi.

4) Khi lưỡi nếm vị ngọt thì biết lưỡi đang nếm vị ngọt là đủ.

5) Khi thân đụng phải vật cứng hay mềm thì biết thân đang đụng vật cứng hay mềm chớ đừng cho rằng thân Ta đang đụng vật cứng hay mềm.

6) Cuối cùng khi có một tư tưởng hiện ra trong tâm thức thì biết có tư tưởng đang hiện ra trong tâm thức là đủ.

Thí dụ khi muốn làm một việc (thiện) gì cho người khác thì chỉ lo làm cho hoàn tất, tạo niềm vui cho kẻ khác là đủ thì tâm tự tại. Ngược lại, nếu cho rằng chính Ta làm việc đó thì trong tâm sẽ đặt ra vô số điều kiện tức là tâm còn dính mắc. Nào là muốn người trả ơn, nào là muốn người khác khen tặng, chụp hình, đăng báo thì phiền não tức thì phát sinh, không còn tự tại. Đây là sự khác biệt giữa việc làm vô ngã vị tha (vì người mà làm) và bản ngã tư lợi (mua bán, kinh doanh).

Nếu con người biết tư duy quán chiếu và thực hành đúng những lời dạy của Đức Phật ở trên thì trong họ cái tự Ngã dần dần bị tiêu diệt và những cảm tính về “Cái Ta” và “Cái Của Ta” cũng không còn. Đây là con đường thoát khổ, giải thoát tự tại Niết bàn tức là:

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” rồi vậy.

Vì vậy nếu con người sống trong chánh niệm tĩnh thức, không chạy theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì những cảm tính về “Cái Ta” và “Cái Của Ta” sẽ biến mất và đúng vào thời điểm đó không còn hình bóng của khổ đau và dĩ nhiên Niết bàn thanh tịnh sẽ hiện bày.

Thế thì đắc đạo rồi có còn đau khổ không?

Trở lại với kinh Na Tiên Tỳ Kheo:

Vua Di Lan Đà hỏi:

- Bạch Đại đức, bậc tu hành đắc đạo không còn tái sanh trong đời sau, nhưng trong đời nầy có còn thấy mình đau khổ nữa không?

- Tâu Đại vương, tùy từng việc một. Có việc còn thấy đau khổ, có việc không.

- Có việc có, có việc không, là như thế nào?

- Đau khổ của thân thì còn, đau khổ của tâm thì hết.

- Vì sao vậy?

- Sở dĩ thân còn đau khổ là vì nhân duyên sinh ra loại đau khổ nầy là thân, hễ nhân duyên ấy còn tồn tại thì đau khổ của thân còn. Sở dĩ tâm hết đau khổ là vì nhân duyên sinh ra loại đau khổ thứ hai là lòng tham dục, một khi tâm ý đã dứt trừ hết các điều dữ, tham dục không còn nữa, thì đau khổ của tâm hết.

- Bậc tu hành đã đắc đạo rồi mà không khiến thân lìa được khổ đau, như thế là chưa chứng đắc Niết Bàn chăng? Đắc đạo rồi mà thân còn đau khổ thì làm sao gọi là đắc đạo? Còn nán ở lại trần thế làm gì để còn chịu khổ đau?

- Tâu Đại vương, bậc đắc đạo không chuộng mà cũng không ghét, không tìm cầu mà cũng không xua đuổi. Bình thản mà sống giữa cõi đời nầy, không hấp tấp, không vội vả. Ví như chuối non không cần phải vú ép. Lại cũng không cần chờ chuối chín để chực hái. Vì vậy nên đức Xá Lợi Phất xưa có dạy rằng:

Không cần tịch diệt,

Cũng không cần trường sanh.

Chưa phải lúc thì ở,

Thời đến thì ra đi.

Vua nói:

- Hay thay! Hay thay!


----- Hết -----


7 thg 3, 2022

ĂN MÀY CỬA PHẬT (Phần 5)

Lê Sỹ Minh Tùng

Washington - Mùa Phật Đản PL 2559, DL 2015

 

Ý THỨC VÀ VÔ THỨC

Dựa theo quan niệm của những nhà tâm lý học Tây phương thì  Vô thức là  khái niệm chỉ các hiện tượng tâm lý, hành vi, cảm nghĩ tồn tại ở một cá nhân nào đó mà cá nhân đó không nhận thức được, không diễn tả được bằng ngôn ngữ cho mình và cho người khác. Đó là những hoạt động của hệ thống thần kinh nằm ở ngoài tầng ý thức của con người. Trong trạng thái vô thức, ý thức của con người không hoạt động hoặc hoạt động một cách mờ nhạt (thông thường ta gọi là theo quán tính hoặc thói quen). Lúc đó, hệ thống não bộ thần kinh không có kiểm soát về tính nguyên nhân và hậu quả, không đặt vần đề có mâu thuẩn hay nghi vấn mà cốt chỉ nhằm thỏa mãn đòi hỏi của bản năng và hành động xảy ra đó không có ảnh hưởng đến không gian và thời gian. Ngược lại những hành vi có ý thức luôn nằm trong phạm vi trách nhiệm, biết trước hậu quả sẽ xảy ra nghĩa là tại sao ta phải làm điều này và nó sẽ có kết quả ra sao.

Trong sách Strangers to Ourselves: Discovering the Adaptive Unconscious viết bởi giáo sư Timothy D. Wilson trang 24 có dẫn chứng rằng: Cứ mỗi giây, năm giác quan của con người là mắt thấy, mũi ngửi, tai nghe, miệng nếm và thân cảm xúc tiếp nhận khoảng 11 triệu ý tưởng từ bên ngoài đưa vào tâm. Trong 11 triệu ý tưởng đó thì mắt đã thâu nhận trên 10 triệu ý tưởng để chuyển vào hệ thống não bộ. Nhưng hệ thống thần kinh não bộ trong một giây chỉ có thể phân tích 40 ý tưởng. Cho nên câu hỏi các nhà khoa học đặt ra là 10,999, 960 ý tưởng không được bộ óc phân tích kia sẽ đi về đâu và sẽ có tác dụng hay ảnh hưởng đến tầng ý thức của con người như thế nào? Do đó nhà tâm lý học Sigmund Freud mới giới thiệu tảng băng tâm lý mà trong đó ông ta lý luận rằng phần tiền ý thức (trí nhớ, và lưu giữ kiến thức) và phần vô thức chiếm đa phần trong tâm tư của con người. Vô thức luôn hối thúc, lấn áp ý thức để con người có những tư tưởng, lời nói hay hành vi không thể kiểm soát được.

1) Ý thức kiểm duyệt và kiềm chế hành vi thúc đẩy bởi vô thức:

Thí dụ khi đi mua sắm ở Norstrom thì hàng hóa ở đó rất mắc tiền, rất đẹp. Lúc mắt thấy một món hàng quý giá thì vô thức luôn thôi thúc, xúi dục ta đánh cắp món hàng đó bỏ vào túi bất chấp có bị bắt, vào tù ra khám. Ngược lại, nếu có ý thức tức là quay về sống với lương tâm mà nhà Phật gọi là tánh giác thì chúng ta từ bỏ ngay ý định bất chánh đó.

Thí dụ đang làm việc, cảm thấy đói bụng khiến bạn muốn đi ra ngoài để mua thức ăn. Nhưng nhờ ý thức được trách nhiệm của mình và những hậu quả có thể xảy ra nếu mình bỏ ngang việc đi ăn khiến chúng ta ngồi lại và tiếp tục làm việc. Thế thì vô thức thôi thúc chúng ta thỏa mản dục vọng cho bản ngã (cái Ta), nhưng ý thức giúp ta nhận thức thế nào là đúng, thế nào là sai.

2) Ý thức có thể hóa giải thông qua vô thức:

Trong cuộc sống hằng ngày, cánh cửa tâm hồn được thông qua bởi ánh mắt, lời nói, cử chỉ hay những lời nói bộc phát tưởng như vô tình ở người đối thoại có thể giúp chúng ta hiểu phần nào những ẩn chứa trong tâm hồn của họ.

Thí dụ anh A thầm yêu chị B từ lâu, nhưng vì điều kiện gia đình hai bên không phù hợp cho nên anh A chỉ còn cách dấu trong tim tình yêu thầm lặng của mình. Một hôm, vì uống rượu nhiều, không kiểm soát được suy nghĩ  cho nên anh A đã nói hết nỗi lòng của mình cho mọi người nghe. Ở đây, ý thức thể hiện việc anh A thầm yêu chị B bằng cách giấu, nhưng ý thức đó được biểu hiện qua lời nói vô thức khi uống nhiều rượu nghĩa là rượu vô thì lời ra, không kiềm chế được.

Một thí dụ khác là việc điều tra về một vụ giết người. Khi nhân viên cảnh sát thẩm vấn nghi can thì người này có nhiều biểu tượng rất lạ như đổ mồ hôi, sợ hãi, nói năng không đồng nhất…Những dấu hiệu trên đều là biểu tượng của vô thức. Tuy hành vi giết người được che đậy bởi ý thức nhưng đã bị biểu hiện bằng những hành động vô thức.

Tuy nhiên có rất nhiều nhà nghiên cứu đã cùng quan niệm rằng phần lớn tư duy của con người được bắt đầu từ vô thức bởi vì vô thức là nền tảng của ý thức. Trong đó, biết bao kính nghiệm, ký ức, tiềm năng đã được chất chứa trong cái kho vô thức. Họ lý luận rằng vô thức bao giờ cũng có trước vì đó là tiềm năng bẩm sinh mà ai cũng có, nhưng vấn đề là nó có được đánh thức hay không và đánh thức ở mức độ nào. Vì vậy, ý thức là cái có sau, được hình thành qua quá trình sống và phụ thuộc vào nhiều hoàn cảnh môi trường của cuộc sống. Sau cùng, các nhà phân tâm lý học (Psychoanalysis) mà trong đó Bác sĩ Freud là người dẫn đầu kết luận rằng “Vô thức và ý thức liên quan mật thiết với nhau, thiếu một trong hai đều dẫn tới tư duy què quặt. Nhưng quan trọng nhất là vô thức đóng vai trò thiết yếu trong quá trình sáng tạo của con người, góp phần tạo nên các thiên tài, vĩ nhân, thần đồng trong mọi lãnh vực từ âm nhạc, hội họa, kiến trúc, khoa học cho đến tâm linh…

Một thí dụ về khoa học là nhà bác học Mendeleev (1834-1907), người phát minh bảng phân loại tuần hoàn các chất hóa học sau một giấc ngủ. Đây không phải là sự ngẫu nhiên mà là kết quả của công trình nghiên cứu lâu dài của bộ óc. Với tất cả những kinh nghiệm nghiên cứu được cất giữ trong tầng vô thức và đúng một thời điểm nào đó thì từ trong tầng vô thức, những khám phá đó được bộc lộ mà chúng ta gọi là phát minh. Nói chung những thiên tài trong xã hội là những người có trực giác rất cao. Họ có khả năng trực nhận tri thức từ vô thức mà có những khám phá phi thường. Rất nhiều các phát minh sáng tạo khoa học, các luận thuyết khoa học được khám phá nhờ trực giác của những người có trực giác mạnh và nhạy bén.

