Thiền sư Ajahn Chah
Minh Vy dịch Việt ngữ
PHẦN 3
TRÍ HUỆ
CHƯƠNG 36
SỰ SIÊU VIỆT.
Nguyên nhân của tất cả những sự rối rắm này là tự ngã.
Tự ngã chỉ là cái vỏ bên ngoài.
Chúng ta lột cái lớp vỏ bên ngoài để có thể nhìn thấy cái cốt tủy,
tức là cái
siêu việt.
Khi nhóm
năm người tu khổ hạnh rời bỏ Đức Phật, Ngài xem đó là một sự may mắn, bởi Ngài
sẽ có thể tiếp tục tu hành mà không bị cản trở. Những người này rời bỏ Ngài vì
họ nghĩ rằng Ngài chểnh mảng việc tu hành và trở lại lối sống buông thả. Trước
đó, Ngài rất chuyên tâm tu tập theo lối tu khổ hạnh ép xác. Đối với miếng ăn,
giấc ngủ, Ngài đã hành hạ mình rất nhiều, nhưng Ngài không thấy lối tu hành đó
có kết quả. Sự tu hành của Ngài xuất phát từ sự kiêu hãnh và bám giữ. Ngài lẫn lộn những giá trị thế gian và tính ích
kỷ với chân lý.
Ví dụ, nếu có người tu khổ hạnh ép
xác để được người đời tôn kính – đây là sự tu hành vì thế gian: tu hành vì danh
lợi. Tu hành với ý muốn như thế gọi là lẫn lộn con đường thế gian với chân lý.
Một lối tu hành khác, là “lẫn lộn
quan điểm của mình với chân lý”. Bạn chỉ tin vào chính mình, vào sự tu hành của
chính bạn. Bất kể người khác nói gì, bạn nhất định bám chặt vào quan điểm của
mình. Đây gọi là lẫn lộn chính mình với chân lý.
Bất kể bạn xem thế gian hay xem
chính bạn là chân lý, đó đều là sự ràng buộc mù quáng. Đức Phật nhìn thấy điều
này, và Ngài thấy rằng ở đó không có sự đi theo Giáo Pháp, không có sự tu hành
vì chân lý. Cho nên, vào lúc ấy, sự tu hành của Ngài chưa có kết quả, Ngài vẫn
chưa dứt trừ phiền não.
Rồi Ngài thay đổi hoàn toàn và xem
xét lại tất cả nỗ lực tu hành của Ngài từ lúc ban đầu. Kết quả của sự tu hành
đó là gì? Xem xét kỹ, Ngài mới thấy nó chứa đầy tính chất kiêu hãnh và thế tục.
Không có Giáo Pháp, không có trí huệ về sự vô thường, không có sự rỗng không
hay xả bỏ hoàn toàn.
Sau khi cân nhắc sự việc cẩn thận,
Đức Phật biết rằng dầu Ngài có giải thích điều này tới năm vị đồng tu, họ cũng
sẽ không hiểu. Nó không phải là một thứ mà Ngài có thể truyền đạt dễ dàng, bởi
vì họ vẫn bám chặt vào lối suy nghĩ và tu hành cũ. Đức Phật thấy rằng nếu bạn
tu hành theo cách đó, thì dầu có đến chết, bạn cũng không đạt được điều gì, bởi
vì sự tu hành được thúc đẩy bởi những giá trị thế gian và lòng kiêu hãnh. Quán
xét sâu xa, Ngài hiểu ra sự tu hành đúng: tâm là tâm, thân thể là thân thể.
Thân thể không phải là nguồn gốc của sự ham muốn hay phiền não. Dầu bạn có tiêu
hủy thân thể, bạn vẫn không thể tiêu hủy phiền não. Dầu bạn có nhịn đói và
không ngủ cho đến thân thể chỉ còn da bọc xương, bạn vẫn không thể dập tắt
phiền não. Nhưng sự tin tưởng rằng phiền não có thể được xóa tan bằng cách đó –
giáo lý của pháp môn ép xác đã ăn sâu vào tâm trí của năm tu sĩ khỗ hạnh đó.