Một thí dụ khác là khi mới bắt đầu tập đi xe đạp, ban đầu chúng ta phải dùng ý thức để điều khiển các động tác như đạp bàn đạp, chuyển hướng và cố giữ thăng bằng…Đến khi thành thạo thì chúng ta ngồi lên xe là tự nhiên đạp bàn đạp, tay chuyển hướng mà không cần kiểm soát những hành tác theo ý thức nữa. Bởi vì những kinh nghiệm đó đã tiềm ẩn trong tầng vô thức mà con người chỉ cần đánh thức nó là có tác động ngay.

Trẻ em phần lớn sống bằng vô thức, rồi lớn lên thì ý thức đóng góp dần dần vào tiến trình tư duy của các em. Khoa học lý luận rằng vô thức đã có từ khi lọt lòng mẹ hay có thể từ khi còn nằm trong bụng mẹ. Điều này rất phù hợp với Phật giáo vì đạo Phật chủ trương rằng tuy con người mới kết tụ vào trong noãn bào của người mẹ thì Thức (ký ức, kinh nghiệm…của những đời quá khứ)(A lại da thức) đã theo sát đứa bé đó rồi. Vì thế khi sinh ra có những người rất giỏi về nhiều bộ môn khác nhau là như vậy. Có người là khoa học gia, luận sư, triết gia…Khi lớn lên chúng ta đi học, thực hành việc làm gì thì từ ý thức đó trở thành vô thức thông qua các hoạt động lập đi lập lại từ lúc nào. Sự tích tụ trong ký ức đó nhà Phật gọi là Uẩn.

Thế thì vô thức có thể chuyển hóa thành ý thức được không?

Khi còn bé vào Mall chúng ta thường đòi cha mẹ mua món đồ chơi cho bằng được. Nếu không thì khóc lóc…Như vậy hành động đòi mua quà của đứa bé là vô thức bởi vì nó không thể ý thức được hành vi của nó mà chỉ muốn thỏa mãn  ngã tính lúc đó mà thôi. Nhưng khi lớn lên, nó ý thức được được vấn đề, có sự chọn lựa. Bây giờ nó mới biết vì sao nó thích nên có nên mua hay không.

Do vậy, giữa ý thức và vô thức không có một ranh giới rõ ràng nào cả. Chúng luôn chuyển hóa lẫn nhau và cũng vì mối quan hệ đó là động cơ chính giúp con người quân bình đời sống tâm linh, không còn căng thẳng quá.

Nói chung vô thức với tính đa dạng và phức tạp của nó vẫn là chủ đề cực kỳ khó hiểu đối với các nhà khoa họa nghiên cứu về khoa tâm lý và thần kinh. Tuy con người luôn tự hào về những khám phá khoa học về vũ trụ, về lượng tử, về vi tính…nhưng đối với cái bộ óc nhỏ và hệ thống thần kinh chằng chịt trong họ thì vẫn còn rất nhiều bí ẩn mà có lẽ con người không thể nào hiểu hết được.

Tuy nhiên, trong Phật giáo không có vấn đề vô thức vì tất cả mọi biến hành của tâm cho dù là ở trạng thái tiềm ẩn thì cũng không phải là vô thức. Vô thức là một đề tài rất trừu tượng đã được nhà tâm lý học Sigmund Freud giới thiệu vào năm 1905 và sau đó có những nhà tâm lý học khác như Schopenhauer, Nietzsche..tiếp tục khai triển thêm.

Dựa theo định nghĩa của nhà tâm lý học Sigmund Freud thì “Vô thức là những sự kiện tâm linh cá nhân, chìm khuất trong góc tối của tâm hồn và không bao giờ biểu hiện, không thể dùng ý chí để điều khiển được. Nó là động cơ tiềm ẩn, có khi trở nên mãnh liệt, thôi thúc hành động đến mức không kiểm soát được, không hợp với lý trí. Vô thức được ví như phần chìm của tảng băng tâm linh, góp phần quyết định trong việc hình thành các khuynh hướng của mỗi cá nhân. Trong vùng vô thức liên tục diễn ra cuộc đấu tranh giữa bản năng với bản ngã, giữa phần "con" và "người" và bản năng sẽ bị dồn nén lại trong hàng rào kiểm duyệt (censure) không cho vượt qua lên tầng ý thức được. Nên những xung lực này chỉ biểu hiện phần nào trong các giấc mơ và phần lớn trong các chứng loạn thần kinh (névroses). Vô thức nằm ở đáy sâu tăm tối của tâm linh nên không thể thực nghiệm và không thể khảo sát được bằng các trắc nghiệm.

Để giải thích một cách cụ thể, Freud, nhà tâm lý học quốc tịch Áo, khảo sát và sáng lập phân tâm lý học từ năm 1880. Ông đã viết thành sách năm 1905 và  phát họa vô thức dựa theo một họa đồ như sau:

Bây giờ hãy phân tích tảng băng tâm lý của Freud để xem nó có những trùng hợp nào với giáo lý Phật Đà chăng?

1) Mức ý thức: trong đó Freud bao gồm hai phần là suy nghĩ và nhận thức. Đây là phần ý thức tức là cái biết có phân biệt của Phật giáo.

2) Mức tiền ý thức: gồm có Trí nhớ và lưu giữ kiến thức. Trí nhớ thì thuộc về Tưởng uẩn và lưu giữ kiến thức thì thuộc về Thức uẩn.

3) Mức vô thức: Dựa theo bác sĩ Freud thì Mức vô thức gồm có các nỗi lo sợ, các động cơ bạo lực, các mong muốn tình dục không được thỏa mãn, các nhu cầu vị kỷ, các trải nghiệm gây xấu hổ, các mong muốn phi lý…Nói chung tất cả những gì Freud diễn tả ở tầng mức vô thức này không gì khác hơn là những tác ý của Hành uẩn. Nhưng ở đây, Freud chỉ nêu ra những tác ý bất thiện, những tham vọng bất chánh trong khi đó Hành Uẩn của Phật giáo còn bao gồm những tác ý thiện, chân chánh nữa.

Khi con người có những tư tưởng xấu ác, lời nói hung dữ hay hành động tàn ác thì trong tâm phải có tác ý bất thiện đó. Ngược lại nếu chúng ta có những tư tưởng tốt, lời nói hài hòa, hành động nhân ái thì đây là những tác ý thiện. Nói chung tập hợp của tất cả “tác ý” thiện hay bất thiện được thể hiện bằng tư tưởng, lời nói hay hành động thì gọi chung là hành uẩn.

Thêm nữa, khi ngủ không phải là ở trạng thái vô thức bởi vì tuy mắt không mở, tai không nghe…nhưng ý thức vẫn hoạt động nên con người vẫn biết cho nên nếu ai la lớn, hay đánh mạnh thì ý thức tác động khiến chúng ta thức giấc.

Tuy khoa học ngày nay còn mò mẫm về ý thức và vô thức, nhưng Phật giáo đã có nhận định rất rõ ràng sự vận hành của ngũ uẩn mà trong đó tất cả những tác ý đều có thể dùng tỉnh thức chánh niệm để kiểm soát nó. Đức Phật dạy rằng Thức là tâm vương, là đầu dây mối nhợ cho bất cứ tư tưởng, lời nói hay hành động nào của con người. Còn Thọ, Tưởng, Hành là tâm sở, là những trợ duyên để tâm vương thực hành ý định đó. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là năm giềng mối bổ túc cho nhau. Nếu không có thọ, tưởng thì không thể có thức. Cũng như nếu không có sắc thì không thể nào có thọ hay tưởng được. Có biết những biến hành của tâm hành giả có thể làm chủ thân, khẩu, ý của mình thì cuộc đời sẽ không còn hệ lụy khổ đau.


6 thg 3, 2022

ĂN MÀY CỬA PHẬT (Phần 4)

Lê Sỹ Minh Tùng

Washington - Mùa Phật Đản PL 2559, DL 2015

 

NGŨ UẨN

Ngày xưa sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài thuyết giảng rất nhiều về chân lý Vô ngã trong đó hai pháp môn Đức Phật giảng dạy nhiều là Thập Nhị Nhân Duyên và Ngũ uẩn. Nhưng Ngài nói để làm gì? Có lợi ích gì? Đức Phật giảng về nhân duyên là vì muốn diệt trừ sự khổ đau cho chúng sinh. Con người có khổ cũng vì tham Ái. Một khi trạng thái luyến ái  bám vào thì con người cứ nắm chặt lấy đối tượng nên gọi là Thủ. Cũng do nơi Thủ mà chúng ta làm nô lệ cho khát vọng của mình mà nhắm mắt chạy theo ham muốn. Thí dụ ra đường thấy người đánh rơi một xấp bạc, nếu không có Ái, Thủ thì chắc chắn không ai lượm xấp bạc đó để làm gì. Vì có Ái, Thủ cho nên chúng ta mới lượm xấp bạc về cho Ta. Do tầm quan trọng của sự khát Ái, Đức Phật dạy rằng: “Nếu nhổ bỏ khát Ái đến tận cùng gốc rễ, không còn đói và khát thì được giải thoát khỏi phiền não”. Thế thì khi không còn khát Ái cho dù có thấy tiền thì cũng mặc kệ, dửng dưng. Không còn Ái, Thủ cho dù có thấy vàng, thấy bạc, thấy kim cương thì cũng như thấy đất, thấy sỏi, thấy cát, chẳng có giá trị gì cho lắm, chẳng động tâm.