Và rồi Đức Phật bắt đầu ăn uống bình
thường và tu hành một cách tự nhiên hơn. Khi năm tu sĩ này thấy sự thay đổi
trong lối tu hành của Đức Phật, họ nghĩ rằng Ngài đã từ bỏ tu hành và quay lại
với dục lạc thế gian. Sự nhận thức của Đức Phật vượt lên một đẳng cấp cao hơn,
nhưng năm vị tu sĩ đó cho rằng đang thái hóa. Họ không thể buông bỏ lối suy
nghĩ của mình, nhưng Đức Phật đã nhìn thấy sự sai lầm của mình và buông bỏ nó.
Giống như con chim rời khỏi một cội
cây không còn cho đủ bóng mát, hay như con cá rời khỏi cái hồ nước quá nhỏ, quá
dơ, năm vị tu sĩ rời bỏ Đức Phật cùng thế ấy.
Bấy giờ, Đức Phật tập trung vào việc
quán chiếu Đạo. Ngài sống thoải mái hơn, tự nhiên hơn. Ngài cho phép tâm là
tâm, thân thể là thân thể. Ngài không cưỡng ép sự tu hành của mình một cách quá
đáng, chỉ vừa đủ để tháo lỏng gông cùm của tham, sân, si. Trước đó, Ngài rơi
vào hai thái cực. Khi hạnh phúc và tình thương phát sinh, Ngài bị khuấy động và
dính mác vào chúng. Ngài đồng hóa mình với chúng và không thể buông bỏ. Ngài
mắc kẹt vào đó. Đó là một thái cực. Thái cực kia là khi Ngài tu khổ hạnh ép xác
với năm tu sĩ kia. Hai thứ cực đoan này, Ngài gọi là mê đắm trong dục lạc và mê
đắm trong khổ hạnh.
Đức Phật đã từng dính mắc vào các
điều kiện. Ngài nhìn thấy rõ hai đường lối này không phải là đường lối của
người xuất gia chân chánh. Nếu Ngài loanh quanh trong đó, Ngài chẳng bao giờ
trở thành một người thấu hiểu thế gian. Và rồi Đức Phật tập trung hoàn toàn vào
tâm và sự huấn luyện tâm.
Các pháp thế gian diễn tiến thuận
theo những điều kiện hỗ trợ của chúng. Ví dụ, thân thể kinh nghiệm đau đớn,
bệnh hoạn, nóng, lạnh, v.v… Những thứ này tự động xảy ra, và tự chúng không có
vấn đề. Thật ra, con người quá lo lắng về thân thể của họ. Tà kiến khiến họ lo
lắng và ràng buộc với thân thể của họ quá nhiều, đến độ họ không thể buông bỏ.
Hãy xem xét cái chánh điện ở đây.
Chúng ta xây nó lên và nói rằng nó là của chúng ta, nhưng thằn lằn đến sống ở
đây, chuột cũng đến sống ở đây, và chúng ta luôn đuổi chúng đi, bởi vì chúng ta
cho rằng, cái nhà này thuộc về chúng ta, không phải cho chuột hay thằn lằn ở.
Bệnh hoạn của thân thể cũng vậy.
Chúng ta xem cái thân thể này là nhà của chúng ta, thuộc về chúng ta. Đây là
nơi chúng ta bị phỉnh gạt và rời xa chân lý. Chúng ta chỉ là khách khứa của
thân thể này. Giống như cái chánh điện này, nó không thật sự là của chúng ta.
Chúng ta chỉ là người ở tạm, như mấy con chuột, con thằn lằn ở đây vậy. Nhưng
chúng ta không hiểu biết điều này. Đức Phật đã dạy rằng, không có một tự ngã
lâu dài bên trong thân thể này, nhưng chúng ta nắm giữ nó như thể nó là chúng
ta. Khi thân thể thay đổi, chúng ta không thích. Nhưng nếu tôi nói thẳng ra,
bạn lại càng bối rối. “Đây không phải là bạn”, tôi nói thế, và bạn càng hoang
mang hơn, sự tu hành của bạn chỉ củng cố thêm cái bản ngã mà thôi.
Cho nên, đa số người không thật sự
nhìn thấy chính họ. Người nhìn thấy chính
mình là người biết rằng sự việc không phải là họ và không thuộc về họ. Đây
là quán sát các pháp hữu vi đúng với bản chất của nó. Hiểu biết bản chất của
các pháp hữu vi là trí huệ. Nếu bạn không
biết bản chất thực của các pháp hữu vi, bạn luôn xung đột với chúng, luôn kháng
cự chúng. Bạn nghĩ sao? Chúng ta nên buông bỏ các pháp hữu vi hay cố kháng
cự chúng? Thế nhưng chúng ta van xin chúng tuân theo những ước muốn của chúng
ta. Chúng ta tìm đủ mọi cách để sắp xếp chúng hay thương lượng với chúng. Nếu
thân thể bị bệnh và đau nhức, chúng ta không muốn nó như thế, nên chúng ta tìm
kiếm đủ thứ kinh, chú khác nhau. Chúng ta không muốn thân thể đau nhức, chúng
ta muốn bảo vệ nó, điều kiển nó. Những kinh tụng này có thể trở thành một hình
thức lễ tục huyền bí, khiến chúng ta càng bị ràng buộc thêm khi chúng ta tụng
kinh để đuổi bệnh, tăng tuổi thọ, v.v… Thật ra, Đức Phật cho chúng ta những
giáo lý này để giúp ta nhìn thấy rõ, nhưng chúng ta lại tụng chúng để tăng thêm
vô minh của mình. Kinh điển là để chúng ta biết sự thật về thân tâm, để rồi
chúng ta có thể xả bỏ nó và xả bỏ sự ràng buộc của chúng ta.
Đây gọi là tụng kinh để cắt giảm sự
việc, nhưng chúng ta thường tụng kinh để có thể nới rộng chúng thêm. Hoặc là,
nếu chúng ta cảm thấy một thứ gì đó quá dài, chúng ta thử tụng kinh làm cho nó
ngắn lại, để ép buộc thiên nhiên làm theo ý chúng ta. Tất cả đều là ảo tưởng.
Mọi người ngồi đây trong chánh điện này đều bị phỉnh gạt. Những người tụng kinh
đều bị phỉnh gạt, người ngồi nghe cũng bị phỉnh gạt, tất cả đều bị phỉnh gạt!
Tất cả những gì họ có thể nghĩ là, “Làm sao để tránh khổ?” Khi nào họ mới chịu
tu hành?
Khi bệnh hoạn phát sinh, “người
biết” không thấy điều đó có gì lạ cả. Sinh ra trong thế gian này là phải kinh
nghiệm bệnh hoạn. Khi Đức Phật và các
Thánh Nhân bị bệnh, họ chữa bệnh bằng thuốc men; đó chỉ là vấn đề điều chỉnh
nguyên tố thôi. Họ không bám vào thân thể một cách mù quán hay thực hiện
nghi lễ này nọ để đuổi bệnh. Họ chữa bệnh với Chánh Kiến, không phải với ảo
tưởng. “Nếu nó lành bệnh thì tốt. Nếu nó không lành bệnh, cũng không sao”. Họ
xem xét sự việc như thế đó.
Người ta nói rằng Phật Giáo đang
hưng thịnh tại Thái Lan, nhưng theo tôi nó suy thoái quá xa. Các thính đường thuyết
pháp luôn đầy người, nhưng họ đặt tâm không đúng chỗ - ngay cả thành viên cao
tuổi Đạo của cộng đồng cũng vậy. Vì thế họ chỉ dẫn nhau đi sâu vào ảo tưởng.
Những người đó vượt lên đau khổ bằng
cách nào? Họ có những bài kinh tụng để nhận biết chân lý, nhưng họ chỉ dùng
chúng tăng thêm ảo tưởng của mình. Họ quay lưng với Chánh Đạo. Đạo đi phía bắc,
họ đi phía nam – làm sao hai bên có thể gặp nhau? Chúng cũng không thể gần
nhau. Họ tụng kinh, nhưng họ tụng với sự vô minh, không phải với trí huệ. Họ
học hỏi, nhưng họ học hỏi với sự vô minh. Họ biết, nhưng họ biết với sự vô
minh. Nó là vậy đó. Còn những sự giảng dạy thì sao? Tất cả những gì họ làm thời
nay là dạy người ta trở thành người ngu. Họ nói rằng họ dạy cho con người khôn
ngoan hơn, truyền bá kiến thức, nhưng khi bạn xem xét chúng dựa vào chân lý,
bạn sẽ thấy họ thật sự đang dạy người ta đi sai đường và nắm giữ những điều dối
trá.
Sự giảng dạy là để giúp con người
nhìn thấy tự ngã là rỗng không, không có cá tính cố định, không có thực chất.