Nhưng tại sao lại chấp Thủ? Tại sao có tham Ái? Cũng bởi vì chấp có Cái Ta cho nên sinh ra tham Ái. Nếu không có cái Ta thì không bao giờ có mặt của tham Ái được. Đó là chấp Ngã nghĩa là chấp Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức làm ngã, làm riêng của Ta. Nói về  ngũ uẩn là năm thành phần kết hợp lại thành con người, thành một giả tướng mà chúng ta chấp là có thật, là bền vững và là riêng của Ta. Nhưng đâu phải hễ có ngũ uẩn là con người. Con heo, con bò, con chó... cũng có đủ ngũ uẩn nhưng chúng đâu phải con người. Con người sở dĩ cũng là một dạng động vật bậc cao, là sự kết hợp giữa các uẩn, là vì  Vô minh. Khi con người đang bị vô minh che lấp nên liền chấp thân, tâm hiện tại là Ta, là ông A bà B, do cha mẹ Ta sinh ra, thuộc dòng họ ông bà của Ta cho nên những kiếp quá khứ quên hết, không biết Ta từ đâu đến…Cứ thế con người chấp thủ nơi sắc thân tứ đại làm Ta, chấp những cảm Thọ làm Ta, chấp nơi các Tưởng tượng mà cho là Ta tưởng…Vì thế con người dựa vào ngũ uẩn mà chấp là Ta, là của Ta. 

Ngũ uẩn không phải là ngã mà chính là sự vận động tự nhiên của một dạng sinh vật sống, tồn tại và hoạt động theo cơ chế vận hành của thân và tâm (đây là sự kết hợp giữa các bộ phận cấu thành nên thân + các cảm xúc, cảm giác + các liên tưởng về hiện tượng + các hoạt động và suy nghĩ + các nhận thức và lưu trữ). Tuy vậy, nhưng chúng ta lại chấp nó là ngã, tất cả cũng bởi do Vô minh mà ra. Đây chính là cái gốc của khổ đau và Đức Phật muốn nhổ cái gốc khổ đau đó bằng cách chỉ cho chúng sinh thấy biết rõ là trong Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức không có cái ngã nào trong đó cả. Để chứng minh sự Vô ngã trong ngũ uẩn, Đức Phật dùng lý Nhân Duyên để giải thích rằng ngũ uẩn là do các duyên hợp lại mà thành và trong mười hai nhân duyên đó không có cái gì là Ta cả. Ở đây, Đức Phật muốn chỉ rõ chân lý Vô ngã ở trong ngũ uẩn, nghĩa là ngũ uẩn là ngũ uẩn chớ chẳng có gì là ngã, là Ta. 

Trong kinh Tương Ưng Bộ tập 3 có ghi lại rằng:

"Năm uẩn là gánh nặng,

Kẻ gánh nặng là người,

Cầm lấy gánh nặng lên,

Chính là khổ ở đời.

Còn bỏ gánh nặng xuống,

Tức là lạc không khổ,

Gánh nặng bỏ xuống xong,

Không mang theo gánh khác.

Nếu nhổ khát Ái đi,

Tận cùng đến gốc rễ,

Không còn đói và khát,

Được giải thoát tịnh lạc”.

Ngũ uẩn chính là gánh nặng cho nên người trút bỏ được gánh nặng là người giải thoát trở thành Thánh giả A la hán. Khi đạt được trạng thái hoàn toàn giải thoát, vị A-la-hán sẽ nhìn lại tâm mình và thấy rằng:"Việc cần làm đã làm xong, đã bỏ gánh nặng xuống, phạm hạnh đã lập, không còn tái sinh nữa".

1. Ngũ Uẩn là gì?

Uẩn có nghĩa là tích tụ thành một khối cho nên con người chỉ là một hợp thể của năm cái thứ tích tụ. Vậy tích tụ cái gì? Thí dụ khi mắt của đứa bé lần đầu tiên thấy trái cam thì sự thấy biết này rất rõ ràng và khách quan, thấy sao biết vậy. Dần theo thời gian, nó lại thấy một trái cam nữa, rồi thấy nhiều trái cam nữa và cứ như thế hình ảnh của những trái cam đó tích tụ trong nhận thức của nó. Cho nên khi đứa bé bây giờ, nó nhìn một trái cam thì nó không còn nhìn một cách khách quan nữa, mà trong tâm tưởng của nó đã có biết bao hình ảnh của những trái cam trong quá khứ chồng lên hình ảnh trái cam nó vừa nhìn thấy. Đứa bé không còn nhìn trái cam một cách mới mẻ, mà bị ảnh hưởng bởi những ký ức, kinh nghiệm trong quá khứ chồng chéo lên hiện tại.

Do vậy, cái nhìn của đứa bé bây giờ không còn trung thực, khách quan mà bị ảnh hưởng của ký ức, cái nhìn đó dễ bị đánh lừa khiến cho nó có những nhận định sai lầm, thiếu trung thực. Tại sao cùng nhìn một đối tượng, nhưng trong tâm tưởng mỗi người cảm nhận khác nhau? Bởi vì nếu nhìn đối tượng đó bằng trực giác, thấy sao biết vậy như tấm gương phản chiếu thì mọi người nhìn và thấy biết giống nhau. Nhưng do mỗi người cưu mang biết bao kinh nghiệm, ký ức của cuộc sống khác nhau, cho nên những kinh nghiệm đó trở thành nhận thức của họ, đã ảnh hưởng sai lệch đến sự thấy, biết đối tượng của hiện tại khiến họ có cái nhìn khác nhau về đối tượng đó.

Một thí dụ khác là có 20 sinh viên trong một lớp vẽ tranh. Vị giáo sư để trên bàn một bình hoa và tất cả mọi người bắt đầu vẽ.  Tuy cùng nhìn một bình hoa trên bàn, nhưng 20 sinh viên mang 20 tâm trạng khác nhau vào phòng vẽ cho nên sẽ có 20 bức tranh vẽ về bình hoa khác nhau. Vì thế cái thấy biết của 20 sinh viên đó không còn khách quan, thấy sao vẽ vậy như cái máy chụp hình, mà họ vẽ dựa theo kinh nghiệm chất chứa trong tâm hồn của họ. Sự tích tụ trong ký ức đó gọi chung là uẩn.

Dựa theo Phật giáo, con người gồm có hai phần là thân xác và tâm linh. Phần thân xác có hình dáng nên gọi là Sắc uẩn và phần tâm linh gồm có Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn. Tuy nhiên, trong kinh Nikayà, ngũ uẩn thường được gọi là Ngũ thủ uẩn nghĩa là năm đối tượng của sự chấp thủ, của tâm tham ái. Vì thế sự chấp thủ vào ngũ uẩn là nguyên nhân của biết bao nỗi khổ niềm đau mà con người gánh chịu trải qua bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp. Ngược lại, đối với người giác ngộ thì ngũ uẩn lại là phương tiện giúp họ giải thoát. Vì vậy, Phật và ta không hai, không khác, không thể tìm Phật ngoài tấm thân ngũ uẩn này được.

Một khi con người bám víu vào ngũ uẩn và xem đó là Ta, là Của Ta, là tự Ngã của Ta thì nỗi khổ niềm đau trong cuộc sống sẽ xuất hiện tức thì. Những khái niệm về thân thể Tôi, tình cảm Tôi, cảm giác của Tôi, ý tưởng của Tôi, quan điểm của Tôi, nhận thức của Tôi... hình thành một cái tự Ngã, một Cái Tôi độc lập và từ đó sự tham muốn, ích kỷ phát sinh và kéo theo biết bao khổ đau, lo lắng, buồn phiền, sợ hãi, thất vọng, điên cuồng gắn liền với cái tự Ngã đó.

Ngày xưa, Đức Phật thực chứng ngũ uẩn qua thân tâm và chúng sinh ở thế gian là Vô Ngã, từ đó Ngài thấu đạt được Khổ đế nằm trong chân lý Tứ Diệu đế. Có thấu hiểu bản chất của thân tâm là ngũ uẩn, hành giả mới có thể phá được ngã chấp, nghĩa là không còn chấp và bám víu vào thân, tâm này là Ta, là của Ta nữa, mà nó chỉ là sự vận hành tự nhiên của ngũ uẩn. Ngã chấp phá thì pháp chấp cũng phá nghĩa là không chấp thế gian, nhà cửa, xe cộ, cây cối, chim bay, cá lặn ngay cả vợ chồng, con cái… là thật. Ngã chấp, pháp chấp không còn  nghĩa là trong ngoài tự tại và giải thoát. Vì thế giáo lý ngũ uẩn giúp chúng sinh thấu biết bản chất thật con người, của mình để diệt trừ khổ đau và tiến về đạo lộ giải thoát.

1) Sắc uẩn (Material form):  Một hài nhi mới tượng hình chỉ là một giọt máu. Dần theo thời gian, giọt máu đó được nuôi dưỡng từ người mẹ cho đến lúc thành hình. Rồi sau khi sinh ra, hài nhi tiếp tục được nuôi dưỡng cho nên thân thể càng ngày càng tăng trưởng. Sự nuôi dưỡng bắt đầu từ một giọt máu cho đến khi trưởng thành là do ngoại duyên của người mẹ và thức ăn thức uống từ bên ngoài cho nên tất cả sự hấp thụ đó để hình thành sắc thân một con người thì gọi chung là sắc uẩn. Nói chung sắc uẩn là yếu tố vật chất bao gồm vật lý - sinh lý. Có bốn yếu tố vật chất căn bản hình thành sắc uẩn là:

1) Đất (solidity) bao gồm: tóc, lông, móng răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, ruột, lá lách, phèo, phổi, bao tử, …. của con người và thức ăn cung cấp vào cơ thể.

2) Nước (fluidity) gồm có mật, đàm, dịch, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước mỡ, nước miếng, nước mũi, dịch khớp xương, nước tiểu... của con người và nước cung cấp vào cơ thể.

3) Gió (motion or vibration) là hơi thở ra vào, đem nguồn sống dưỡng khí O2 vào trong cơ thể để nuôi tế bào và sau đó tải thán khí CO2 ra ngoài.

4) Lửa (heat) là thân nhiệt tức là năng lượng để nuôi thân và nguồn năng lượng này lấy từ thức ăn, thức uống hằng ngày.

Các yếu tố do tứ đại tạo ra thuộc về sinh lý như: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và  các đối tượng của giác quan như: hình sắc, âm thanh, mùi, vị, vật xúc chạm. Khi tứ đại kết hợp thì chúng ta có hình dáng và nếu không nhìn bằng cặp mắt trí tuệ thì chúng ta sẽ thêm vào cái hình dáng đó là Tôi, là Của Tôi. Do ý niệm sai lầm này khiến sự dính mắc phát sinh trong tâm của chúng ta. Như vậy yếu tố vật chất là thân thể hay ngoài thân thể, thuộc vật chất hay năng lượng, thuộc thời gian hay không gian đều bao hàm trong sắc uẩn. Thân thể là sắc uẩn, tự nó  không phải là một thực thể độc lập mà phải là một sự kết hợp giữa các vật chất biến động như mảng bọt trên mặt nước hay nếu nhìn kỹ chúng ta sẽ thấy thân tứ đại chỉ là những bọt vật chất tạm bợ. Thật vậy, nếu lửa tắt thì chết ngay. Thở ra mà không hít vào thì mất mạng. Không ăn uống vài tuần thì cũng chết.  Nói chung, thân thể muốn tồn tại phải nương vào các trợ duyên bên ngoài như ánh sáng mặt trời, thức ăn thức uống, không khí, đất cát, cái mặc, chỗ trú... vì thế thân tứ đại là vô thường, vô ngã tức là Không. Con người vì bị vô minh che lấp nên không nhìn thấy biết đúng mà cho rằng thân xác này thực sự là Của Ta. Nếu thân này là Của Ta thì Ta phải làm chủ nó. Ta bảo nó đừng già, đừng bệnh, đừng chết…nó có nghe không? Nếu là Của Ta thì tại sao Ta không mang nó theo khi chết mà tứ đại trở về với cát bụi? Đức Phật thật chứng qua các tầng thiền định, thiền tuệ giúp Ngài thấu biết rằng thân xác của Ngài không phải thật sự là của Ngài tức là thân là Vô Ngã cho nên mọi sự dính mắc, tham níu nơi thân bị diệt. Thân diệt thì tham, sân, si diệt tức là nguyên nhân gây ra khổ bị diệt. Khổ diệt thì Niết bàn hiển hiện cũng như có ánh sáng thì màn đêm biến mất.

Vì vậy bất cứ sự chấp thủ, tham ái cho thân thể (sắc uẩn), hoặc bất cứ một đối tượng vật lý, sinh lý nào cũng đều tiềm ẩn nguy cơ đau khổ cho nên Đức Phật dạy rằng “Ai cho rằng sắc uẩn là Ta, là Của Ta, là tự ngã Của Ta thì chắc chắn gặt hái đau khổ, thất vọng, sầu muộn, vấp ngã và tai nạn”.

2) Thọ uẩn (Feelings or Sensations): Thọ là cảm giác, do sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng mà sinh ra cảm thọ. Đức Phật dạy có sáu thọ: mắt tiếp xúc với hình sắc mà sinh thọ, tai với âm thanh, mũi với mùi, lưỡi với vị, thân với đối tượng tiếp xúc, ý với đối tượng nghĩ tưởng. Đối với cảm giác, theo Phật giáo không dừng lại ở mức độ tiếp xúc đơn thuần mà là cảm xúc, một biểu hiện sâu hơn của cảm giác. Trong Phật giáo, thọ được chia làm ba loại: lạc thọ, khổ thọ và vô ký thọ.

- Lạc thọ (sukhavedanā)(pleasant) là cảm nhận được cái vui, cái sung sướng ở thế gian nầy do sự tiếp xúc mà ra. Nếu lạc thọ thuộc về thân thì gọi là “lạc” (sukha) và lạc thọ thuộc về tâm thì gọi là “hỷ” (soma-nassa). Thí dụ mắt thấy nhà sang, xe đẹp; tai nghe lời dịu ngọt êm đềm; mũi ngửi hương thơm hay thân đang ở phòng mát mẻ thì sẽ sinh ra cảm giác sung sướng, thoải mái tức là lạc thọ. Muốn công hầu khanh tướng, đỉnh cao danh vọng, giàu sang phú quý là chạy theo lạc thọ.

- Khổ thọ (dukkhavedanā)(unpleasant) là cảm nhận sự đau khổ hay bất hạnh do cuộc đời đưa đến. Nếu khổ thọ thuộc về thân thì gọi là “khổ” (dukkha) và khổ thọ thuộc về tâm thì gọi là “ưu” (doma-nassa). Thí dụ mắt thấy cảnh đau thương, tai nghe lời nguyền rủa, miệng ăn vật cay đắng tanh hôi, mũi ngửi hương vị thối tha…khiến tâm cảm nhận khổ đau. Hoặc bị người đánh đập khiến thân đau đớn. Công danh thất bại, duyên số bẽ bàng là khổ thọ.

- Xả thọ (adukkhama-sukhāvedanā)(neutral) hay vô ký thọ là không vui cũng chẳng buồn. Lúc nào cũng vậy thôi, trước sau như một. Thí dụ hằng ngay ra đường mắt thấy biết bao chiếc xe, nhà cửa…tuy thấy tất cả mà chẳng quan tâm để ý thì tâm dững dưng không vui mà cũng chẳng buồn.

Con người có sáu căn tức là sáu giác quan (sáu cánh cửa) để tiếp xúc với ngoại cảnh vì thế sẽ có sáu loại cảm thọ tương xứng. Thí dụ mắt thấy hình sắc thì phát sinh cảm thọ đẹp, xấu. Tai nghe âm thanh liền cảm thọ vui, buồn. Lưỡi nếm thức ăn liền cảm thọ ngon, dở. Thân đụng da mềm liền cảm thọ lưu luyến, khoái cảm hay đớn đau…Nói chung, tất cả cảm thọ của con người từ thân đến tâm không ra ngoài lạc, hỷ, khổ, ưu và xả thọ.

Tóm lại có ba loại cảm thọ là lạc thọ, khổ thọ và vô ký thọ rồi sau đó sáu căn tiếp xúc với sáu trần tạo ra sáu lạc thọ, sáu khổ thọ và sáu vô ký thọ tổng cộng có 18 thọ. Sau đó có cảm thọ về quá khứ, hiện tại và tương lai. Tất cả những loại cảm thọ ấy tạo thành một dòng sông cảm thọ tâm lý chi phối hệ thống tâm thức. Dòng sông cảm thọ sinh khởi biến hiện thay đổi vô chừng. Chúng chuyển biến vô tận, vô thường, vô ngã và hiện hữu có điều kiện. Tuy nhiên, khi còn trẻ ngũ uẩn hoạt động bình thường cho nên cảm thọ rất nhạy bén đến khi già nua thì miệng ăn không biết ngon, mắt nhìn không thấy rõ, tai nghe ùn ùn, tiếng được tiếng mất cho nên cảm thọ là vô thường vô ngã chớ có chi là chân thật. Chấp thủ vào những cảm thọ đó bao giờ cũng sai lầm và gặt hái khổ đau.

Tuy nhiên, những cảm thọ sướng khổ cũng chẳng liên quan gì đến Cái Tôi bởi vì những cảm thọ đó có cũng bởi do duyên tạo từ bên ngoài chớ chẳng có cái gì thật sự là của tôi cả cho nên cuộc sống con người buồn vui lẫn lộn là vậy. Cảm thọ là do tác động của duyên từ bên ngoài nên nó không thật vì những ngoại duyên đó luôn biến đổi mà con người cứ chấp là thật, là bền chắc nên muốn giữ mãi những giây phút êm đềm đó. Nói cách khác khi tâm thọ nhận cảm giác liền bị vô minh che mờ mà không biết rằng cảm giác đó là do duyên hợp mà thành nên chúng là vô thường, vô ngã mà để cho lòng tham ái lung lạc khiến tâm có những cảm giác vui hay buồn và tệ hại hơn nữa cho những cảm giác đó là Ta vui hay Ta buồn.

Thí dụ vì không để ý, chúng ta đụng vào tường nên có cảm giác rất đau. Nếu biết quán thọ trên thân để thấy biết như thật thì cái đau trước đâu giống cái đau sau. Mỗi thời điểm có một cái đau khác nhau cho đến khi cái đau hoàn toàn biến mất. Vậy thế nào là thấy biết như thật? Đức Phật dạy rằng thấy biết như thật là trước đó một sát na khi xảy ra thì chúng ta không nghĩ đến và sau một sát na xảy ra rồi chúng ta cũng không quan tâm. Thế thì thấy biết như thật là ngay vào thời điểm hiện tại đó sự hiện hữu xảy ra thì chúng ta cũng ngay thời điểm đó tiếp nhận sự hiện hữu đó chớ không phải một sát na trước hay một sát na sau. Vậy thì cứ mỗi sát na toàn thân của chúng ta có sự thay đổi, chuyển hóa nhỏ mà chúng ta vẫn thấy biết như thật. Nếu chúng ta thấy sự chuyển hóa ở sát na trước mà chúng ta giữ lại thì chúng ta sẽ không biết sự chuyển hóa của sát na sau cho nên cái thấy biết này không còn thấy như thật nữa mà là cái thấy biết của quá khứ. Vì thế cảm thọ chỉ là ảo giác, chẳng khác gì những gợn sóng nổi lên bất thường, có đến rồi lại đi chớ chẳng dính dấp gì tới cái Tôi cả. Khi khổ đau hay hạnh phúc phát sinh, con người thường hay đồng hóa mình với những cảm xúc của mình trong quá khứ cho nên họ bị hành hạ bởi sự hiểu biết sai lầm, bởi vì tất cả hạnh phúc hay khổ đau đó cũng chỉ xảy ra rồi tan biến vô thường, chớ không phải là Của Ta. 

Tại sao con người  thích tích lũy tiền bạc, mơ ước thành ông này, bà kia, mong cầu đạt được danh vọng trong xã hội…? Bởi vì tất cả những thứ ấy sẽ mang lại cho chúng ta niềm vui, hạnh phúc tức là lạc thọ. Đơn giản chỉ có thế thôi. Nhưng rất tiếc không có niềm vui hay hạnh phúc nào vĩnh viễn ở mãi với chúng ta, nó đến rồi ra đi (duyên sinh, duyên diệt) nhanh chóng cho nên cuộc sống con người luôn mãi khổ công nhọc kế đi tìm từ hạnh phúc này đến hạnh phúc khác, tựa như xây nhà trên cát vậy. Thế thì cái mà chúng ta gọi là hạnh phúc phải chăng đó là khổ đau cũng ví như viên thuốc bọc đường, khi chất ngọt tan mất thì vị đắng sẽ hiện ra.