Nhưng người ta học hỏi Giáo Pháp để cũng cố bản ngã của họ, cho nên họ không
muốn kinh nghiệm khổ đau hay trở ngại. Họ muốn mọi thứ đều êm đẹp. Họ có thể
muốn vượt lên đau khổ, nhưng nếu còn có một tự ngã ở đó, họ sẽ làm thế bằng
cách nào?
Giả sử, chúng ta sở hữu một món đồ
rất đắt tiền. Ngay khi món đồ đó trở thành sở hữu của chúng ta, tâm chúng ta
thay đổi. “Bây giờ mình phải cất nó ở đâu đây? Nếu mình để nó ở đó, liệu có thể
sẽ mất không?” Chúng ta lo lắng, tìm kiếm một nơi để cất giữ nó. Và tâm trạng
thay đổi ngay khi chúng ta nhận được món đồ - khổ đau phát sinh ngay lúc đó.
Bất kể chúng ta để món đồ đó ở đâu, chúng ta cũng không an tâm. Dầu đi, đứng,
nằm, hay ngồi, chúng ta đều chìm đắm trong sự lo lắng.
Đây là khổ. Và nó phát sinh lúc nào
vậy? Nó phát sinh ngay khi chúng ta biết rằng chúng ta nhận được một thứ gì,
hay mất đi một thứ gì đó. Trước khi chúng ta có được món đồ đó, thì không có sự
khổ. Nó chưa phát sinh bởi vì chưa có một thứ gì để nó bám giữ.
Nguyên
nhân của tất cả những sự rối rắm này là tự ngã. Chúng ta lột bỏ lớp vỏ thô
thiển để có thể nhìn thấy cái siêu việt. Tự ngã chỉ là cái vỏ bên ngoài. Bạn
phải lột đi lớp vỏ bên ngoài để có thể nhìn thấy cái cốt tủy, là cái siêu việt. Đạp đổ cái vỏ bên ngoài để tìm cái
siêu việt.
Bạn có thể so sánh nó với gạo chưa
đập, trước khi có thể sử dụng gạo, bạn phải đập nó. Giũ bỏ cái vỏ và bạn sẽ tìm
thấy hạt gạo ở bên trong.
Bây giờ, nếu chúng ta không đập lúa,
chúng ta không tìm thấy hạt gạo. Giống như, chúng ta học hỏi, nhưng nếu chúng
ta không tu hành thích đáng, chúng ta sẽ vẫn không biết gì. Thật xấu hổ! Cũng
như vậy: có gạo, nhưng cái gì che đậy nó vậy? Vỏ thóc che đậy hạt gạo. Và sự
siêu việt, cái gì che đậy nó? Hình dáng bên ngoài che đậy sự siêu việt. Người
ta ngồi trên một đống gạo như không thể ăn nó – đó là, không thể tu hành, không
thể nhìn thấy sự siêu việt. Họ mắc kẹt vào những cái bên ngoài hết lần này đến
lần khác. Nếu bạn mắc kẹt vào những thứ bên ngoài, khổ đau sẽ chờ đợi bạn: bạn
sẽ bị bao vây bởi sự trở thành, sinh, lão, bệnh và tử.
Cho nên, không có gì khác đang cản
trở con người. Họ bị cản trở ngay tại đây. Một người học hỏi Giáo Pháp mà không
thấu hiểu ý nghĩa thật của nó thì cũng giống như người bị đói ngồi trên đống
lúa chưa đập. Bất kể chúng ta nghiên cứu giáo lý nhiều bao nhiêu, chúng ta sẽ
không nhìn thấy được chân lý, nếu chúng ta không tu hành.
Giống như một thứ trái cây ngon
ngọt. Dầu trái cây có vẻ ngon ngọt, chúng ta cũng phải nếm thử, trước khi chúng
ta biết mùi vị của nó. Nhưng dầu không ai nếm nó, trái cây đó vẫn ngon ngọt
không khác. Giáo lý của Đức Phật cũng vậy. Mặc dầu nó là chân lý, nó vẫn không
là chân lý đối với những người không thật sự biết nó. Bất kể nó tuyệt vời và kỳ
diệu biết bao nhiêu, nó vẫn vô giá trị đối với họ.
Tại sao người ta nắm giữ sự khổ?
Không ai muốn khổ, nhưng người ta cứ tạo nguyên nhân của sự khổ, gần như thể họ
lang thang khắp nơi tìm kiếm nó. Con người thật sự muốn tìm hạnh phúc, nhưng
tâm tạo ra quá nhiều đau khổ. Chỉ nhìn thấy bấy nhiêu cũng đủ. Đó là bởi vì
chúng ta không biết sự khổ, không biết nguyên nhân của sự khổ, không biết sự
chấm dứt khổ và không biết con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau. Đó là tại sao
người ta cư xử như vậy.