Trong bài chuyển pháp luân đầu tiên, Đức Phật đã đưa ra hai thái cực: một bên là ái dục, hạnh phúc và bên kia là đau khổ, bất toại nguyện. Con đường Đức Phật chọn là con đường trung đạo nghĩa là hãy tránh xa hai thái cực đó vì cả hai đều đưa chúng sinh đến chỗ phiền lụy, khổ đau. Con đường trung đạo là con đường thực hành chân chính mà ở trong đó, không có hình bóng của khoái lạc, ngay cả thiện ác, tốt xấu cũng không còn. Bởi vì tất cả những ý niệm hạnh phúc hay khổ đau, tốt hay xấu đều còn nằm trong phạm trù của ý thức phân biệt nhị nguyên. Do đó khi nhập vào thiền định thì ý niệm bị diệt, ý thức không còn tác động được nữa, hành giả chỉ còn sống trong tỉnh thức. Nghĩa là trong thời điểm đó hành giả biết rất tỏ tường, sáu căn vẫn sáng tỏ, nhưng không tác ý được nữa cho nên toàn bộ suy nghĩ, tưởng tượng, nói năng hay cử động tay chân  đều bị diệt cho đến khi xuất thiền. Lúc đó tâm hành giả hoàn toàn trống trải thanh tịnh và đây là con đường để phát sinh trí tuệ, chứng nhập chân lý. Chân lý có thể nói là khả năng hiểu biết ngoài tính cách điều kiện, tổng hợp và giới hạn của khoa học thế gian. Thông thường, những lạc thú của con người chỉ là những hạnh phúc phù du, giả tạm, lừa phỉnh chẳng khác gì miếng mồi móc vào một lưỡi câu. Khi đã nuốt miếng mồi mà mình đang thèm muốn thì tức thì lưỡi câu kia cũng sẽ móc vào cổ họng của mình vì thế không có hạnh phúc nào trên thế gian của con người bình thường mà không ngầm chứa những nỗi khổ niềm đau về sau. Ngược lại Niết Bàn, tạm gọi là hạnh phúc tối thượng, là sự an lạc thanh tịnh trong tâm hồn mà trong đó không còn hình bóng của tham, sân, si cho nên họ không còn tranh chấp, đố kỵ cho những ảo ảnh phù du, giả tạm của thế gian.

3) Tưởng uẩn (Perceptions): Tưởng là tưởng tượng, là suy tưởng. Vậy tưởng cái gì? Chấp có cái Ta, cái Của Ta là một bản ngã là tưởng. Ngồi đây mà nhớ về quá khứ là tưởng, suy nghĩ về hiện tại là tưởng và lo lắng cho tương lai cũng là tưởng. Mở mắt nhìn thế gian là tưởng, tai nghe âm thanh là tưởng…Mở mắt không nhìn gì cũng là tưởng, nghĩ quanh nghĩ co là tưởng. Đến khi đi ngủ, nhớ trước nhớ sau là tưởng. Thậm chí ngay cả khi ngồi thiền mà đầu óc cứ quay cuồng nhớ nghĩ từ việc này đến việc khác là tưởng. Có tưởng là có vướng mắc, còn chướng ngại khiến cho trí tuệ bị ràng buộc khó phát triển.

Tưởng đóng vai trò rất quan trọng đối với các em học sinh, sinh viên. Tùy theo tác dụng rộng hẹp, hay sâu cạn của tưởng ảnh hưởng đến trí nhớ  của các em. Bởi thế có người học đâu nhớ đó công danh thành đạt, ngược lại cũng lắm người học trước quên sau. Thí dụ chúng ta trong quá khứ đã bị phỏng lửa cho nên bây giờ khi thấy lửa cháy liền hồi tưởng nên không dám sờ tay vào lửa nữa. Ngược lại, một đứa bé chưa bị phỏng nên khi thấy lửa nó liền đưa tay rờ. Đó là đứa bé đang sống với trực tâm tức là bằng thức chớ chưa có tưởng. Người còn trẻ, trí óc hoạt động tốt, tưởng rất nhạy bén nên vừa thoáng là nhớ ngay. Đến khi tuổi già, bộ óc trì trệ nên nhớ trước quên sau. Đó là chưa kể những người bị bệnh Alzheimer (đãng trí) dần theo thời gian phần nhớ trong bộ óc tức là tưởng uẩn gần như bị hư hỏng hoàn toàn cho nên họ không còn nhớ gì về quá khứ. Người trẻ thì tưởng về quá khứ ít, ham sống và mong cầu nhiều cho tương lai. Đến lúc về già thì tưởng rất nhiều về quá khứ, ít chấp nhận hiện tại và quan tâm đến cái chết ở tương lai.

Một ngày nọ có một vị tu hành lên đò để sang sông. Ngặc nổi cô lái đò lại rất trẻ đẹp nên vị sư nầy cứ lấm liếc nhìn cô ta. Khi sang bến, thay vì phải trả tiền đò như những người khác, cô lái đò đòi tiền vị tu sĩ gấp đôi. Ngạc nhiên, vị tu sĩ hỏi :

-  Tại sao thí chủ lại tính tiền tôi nhiều gấp đôi vậy? 

Cô lái đò đáp :

-  Khách đi đò thì họ chỉ đi đò nên tôi tính tiền có một, còn Ngài thì vừa đi đò vừa ngắm nghía tôi nên tôi phải tình tiền gấp đôi.

Sau khi hoàn thành Phật sự vị tu sĩ phải trở lại bến đò để về chùa, nhưng lần nầy vị tu sĩ lấy nón che mặt lại khi sang sông. Khi đến bến thay vì chỉ trả một đồng tiền đò thì cô lái đò lại đòi đến bốn đồng. Quá đỗi ngạc nhiên, vị tu hành hỏi:

- Tại sao thí chủ lại đòi tiền tôi quá nhiều thế?

Cô lái đò đáp :

- Khi qua sông thì Ngài chỉ lấy mắt nhìn tôi nên tôi đòi tiền gấp đôi, bây giờ trở về Ngài không nhìn tôi bằng mắt mà Ngài nhìn tôi bằng tâm tưởng. Cái nhìn của mắt có giới hạn nên tôi chỉ đòi hai đồng còn tâm tưởng thì vô biên vô lượng, ai biết Ngài đang nghĩ gì hay muốn làm gì nên tôi phải đòi tiền gấp bốn lần là như vậy.

Cái nhìn trong tâm là tưởng cho nên cái nhìn đó không có giới hạn. Trong khi đó có người nhìn mà không tưởng, nhìn sao thấy biết vậy.

Dựa theo Phật giáo, tưởng là nhóm tri giác có khả năng nhận biết đối tượng là gì, đây là khả năng kinh nghiệm của sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan. Sự nhận biết đối tượng có hai loại: một là nhận biết đối tượng bên ngoài như mắt thấy sắc nhận biết đó là cái nhà, chiếc xe, tai nghe âm thanh nhận ra tiếng chim hót, tiếng khen, lời chửi mắng...; hai là khả năng nhận biết đối tượng bên trong, tức là các đối tượng tâm lý như những khái niệm, hồi tưởng, ký ức, kinh nghiệm... Như vậy, tưởng uẩn là cái thấy, cái biết của mình về con người, hoặc sự việc hay hiện tượng nào đó. Vì vậy, tri giác là một trong những tác dụng của nhận thức (Thức).

Sự có mặt của tri giác là sự có mặt của kinh nghiệm. Tri giác tùy thuộc vào những kinh nghiệm đã qua cho nên khi thấy đóa hoa thì biết đây là đóa hoa. Vì vậy tri giác dễ bị đánh lừa bởi kinh nghiệm, do vì thực tại thì luôn thay đổi sống động. Tại sao? Bởi vì  chúng ta chỉ thấy đóa hoa dựa theo quan niệm của mình chớ không thấy thật tánh của đóa hoa tức là “tự nó thật sự như nó là”. Khi nhìn đóa hoa Hồng chúng ta cho rằng mình đang nhìn đóa hoa đẹp, nhưng Hồng là tên do mình đặt cho nó chớ tự nó “không phải là” đóa hoa Hồng “hay là” một đóa hoa. Mà thật chất của nó là sự tổng hợp của đất, nước, gió, lửa qua trùng trùng duyên khởi kết thành hình tướng như thế, rồi chúng ta đặt tên hình tướng đó là đóa hoa Hồng. Do đó thật tánh của hoa là không tánh vì hoa là do sự kết hợp của trùng trùng duyên khởi các vật chất hội tụ lại chớ đóa hoa không tự nó có hay tồn tại được. Vì vậy cái biết của tri giác là cái biết “không thật” mà là cái biết của duyên khởi cho nên tri giác tồn tại có điều kiện, chúng là vô thường, trống rỗng và do duyên sinh. Do vậy tri giác đầy hư vọng mà chúng ta thường gọi là vọng tưởng. Con người thường đồng hóa mình với những gì mình ý thức và nhớ tưởng đến những kỷ niệm, ký ức, kinh nghiệm trong quá khứ khiến cho tham sân si phát sinh. Sự hiểu biết sai lầm này trở thành thói quen chất chứa trong tiềm thức khiến tâm con người phát sinh vô số vọng tưởng và biến cuộc sống trở thành điên đảo.

Thọ và Tưởng là hai thành tố rất quan trọng trong ngũ uẩn bởi vì từ cảm Thọ những khổ, vui của cuộc đời mà lòng tham Ái mới nổi dậy. Một khi trạng thái luyến ái bám vào thì con người phải nắm chặt lấy đối tượng nên gọi là Thủ. Cũng do nơi Thủ mà con người phải làm nô lệ cho khát vọng của mình mà nhắm mắt chạy theo dục lạc, từ đó nghiệp phát sinh để phải chịu sinh tử trầm luân. Tưởng là nhớ, nghĩ lại những cảm thọ đã xảy ra khiến con người luôn sống trong ảo tưởng. Vì thế ngày xưa các vị Thánh giả khi thiền định thì họ buông xả Thọ Tưởng định. Khi buông xả thọ tưởng định, họ bắt đầu buông xả khẩu hành, thân hành rồi đến ý hành. Họ buông xả luôn hơi thở (hơi thở trở nên êm nhẹ), nhưng sáu căn vẫn biết rỏ.

Tôn giả Kāmabhū diễn tả sự khác nhau giữa người chết và người nhập định:

- Đối với người đã chết, đã mệnh chung, thân hành người ấy được đoạn diệt, được khinh an; khẩu hành được đoạn diệt, được khinh an; ý hành được đoạn diệt, được khinh an, thọ mạng được đoạn tận; sức nóng được tịnh chỉ; các căn bị hủy hoại. Còn Tỳ-kheo đã chứng đạt Diệt thọ tưởng định, thân hành được đoạn diệt, khinh an; khẩu hành được đoạn diệt, khinh an; ý hành được đoạn diệt, khinh an; thọ mạng không bị đoạn tận; sức nóng không bị tịnh chỉ; các căn được trong sáng.

4) Hành uẩn (Mental formations or Thought Process): Hành có nghĩa là tác ý, là ý muốn khởi phát từ bộ óc rồi sau đó mới chuyển thành tư tưởng, lời nói hay hành động. Thí dụ trước khi muốn đi, bộ óc phải có tác ý muốn đi rồi sau đó hệ thống thần kinh trung ương chuyển đến khiến đôi chân bước đi. Nói cũng vậy, trước khi nói phải có tác ý muốn nói hay suy nghĩ cũng phải có tác ý suy nghĩ trước khi tâm suy nghĩ về bất cứ đối tượng gì. Nhờ tác ý này mà thân thể của con người mới hoạt động theo ý muốn của mình được. Ngược lại khi về già tuy có tác ý muốn đi, nhưng thân quá yếu hay bệnh tật nên không đi được. Hoặc tác ý muốn nhớ lại kỷ niệm nào đó trong quá khứ, nhưng tưởng uẩn không còn hoạt động nhạy bén nên nhớ đầu quên đuôi, không đâu ra đâu cả. Dầu là ý khởi đầu cho mọi hoạt động, tuy nhiên, không phải lúc nào thân ta cũng có thể tác ý cho mọi hành động của mình được. Thí dụ như phản xạ tự nhiên của cơ thể, hoạt động theo thói quen, hoặc các hoạt động của bộ phận không thể theo ý muốn được như: tim thì luôn đập bất chấp ta muốn hay không. Máu phải lưu thông, hệ thống não bộ thần kinh lúc nào cũng hoạt động liên tục, rất phức tạp chẳng khác chi có hàng ngàn bộ máy vi tính hoạt động không ngừng từ trong bộ óc cho đến trên khắp thân thể của chúng ta.

Vì thế khi con người có những tư tưởng xấu ác, lời nói hung dữ hay hành động tàn ác thì trong ý nghĩ phải có tác ý bất thiện đó. Ngược lại nếu chúng ta có những tư tưởng tốt, lời nói hài hòa, hành động nhân ái thì đây là những tác ý thiện. Nói chung tập hợp của tất cả “tác ý” thiện hay bất thiện được thể hiện bằng tư tưởng, lời nói hay hành động thì gọi chung là hành uẩn. Ở đây, Đức Phật muốn chỉ rõ tận tường nguồn gốc phát sinh ra tư tưởng, lời nói hay hành động để con người có thể dùng chánh niệm tỉnh thức mà kiểm soát nó. Vì thế trong Kinh Tứ Niệm Xứ, Đức Phật dạy rằng: “ Khi tâm tham, ta biết tâm tham. Khi tâm không tham, ta biết tâm không tham. Sân và Si cũng vậy…” Khi thực hành chánh niệm để biết rõ những biến hành (tác ý) của tâm thì con người bây giờ mới có thể làm chủ thân, khẩu, ý của mình được. Muốn luôn sống trong tỉnh thức chánh niệm thì con người phải nỗ lực liên tục, không gián đoạn, chứ không phải siêng năng tùy lúc tùy thời. Sự theo dõi, quán sát tâm của mình cũng ví như cha mẹ theo dõi con cái, lúc nào cũng luôn bảo vệ không cho chúng vấp ngã, làm bậy và dạy cho chúng biết và thực hành điều đúng. Thí dụ niệm Phật là thiền chỉ nghĩa là trong lúc hành giả niệm Phật thì tâm họ cột vào hồng danh chư Phật (tầm và tứ) khiến cho vọng tưởng tạm dừng lại (chỉ), nhưng khi hết niệm thì vọng tưởng phát tác trở lại tức thì khiến cuộc sống trở thành điên đảo. Vì thế nếu luôn sống trong tỉnh thức chánh niệm, hành giả sẽ làm chủ thân, khẩu, ý của mình. Từ đó cuộc sống sẽ nhẹ nhàng, thanh thoát, yên vui, tự tại, và sẽ không còn lo lâu, phiền não.

Bây giờ nếu thực hành theo Tứ Niệm Xứ dựa trên quán hơi thở sẽ giúp chúng ta thấy rõ hơn. Khi thực hành đứng đắn tỉnh thức chánh niệm tinh cần thì hành giả sẽ loại được tất cả mọi tham đắm chấp trước nơi trần gian. Tại sao? Thí dụ khi ta hít vào thì chúng ta biết chúng ta hít vào và khi thở ra chúng ta biết chúng ta thở ra, cho nên chúng ta không dính vào cái khác. Nói thế thì sự vận hành luôn luôn ở nơi mình. Con người lầm lẫn cho rằng hơi thở hít vô, thở ra là chuyện làm củ lập đi lập lại, nhưng trên thực tế mỗi hơi thở cho dù là hít vô hay thở ra là hoàn toàn mới vì mỗi lần hít vô chúng ta đem dưỡng khí (O2) mới vào nuôi thân và khi thở ra chúng ta đem thán khí (CO2) củ ra ngoài. Bây giờ, nếu quán sát tinh tế thì mỗi sát na toàn thân chúng ta luôn có sự thay đổi mới hơn, từng luồng dưỡng khí (O2) hít vào tuy rất nhỏ nhưng cũng đem đến cho ta sự sống mới. Những tế bào mới cũng sẽ thay thế các tế bào củ. Thở ra cũng vậy, khi thở ra thì từng hơi mới tiếp tục đi ra và khi hít vào thì cũng từng hơi mới từ từ đi vào. Nói cách khác cơ thể chúng ta thay đổi từng giây từng phút và do đó sự sống cũng hiện hữu trong cái mới này. Vậy thì dựa theo Tứ Niệm Xứ, đời sống con người không có sát na nào dừng lại cái củ cả bởi vì dừng lại là làm phá vở đời sống hiện thực của chính mình rồi. Như thế dựa theo quán niệm Tứ Niệm Xứ thì hiện thực đời sống của con người lúc nào cũng mới, không bao giờ dừng lại, và nó thể hiện sức sống mảnh liệt của vũ trụ cho nên nếu con người làm dừng lại bất cứ một hiện tượng nào thì người đó vô tình phá vở những hiện thực đang xảy ra. Tại sao? Bởi vì cái hiện thực đang tiếp tục xảy ra không hề có một phút giây dừng lại vì nó chỉ biến chuyển theo một chiều đến của thời gian cho nên giây phút qua đi thì chúng ta không bao giờ có thể nắm bắt nó lại được.

Đức Phật dạy rằng:” “Quá khứ đã qua đi không bao giờ nắm bắt lại được”. Chúng ta thường hay có quan niệm lầm lẫn rằng hơi thở là chỉ lập đi lập lại nên chẳng có gì mới lạ, nhưng dựa theo thiền Tứ Niệm Xứ thì tuy hơi thở lập đi lập lại nhưng nó không hề củ vì mỗi hơi thở hít vô và thở ra là mang theo dưỡng khí mới vào và thán khí mới ra ngoài, cho nên hơi thở lúc nào cũng mới. 

Từ nhận diện những biến hành của hơi thở chúng ta có thể trực nhận được bộ mặt thật của cuộc đời và nhận ra mọi quan hệ của đời sống rất rõ ràng. Đó là không những chỉ riêng con người mới sống với cái mới từng sát na mà thế gian vũ trụ cũng thế. Từ nhân sinh vũ trụ, chim bay cá lặn bất cứ vật gì thuộc thế giới hữu vi đều chuyển mình theo cái mới hết. Thế thì nếu chúng ta sống đúng với cái mới trong từng sát na thì chúng ta sẽ nhận biết rất rõ ràng thế gian cũng đang biến chuyển theo thời gian và không gian giống như chúng ta vậy. Đây là một điều rất quan trọng mà con người không bao giờ để ý đến. Ngày xưa Đức Phật dựa theo thiền Tứ Niệm Xứ mà khám phá ra chân lý Vô Ngã và thuyết Duyên sinh, Duyên diệt. Đức Phật đã khẳng định rằng tất cả mọi hiện tượng trong thế gian này đều không ngừng tác tạo. Vì là do nhân duyên, nhân này quả nọ, mà thành chớ không có một vật thể nào tự sinh tự diệt, nên tất cả mọi hiện tượng đó không có thực thể, không có tự tánh tức là Vô Ngã. Thêm nữa, lá phổi của con người là một cơ năng đàn hồi được cấu tạo bởi khoảng 300 triệu phế nang. Đây chính là nơi chủ yếu xảy ra quá trình trao đổi giữa thán khí (CO2) và dưỡng khí (O2) cho nên đối với người bình thường thì sự hô hấp (thở ra, hít vào) rất bình thường nên số lượng dưỡng khí hấp thụ vào phổi rất cao (99%). Ngược lại đối với người bệnh hay hút thuốc lá nhiều thì phế nang bị cứng lại cho nên việc hoán chuyển dưỡng khí giảm xuống (dưới 90%) khiến cơ thể và hệ thống não bộ hoạt động kém đi. Vì thế nếu biết điều hòa hơi thở thì thân, tâm nhẹ nhàng ít đau bệnh và thiền định là phương pháp thực dụng nhất trong việc điều hòa hơi thở của mình. Khi chúng ta lo lắng, lo sợ hay buồn phiền thì hơi thở dồn dập, tim đập mạnh. Lúc đó bạn chỉ cần hít sâu vào, thở từ từ ra thật nhẹ nhàng vài lần, rồi sau đó hít thở bình thường thì những lo lắng kia (vọng tưởng) sẽ biến mất.