Những người này có quan niệm sai
lầm, tức tà kiến. Bất cứ điều gì chúng ta
nói, tin tưởng hay làm mà nó dẫn tới khổ đau đều là tà kiến. Nếu nó không phải
là tà kiến, nó sẽ không dẫn đến khổ đau. Chúng ta sẽ không dính mắc vào khổ
đau hay hạnh phúc, bất cứ tình trạng nào. Chúng ta để sự việc diễn ra tự nhiên,
như một dòng nước. Chúng ta không phải ngăn cản nó lại. Chúng ta cứ để nó trôi
chảy theo hướng tự nhiên.
Giáo Pháp cũng thế, nó trôi chảy tự
nhiên. Nhưng cái tâm vô mình thì cứ chống lại Giáo Pháp dưới hình thức tà kiến.
Nó nhảy lung tung, nhìn thấy tà kiến ở những nơi khác, ở những người khác.
Trong khi đó, chính chúng ta cũng có tà kiến, nhưng chúng ta không nhìn thấy.
Hãy xem xét điều này.
Đa số con người vẫn mắc kẹt trong
mạng lưới khổ đau, vẫn lang thang trong luân hồi. Nếu đau bệnh phát sinh, tất
cả những gì họ làm là nghĩ cách dứt trừ nó. Họ muốn nó ngừng càng sớm càng tốt.
Họ không quán chiếu rằng đây là bản chất tự nhiên của các pháp hữu vi. Thân thể
thay đổi và con người không thể chấp nhận điều đó. Họ phải dứt trừ cái đau nhứt
bằng mọi giá. Tuy nhiên, đến cuối cùng, họ vẫn không thắng, họ không thể đánh
bại chân lý. Tất cả đều sụp đổ. Đây là một thứ mà người ta không muốn xem xét.
Tu hành để giác ngộ chân lý là điều
tuyệt vời nhất. Tại sao Đức Phật phát triển tất cả ba-la-mật-đa(1)?
Để Ngài có thể giác ngộ chân lý và cho phép những người khác tu hành và đắc Đạo
như Ngài.
Để hạnh phúc hay khổ đau phát sinh,
phải có tự ngã. Phải có cái “tôi” và “của tôi”, phải có cái hình dáng bên ngoài
này. Nếu khi tất cả những thứ này phát sinh, tâm đi thẳng tới cái siêu việt,
thì nó xóa đi những hình thức bên ngoài. Nó xóa đi sự vui thích, sự chán ghét,
và sự dính mắc vào những thứ đó. Giống như khi chúng ta đánh mất một thứ gì
chúng ta yêu chuộng: khi chúng ta tìm thấy lại nó, sự lo lắng của chúng ta tan
biến. Khi chúng ta tu hành và ngộ Đạo, thì mỗi khi có vấn đề, chúng ta giải
quyết nó tại đó và ngay đó. Vấn đề tan biến hoàn toàn.
Tại sao chúng ta vẫn chưa khai ngộ,
chưa thể buông bỏ? Bởi vì chúng ta chưa thấy rõ sự nguy hại. Sự hiểu biết của
chúng ta sai lạc. Nếu chúng ta biết rõ như Đức Phật hay những đệ tử a-la-hán
của Ngài, chúng ta chắc chắn sẽ buông bỏ, và rồi vấn đề của chúng ta sẽ tan
biến hoàn toàn mà không có gì khó khăn cả.
Khi tai bạn nghe âm thanh, hãy để
chúng làm công việc của chúng. Khi mắt bạn làm phận sự của nó với những hình
sắc, hãy để chúng làm thế. Khi mũi bạn làm việc với mùi vị chung quanh, hãy để
nó làm công việc của nó. Khi thân thể bạn kinh nghiệm sự xúc chạm, hãy để nó
hoàn thành nhiệm vụ của nó. Nếu chúng ta cứ để các giác quan của mình làm bổn
phận tự nhiên của chúng, vấn đề từ đâu mà phát sinh? Không có vấn đề nữa.
Cùng
thế ấy, tất cả những thứ thuộc về cái bên ngoài, hãy để chúng với cái bên ngoài. Và nhận biết cái siêu việt là gì.
Chỉ việc làm “người biết”, biết mà không nắm giữ, biết và để sự việc diễn ra tự
nhiên.
Để biết Giáo Pháp, bạn phải biết
theo cách này. Đó là, biết trong một cách có thể vượt lên khổ đau. Loại kiến
thức này rất quan trọng. Biết cách chế tạo đồ đạc, biết cách dùng các dụng cụ,
biết tất cả những kỹ thuật của thế gian – những thứ này đều có chỗ dụng của nó,
nhưng chúng không phải là kiến thức tối thượng. Giáo Pháp phải được biết như
cách tôi giải thích ở đây. Bạn không cần phải biết thật nhiều; chỉ bấy nhiêu là
đủ để tu hành – biết và rồi buông bỏ. Bạn không cần phải chết trước khi có thể
vượt lên khổ đau. Bạn vượt lên sự khổ đau ngay trong đời này bởi vì bạn biết
cách giải quyết vấn đề. Bạn biết cái bên ngoài, bạn biết cái siêu việt. Hãy
biết chúng ngay trong đời này, trong khi bạn tu hành ở đây.
Bạn có thể bâng khuâng, “Tại sao ông
thầy cứ nói điều này mãi?” Tôi làm sao có thể dạy điều gì khác hơn là sự thật?
Nhưng dầu nó là sự thật, đừng vội tin! Nếu bạn bám vào nó một cách mù quáng, nó
trở thành sai. Cũng như khi bạn nắm cái đuôi con rắn. Nếu bạn không thả ra, con
rắn sẽ quay lại cắn bạn. Cứ thử đi. Nếu bạn không thả ra, nó không có sự lựa
chọn nào khác hơn là cắn bạn. Thế giới của những hình sắc cũng như thế. Chúng
ta sống thuận theo những quy ước, nhưng nếu chúng ta bám chặt vào chúng, chúng
dẫn đến khổ đau. Cứ để sự việc đi qua.
Mỗi
khi chúng ta cảm thấy mình rất đúng, đến độ chúng ta không muốn xem xét một thứ
gì khác hay một người nào khác, chúng ta trở thành sai. Chúng ta có tà kiến. Khi đau khổ
phát sinh, nó đến từ đâu? Từ tà kiến.
Cho nên tôi nói, “Hãy thư giãn, đừng
bám giữ sự việc”. “Đúng” chỉ là một sự giả định, cứ để nó đi qua. “Sai” cũng là
một điều kiện bên ngoài, cứ để nó là thế. Nếu
bạn cảm thấy mình đúng và những người khác cho là bạn sai, đừng tranh cãi, cứ
buông bỏ nó. Bạn vừa biết ra, là buông bỏ ngay. Đây là con đường thẳng.
Nhưng thường thì không như vậy.
Thông thường người ta không chịu thua. Đó là tại sao có người, ngay cả những
người tu hành mà chưa biết chính mình, có thể thốt ra những điều rất là ngu
ngốc, đến nỗi không ai muốn nghe. Thế nhưng họ nghĩ là họ khôn ngoan hơn những
người khác. Lại có người không thể lắng nghe Pháp, nhưng họ nghĩ là họ khôn, là
họ đúng. Họ chỉ quảng bá cái ngu xuẩn của mình.
Đó là tại sao kẻ trí nói, “Bất cứ lời nói nào không hiểu biết sự vô
thường đều không phải là lời của kẻ trí, mà là lời của người ngu. Nó là lời nói
lừa gạt của một người không biết rằng sự khổ đang phát sinh ngay tại đó”.
Ví dụ, giả sử bạn quyết định đi Bangkok ngày mai và có người hỏi, “Bạn đi
Bangkok vào ngày mai phải không?” Bạn trả lời, “Tôi hy vọng đi tới Bangkok. Nếu
không có gì trở ngại, tôi có lẽ sẽ đi”. Đây là một câu nói với Giáo Pháp trong
tâm, nói chuyện với sự vô thường trong tâm, hiểu biết cái chân lý, đó là bản
chất không chắc chắn và tạm bợ của thế gian. Bạn không chỉ nói, “Đúng, tôi chắc
chắn sẽ đi Bangkok vào ngày mai.