Ngày xưa Đức Phật thực hành phương pháp Quán Niệm Hơi Thở có thể nhập định, xuất định và sau cùng thực hành quán chiếu để khai mở trí tuệ trở thành đấng giác ngộ. Sau khi thành Phật, Đức Phật đã đem phương pháp quán niệm hơi thở dạy cho đệ tử xuất gia và tại gia thực hành cho đến khi Ngài nhập Niết bàn. Đức Phật đã diễn tả lại việc tu tập pháp Quán Niệm Hơi Thở qua 16 đề mục thực tập (Trung Bộ Kinh 118) mà trong đó phần đầu gồm có 12 đề mục hướng dẫn hành giả nhập định và bốn giai đoạn sau cùng giúp hành giả cảm nghiệm và những gì cần làm sau khi xuất định.

Nhưng quan trọng nhất, Hành là tác ý, là động cơ phát sinh ra thân, khẩu, ý cho nên hành uẩn mang tính chất tác nghiệp và đây chính là nơi tạo ra nghiệp lực đưa con người trầm luân trong sáu đường.  Khi các giác quan tiếp xúc với cuộc đời thì tham lam, sân hận và si mê khởi dậy, hủy diệt tâm hồn tốt đẹp của chúng ta tạo thành những trận cuồng phong sân si làm cho mọi thứ chao đảo chông chênh, mất hạnh phúc. Khi lòng tham ái phát khởi, tính sân hận bùng lên khiến tâm con người thiếu sáng suốt mà có ngôn ngữ sai lầm, hành động bất chính. Thậm chí khi chạy theo si mê thì chúng ta thấy thiện thành ác, ác thành ra thiện, xấu thành tốt và tốt thành xấu. Vì thế dựa theo tinh thần Phật giáo, thiện là những tư tưởng, lời nói hay hành động không chạy theo tham, sân, si. Ngược lại là ác.

Vì  hành uẩn tồn tại nhờ các điều kiện do duyên sinh nên chúng vô thường, trống rỗng và biến động bất tận. Mỗi uẩn chỉ có thể làm công việc của chính nó. Hành uẩn có đặc tính là phản ứng hay tác động của tâm và nó là nguyên nhân của đi, đứng, nằm, ngồi, cười, nói, nghĩ, thấy, nghe...  và tất cả những hoạt động khác. Do sự kích thích của hành uẩn cho nên tất cả hành động về thân, khẩu, ý xảy ra.  Bởi vậy, thân, khẩu, ý là sự biểu hiện của hành uẩn, nhưng khi hành uẩn biểu hiện qua thân, khẩu, ý thì chúng ta hiểu lầm rằng:  Đó là linh hồn, là tự ngã, là Tôi đang làm.

5)Thức uẩn (Consciousness): Thức là có khả năng rõ biết, phản ảnh của nhận thức về thế giới hiện thực. Khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng, thức nhận biết sự có mặt của đối tượng, thức chỉ nhận biết sự hiện diện của đối tượng giống như tấm gương phản chiếu tất cả những hình ảnh đi ngang qua nó.

Đối với Phật giáo Nguyên thủy, thức được hiểu như là dòng chảy liên tục của các ý niệm. Các ý niệm này tùy thuộc nhiều yếu tố khác mà phát sinh, Đức Phật gọi quá trình tuỳ thuộc phát sinh nầy là “duyên khởi” (paticasamupàda). “Thức” chỉ là một mắc xích trong 12 mắc xích duyên khởi  mà thôi. Đối với Phật giáo Nguyên thủy thì phần tâm linh chia ra hai loại tâm như sau:

1) Tâm tỉnh thức, là cái biết ý thức, không có sự phân biệt. Đó là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức. Cái biết này chính là cái biết của trực giác cho ta những cảm giác dễ chịu, khó chịu, không dễ chịu, không khó chịu. Tâm này còn gọi là tiền ngũ thức nghĩa là thấy sao biết vậy tức là trực tâm.

2) Tâm hư vọng, tức là tưởng tượng. Nó mượn sự hoạt động của bộ óc để phát hiện và phân biệt tốt xấu, phải quấy, thịnh suy, vinh nhục, ngon dở, thân sơ…Tâm này là quan trọng và nguy hiểm nhất vì nó khiến con người vào chỗ đọa lạc. 

Ý thức con người rất lanh lẹ cho nên nếu chúng sinh có suy nghĩ việc lành, việc tốt thì ý thức đứng đầu. Ngược lại, nếu chúng sinh tính toán tạo tác việc ác, việc bất thiện thì nó cũng đứng đầu. Vì thế nếu người tu thiền, đoạn diệt được hư vọng là giải thoát khỏi phiền não.

Vì tầm quan trọng của ý thức, Đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú rằng:

Ý dẫn đầu các Pháp

Ý làm chủ tạo tác

Đối với ý ô nhiễm

Nói năng hay hành động

Khổ não bước theo sau

Như bánh xe lăn theo

Dấu chân con vật kéo (Pháp Cú 1)

Ngược lại:

Ý dẫn đầu các Pháp

Ý làm chủ tạo tác

Đối với ý thanh tịnh

An lạc bước theo sau

Như bóng không rời hình (Pháp Cú 2)

Phần Mở rộng thêm về quan điểm Phật giáo Đại Thừa: (1) Xem ghi chú cuối bài

Mặc dù Thức uẩn là nền tảng của tâm lý nhưng nó không tồn tại độc lập, không thể tự chủ bởi vì thức uẩn có tồn tại cũng bởi do duyên sinh. Thí dụ nếu không có sắc, thọ, tưởng, hành thì không thể nào có thức được, cho nên mối quan hệ của ngũ uẩn là bất khả phân ly vì vậy đạo Phật không chấp nhận có một thức nào đó độc lập, tự chủ như khái niệm về một linh hồn bất tử chẳng hạn.

Tuy A lại da thức là một cái kho chứa nhóm, nhưng nó biến chuyển vận hành liên tục không ngừng nghĩ, có lúc chuyển chủng tử mới vào và có khi đưa chủng tử ra gọi là biến hành. Vì sự biến chuyển này mà con người mới có thể tu thành Thánh nhân hay tạo nghiệp trở thành ác quỷ.

Cứ mỗi thời điểm nhất định nào đó chúng ta có một cái biết, một thức tức là một cái tâm do sáu căn tiếp xúc với sáu trần phát sinh. Nhưng thời điểm kế tiếp chúng ta lại có một cái biết khác tức là có một cái tâm khác. Và thời gian cứ tiếp tục trôi đi thì con người có biết bao cái tâm cho nên tâm luôn sinh diệt. Vì vậy:

Đức Phật với tuệ minh sát, với trí tuệ của bậc Chánh đẳng Chánh giác khi quán chiếu lại thân, tâm của mình và của nhân loại thì Ngài thấy rằng chúng sinh không hề có tâm mà chỉ có những sát na tư tưởng kết nối và kết nối lại với nhau khiến chúng ta cảm giác như có tâm. Thí dụ ở sát na trước mắt thấy sắc cho ta cái biết của sắc (nhãn thức), đến sát na sau tai nghe âm thanh cho ta cái biết về âm thanh (nhĩ thức)…Cái biết sau nối tiếp (thay thế) cái biết trước và cứ thế cái biết liên tục sinh diệt tạo thành chuổi thức chớ thật sự không có một thức nào (hay một cái tâm nào) cố định cả. Cái tâm sau thay thế cái tâm trước và cứ thế tâm luôn sinh diệt tuôn chảy trong bộ não của chúng ta. Do vậy mà Thức dựa theo Phật giáo là dòng chảy liên tục của các ý niệm (sát na tư tưởng). Vì sự ngộ nhận lầm lẫn cho rằng mình có tâm cho nên họ mới nghĩ rằng trong ta phải có cái Ta. Bây giờ không có tâm thì làm gì có Ta hay cái Của Ta nữa, tức là hoàn toàn vô ngã.

Hãy quán một dòng sông. Sự hiện hữu của một dòng sông là do hàng tỷ tỷ giọt nước luôn trôi chảy kết thành một khối nước chuyển động liên tục tạo thành dòng sông, cho nên nếu không nhìn cho kỹ thì chúng ta nghĩ rằng có một dòng sông luôn liên tục. Thật ra nếu lấy tất cả những giọt nước đó đi thì bây giờ làm gì còn dòng sông?

2. Vậy ngũ uẩn bây giờ được hiểu là: Sắc là thể xác, Thọ là tình cảm, Tưởng là lý trí, Hành là tác ý tức là ý chí và sau cùng Thức là nhận thức. Thế thì, trong con người chúng ta không có gì ngoài năm uẩn. Năm uẩn kết hợp thì hình thành kết tạo ra con người tức là có sự sống. Đến khi nhân duyên khác khởi lên, năm uẩn tan rã thì con người chết.

Tóm lại, thân và tâm của con người là sự tập hợp của ngũ uẩn chớ không có gì khác, nhưng nếu bây giờ chúng ta đồng hóa thân và tâm này là Ta, là Của Ta thì Đức Phật gọi đây là tà kiến. Thí dụ có người chỉ thấy một chiếc xe. Nếu nhìn chiếc xe mà chỉ biết là chiếc xe thôi thì đây là tâm tỉnh thức, an lạc. Ngược lại, nếu nhìn chiếc xe đó mà cho là nó đẹp hay xấu, rẻ tiền hay đắt tiền... thì ta đang sống với tự ngã. Tại sao? Bởi vì Ta là người khen nó đẹp hoặc Ta là người chê nó xấu chớ chiếc xe tự nó chỉ là chiếc xe chớ bản thân nó không có đẹp hay xấu gì hết. Một khi chúng ta cộng thêm tự ngã là Ta hay Cái Của Ta vào bất cứ hiện tượng gì trên thế gian thì lập tức nỗi khổ niềm đau cũng từ đó phát sinh. Ngược lại, người giác ngộ thì mắt vẫn thấy sắc, tai vẫn nghe âm thanh, mũi vẫn ngửi mùi, lưỡi vẫn nếm thức ăn, thân vẫn có cảm xúc, nhưng chỉ thấy biết một cách khách quan, không chấp thêm ngã kiến vào thì không bao giờ có khổ vui mà chỉ có an lạc. Tại sao? Bởi vì: “Chư Pháp tùng bổn lai, Thường tự tịch diệt tướng” nghĩa là các pháp từ xưa đến nay, tánh chúng thường vắng lặng, không hạnh phúc và cũng chẳng có khổ đau. Thế thì tất cả các Pháp đều là  tự tánh thanh tịnh bản nhiên nghĩa là tự tánh của chúng là vậy (như thị), không khổ, không vui. Vì thế khi nói khổ đau hay hạnh phúc là có sự hiện diện của bản ngã trong đó mà thôi. Khi không còn sống với bản ngã, người đó trở về sống với thực tánh pháp thì gọi là giải thoát rồi.