Còn nhiều hơn thế nữa. Sự tu hành
ngày càng trở nên tế nhị hơn. Nhưng nếu bạn không nhìn thấy Giáo Pháp, bạn có
thể nghĩ rằng bạn đang nói đúng khi sự thật là bạn sai, và bạn rời xa bản chất
thật của sự việc với mỗi lời nói. Nói ngắn gọn: bất cứ điều gì chúng ta nói hay
làm mà mang đến khỏ đau đều là tà kiến. Nó là sự ảo tưởng và là sự ngu ngốc.
Đa số người tu hành không nghĩ như
thế. Bất cứ thứ gì họ thích, họ nghĩ là đúng, họ tin tưởng ngay. Nếu họ nhận
một món quà, một tước hiệu mới, hay một sự thăng chức, hay ngay cả một lời khen
tặng, họ cho rằng điều đó là tốt đẹp, là vĩ đại và rồi lòng kiêu hãnh của họ
được thổi phồng lên. Họ không xem xét, “Ta là ai? Cái gọi là tốt đẹp này ở đâu vậy?
Nó từ đâu đến? Những người khác có cùng thứ đó không?”
Đức Phật dạy rằng chúng ta nên ứng
xử một cách bình thường. Nếu chúng ta không thật sự nghiền ngẫm điều này, ảo
tưởng sẽ vẫn nằm bên trong chúng ta – chúng ta sẽ chìm đắm trong tài sản, chức
vị, sự khen tặng. Bởi vì chúng biến chúng ta trở thành một người khác: chúng ta
nghĩ rằng chúng ta tốt hơn trước, rằng chúng ta là một thứ gì đặc biệt.
Thật ra, con người không là một thứ
gì cả. Bất cứ chúng ta là gì, nó chỉ ở thế giới bên ngoài. Nếu chúng ta lấy đi
cái vẻ bên ngoài và nhìn vào bên trong cái siêu việt, chúng ta sẽ thấy rằng
không có thứ gì ở đó cả. Chỉ là những tính chất của thế gian – sinh vào lúc
đầu, thay đổi ở lúc giữa, và diệt ở lúc cuối. Nếu chúng ta nhìn thấy điều này,
vấn đề sẽ không thể phát sinh, và chúng ta có sự mãn nguyện và bình an.
Vấn đề phát sinh khi chúng ta nghĩ
giống như năm vị đệ tử tu khổ hạnh của Đức Phật. Họ làm theo sự hướng dẫn của
vị thầy, nhưng khi vị thầy thay đổi đường lối tu hành của mình, họ không hiểu
nổi. Họ cho rằng Đức Phật bỏ cuộc. Chúng ta có lẽ cũng làm như thế, mắc kẹt
trong những lối mòn của chúng ta và tin là mình đúng.
Cho nên tôi nói: Hãy tu hành, nhưng
cũng xem xét kết quả của sự tu hành. Xem xét kỹ những nơi mà bạn không chịu làm
theo lời thầy, hay sự giảng dạy. Nơi nào có sự xung đột, có sự tắc nghẽn. Bạn
tạo ra một tự ngã và sự việc dường như có thực chất. Đây là tà kiến. Ngay cả
cái đúng, nếu bạn bám chặt vào đó, không chịu nhượng bộ người nào, thì nó trở
thành sai. Bám chặt vào điều đúng là sự xuất hiện của cái ngã và không có sự
buông bỏ.
Nhiều người không hiểu điểm này. Nếu
bạn hiểu và nhanh trí, bạn sẽ lập tức buông bỏ. Sự bám giữ vừa phát sinh, thì
lập tứ có sự buông bỏ. Bạn để tâm buông bỏ ngay tại đó và lúc đó.
Bạn phải nhìn thấy cả hai thứ: Sự bám
giữ và người chống lại sự bám giữ. Mỗi khi bạn kinh nghiệm một cảm thọ, bạn nên
quan sát cách hai thứ này làm việc. Chỉ quan sát chúng thôi. Hãy quán chiếu và
liên tục tu hành như thế, và rồi sự bám giữ sẽ yếu dần, trở nên thưa thớt dần.
Chánh Kiến tăng lên khi tà kiến phai mờ dần. Sự bám giữ giảm dần, sự không bám
giữ phát sinh. Đây là cách tu hành. Hãy xem xét điểm này. Học cách giải quyết
vấn đề của bạn ngay lúc này.
------------------------------------------------------
(1)
Những phép Ba-la-mật-đa là những đức hạnh viên mãn của một Bồ-tát. Xem phụ lục
Lục Độ