Bây giờ  biết rõ thấu đáo sự vận hành của ngũ uẩn, chúng ta thấy rõ rằng không có một xác thân nào cả mà chỉ là sự vận hành tự nhiên của ngũ uẩn mà con người lầm lẫn cho rằng đó là thân của Ta.

Tuy con người là sự kết hợp của ngũ uẩn, nhưng mỗi uẩn là vô thường vô ngã nên toàn khối cũng là vô thường vô ngã tức là Không, Tuy nhiên, mỗi uẩn đều nương tựa vào các uẩn kia mà tồn tại. Khi thấu rõ bản chất thật của con người và vũ trụ mà chúng ta đang sống thì chúng ta sẽ không còn bám vúi vào cái thân giả hợp, sẽ không còn thấy nó là Ta hay là Của Ta thì những phiền não khổ đau sẽ đoạn diệt. Hãy quán ngũ uẩn của Thân và Tâm cũng giống như một miếng sắt nóng đỏ cho nên nếu bạn nắm (chấp thủ) chỗ nào cũng bị phỏng cả. Thế giới của tham ái và si mê cũng giống như miếng sắt nóng đỏ kia nếu bạn có khuynh hướng chấp thủ, bám vúi vào thì nguyên nhân khổ đau sẽ hình thành trong bạn.

Đức Phật dạy rằng ngũ uẩn là Vô Ngã, nên đừng dính mắc vào chúng, không xem chúng là Ta hay là Của Ta. Khi Đức Phật còn tại thế, vẫn dựa vào thân ngũ uẩn để sống như tất cả mọi chúng sinh trên thế gian, Ngài vẫn có đau bệnh, có cảm giác khổ vui, có trí nhớ, có suy nghĩ, có tâm…nhưng sự khác nhau giữa Đức Phật và chúng sinh là Ngài không dính mắc vào những thứ ấy, không xem chúng là Tự Ngã, là Ta hay là Của Ta. Đức Phật vẫn biết đấy chứ, nhưng Ngài hiểu biết cuộc đời đúng theo bản chất thật của nó (thực tánh pháp)  cho nên cái hiểu biết đó rất thực và rỏ ràng. 

Đức Phật hằng ngày cũng phải đối diện với cuộc đời, hằng ngày cũng ăn, cũng nói, cũng nghe, cũng thấy biết nhưng không bao giờ Đức Phật cho rằng Ta nghe, Ta thấy, Ta nói.. vì vậy trong Ngài rất thanh tịnh, không dính mắc vào bất cứ hiện tượng gì.

Vì tầm quan trọng của ngũ uẩn, chính ngài Xá Lợi Phất cũng dạy rằng:

Người đã đắc Quả Nhập Lưu phải gia công chuyên cần quán niệm ngũ uẩn ấy một cách đầy đủ, và tự mình chứng nghiệm rằng năm uẩn là vô thường, khổ, vô ngã. Kết quả là thế nào? -- Vị ấy sẽ tiến đạt thêm lên một tầng, thành tựu Đạo và Quả Tư Đà Hàm. Rồi vị Thánh ấy hành thiền về đề mục gì? -- Cũng lại ngũ thủ uẩn ấy nữa. Và do công phu hành thiền nầy vị ấy đắc Quả Bất Lai (A Na Hàm). Rồi vị A Na Hàm hành thiền về đề mục gì? -- Cũng ngũ thủ uẩn. Đến đây vị ấy đắc Quả A La Hán”.

Dựa theo sự tu chứng của Tôn giả Xá Lợi Phất, muốn có giải thoát thì hành giả cần phải gia công quán niệm để tự mình nhận biết rốt ráo rằng ngũ uẩn là vô thường, khổ, vô ngã nghĩa là mỗi uẩn không có tự thể, cho nên năm uẩn bây giờ không có tự thể. Vì năm uẩn là vô ngã nên chúng phải chịu sự biến chuyển của luật vô thường là sinh, trụ, dị, diệt. Khi thấy sự sinh diệt, không bền không chắc, có đó rồi mất đó, con người mới đau khổ. Nếu hành giả tự mình chứng nghiệm rằng ngũ uẩn là vô ngã, vô thường và khổ thì mọi chấp trước, bám víu vào thân, tâm sẽ không còn và lúc đó hành giả sẽ không còn bất cứ khổ ách nào tức là có giải thoát.

Sau cùng, khi nói vô ngã, Đức Phật căn cứ nơi bản thân con người và chúng sinh mà nói vô ngã. Thế thì bản thân chúng sinh hiện hữu những gì? Chẳng qua là sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Nếu bỏ năm thứ ấy đi thì không còn cái gì gọi là chúng sinh nữa. Nhưng vì vô minh che lấp cho nên chúng sinh luôn dựa vào ngũ uẩn đó để chấp mình làm ngã. Dựa theo tinh thần Phật giáo, tất cả mọi vật thể trên thế gian này đều là vô thường, vô ngã ngay cả những thứ mà chúng ta gọi là hạnh phúc hay khổ đau. Bởi vì nếu thật sự có thực hạnh phúc hay khổ đau thì chúng sẽ không bao giờ mất nó, nhưng đâu có hạnh phúc hay khổ đau nào vĩnh viễn ở mãi với Ta. Những bậc giác ngộ thì họ đạt đến đỉnh cao của sự giải thoát mà ở trong đó sẽ không có hạnh phúc, cũng chẳng hề có khổ đau mà chỉ có thanh tịnh an lạc Niết bàn.

--------------------------------------

(1) Quan điểm Phật giáo Đại thừa về Thức uẩn, giới thiệu thêm hai tâm nữa. Ngoài sáu thức căn bản ở trên, ngài Vô Trước, Thế Thân của Duy Thức tông đã giới thiệu thêm Mạt na thức và A lại da thức để giúp chúng sinh thấy rõ công năng, sự vận hành của ý thức.

Tâm thứ ba là thức thứ bảy tức là Mạt na thức. Tâm này có công năng giúp cho ý thức chọn lựa sự so sánh, phân biệt những gì có lợi cho tự Ngã tức là  những gì có lợi cho Ta và cái của Ta nằm trong A lại da thức rồi sau đó quyết định sai năm thức đầu (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức) hành động và dĩ nhiên tác tạo ra nghiệp. Tuy thức thứ bảy có tính toán quyết định gì đi chăng nữa thì cũng do thức thứ sáu là ý thức thúc đẩy, xúi giục cho nên ý thức mới là thức nguy hiểm nhất. Thức thứ bảy này là thức ngu si nhất và thức thứ sáu là thức khôn ngoan nhất và cũng là tội lỗi nhất trong bát thức tâm vương. Vì thế Mạt na thức thường được gọi là tâm nghiệp, tâm đồng lõa dẫn dắt chúng sinh vào biển sinh tử luân hồi.

4)Tâm sau cùng là thức thứ tám tức là A lại da thức, là kho chứa tất cả kinh nghiệm, kiến thức, ký ức, kỷ niệm và tất cả những chủng tử thiện, ác, tốt, xấu và vô ký. Có thể ví A lại da thức là cái kho ví như ông vua làm chủ cả giang san, vàng bạc, gấm vóc, lụa là, binh khí…Mạt na thức ví như ông đại tướng là người đánh nam dẹp bắc tức là tạo nghiệp, nhưng chính Mạt na thức lại biết rất rõ ràng những gì nhà vua cất giữ trong cái kho. Nhưng muốn đánh đấm hay phân phát cơm gạo cho ai thì phải có sự xúi giục, hướng dẫn, chỉ bảo của ông quân sư tức là ý thức. Ông quân sư bày vẽ theo hướng nào thì ông đại tướng thực hành theo hướng đó nghĩa là vào kho lương lấy tiền gạo ra phân phát cho quân lính. Sự phân phát thì do tiền ngũ thức thực hiện. Vì Mạt na thức lúc nào cũng tính toán và làm việc gì cũng nghĩ đến lợi cho A lai da thức nghĩa là lợi cho Ta và cái của Ta nên bị ý thức đánh lừa khiến con người sa vào hầm tăm tối, tạo tội nghiệp để phải chịu quả khổ đời đời.

Tóm lại, dựa theo Duy thức luận của Vô Trước  và Thế Thân của Phật giáo Đại thừa, thức bây giờ có tám loại nên gọi là bát thức tâm vương: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, Mạt na thức và A lại da thức. Thức là nền tảng của thọ, tưởng, hành. Thức là Tâm vương còn thọ, tưởng, hành là Tâm sở. Duy thức triển khai bát thức tâm với mục đích khai thác các khía cạnh sâu kín của thức. Mặt khác, A lại da thức làm căn bản cho các hoạt động tâm lý trở về sau khi không còn điều kiện hoạt động. Nhờ khả năng bảo tồn của A lại da thức mà các hiện tượng tâm lý phát khởi trở lại khi hội đủ các yếu tố. Có thể hiểu A lại da thức như là một cái kho chứa và Mạt na thức là người giữ kho. Chính Mạt na thức vào trong cái kho để chuyển các chủng tử ra hay vào mà Duy thức gọi là hiện hành hay biến hành và từ đó tưởng uẩn mới biết được vật đó là gì. 


Bài Quan Tâm

NHỮNG CÂU NÓI Ý NGHĨA TRONG ĐẠO PHẬT

*** Hãy đề phòng sự tiêu cực, vì nó nuôi dưỡng cái tâm xét lỗi. Xét lỗi là một thái độ xuất hiện và tóm lấy bạn như một con rắn, nó đầu độc ...