Ajahn Sumedho
Hoang Phong chuyển ngữ
Dưới đây là một bài thuyết giảng của nhà
sư Ajahn Sumedho vào mùa kiết hạ năm 1994 tại ngôi chùa
Amaravati do chính ông thành lập ở Anh Quốc. Ajahn Sumedho là một người
Mỹ (tên thật là Robert Jackman), sinh năm 1934, và là đệ tử của
vị đại sư Thái Lan Ajahn Chah (1918-1992). Ông hoằng pháp ở
Anh từ năm 1977 và đã thành lập nhiều ngôi chùa tại Anh quốc.
Bài thuyết giảng của ông dưới đây thật sâu sắc, với
cách phân tích và trình bày vô cùng khúc triết về sự vận
hành của tâm thức. Là một thiền sư khác thường, thế nhưng
cách thuyết giảng và mô tả của ông thì lại rất thực tiễn, minh
bạch và dễ hiểu, giúp người nghe có thể đạt được những cấp
bậc hiểu biết rất cao.
Bài chuyển ngữ dưới đây chủ yếu được dựa
vào bản dịch tiếng Pháp của bà Jeanne Schut trên trang web:
http://www.dhammadelaforet.org/sommaire/a_sum/son_silence.html.
Độc giả cũng có thể tham khảo bản tiếng Anh của
bài này trong quyển Intuitive Awareness (Sự Giác Ngộ bằng trực
giác, Amaravati Bududdist Monastery, 2004, tr 85-96) của ông. Quyển sách này
cũng đã được đưa lên mạng dưới dạng pdf:
http://www.buddhanet.net/pdf_file/intuitive-awareness.pdf
***
Trong
cuộc sống thường nhật, sự tĩnh lặng là một thứ gì đó không được mấy ai quan
tâm đến.
Người
ta cho rằng sự suy nghĩ, sáng tạo hay làm một việc gì đó quan trọng
hơn nhiều - nói một cách khác là phải "lấp đầy" sự yên lặng. Nói
chung chúng ta nghe một âm thanh, một điệu nhạc, tiếng hàn
huyên..., thế nhưng đối với sự yên lặng thì lại cho rằng chẳng có gì để mà nghe
cả. Trong một buổi họp nếu không còn ai cất lời để nói
thêm gì nữa, thì tất cả đều tỏ ra ngượng ngập, sự yên lặng khiến
cho mọi người khó chịu.
Thế
nhưng sự tĩnh lặng và Tánh Không là các khái niệm có thể mở ra
cho chúng ta một hướng nhìn khác hơn, mang lại một cái gì đó
cho chúng ta quan sát, bởi vì cuộc sống tân tiến ngày nay đã
làm vỡ tan sự tĩnh lặng và xô sập cả không gian. Chúng
ta tạo ra một xã hội bắt chúng ta phải sống trong một tình
trạng bị động thường xuyên, chúng ta không còn biết nghỉ ngơi
hay thư giãn là gì nữa, cũng không còn cảm thấy là mình đang sống.
Cuộc sống đó thật hối hả, sự thông minh của bộ não giúp chúng
ta nghĩ ra đủ mọi cách làm cho cuộc sống dễ chịu hơn, thế nhưng
trên thực tế thì chúng ta luôn mệt nhoài. Trên nguyên
tắc các thứ sáng chế linh tinh là những gì giúp chúng ta đỡ mất
thì giờ, chẳng hạn như chỉ cần bấm nút là các thứ ấy biết làm đủ mọi chuyện,
các công việc nhàm chán thì giao cho các rô-bô hoặc các máy móc khác
- thế nhưng đối với thì giờ tiết kiệm được thì chúng
ta sẽ sử dụng nó như thế nào?
Dường
như chúng ta luôn cảm thấy mình không thể nào ngồi
yên được, cần phải làm một cái gì đó, phải tạo ra tiếng động để
lấp đầy sự yên lặng, tạo ra các hình tướng để lấp đầy không
gian. Xã hội chỉ xem trọng những người mang một cá tính rõ rệt, một bản
lĩnh biểu lộ được giá trị của mình. Đấy cũng chỉ là sự chạy
đua của kẻ mạnh, sự xoay vần của một chu kỳ bất tận, khiến chúng ta bị căng
thẳng triền miên. Lúc trẻ tuổi còn đầy sinh lực, chúng ta tận
hưởng lạc thú của tuổi trẻ: sức khỏe tốt, tình yêu, những
sự khám phá mới lạ, v.v. Thế nhưng tất cả rồi sẽ dừng lại vào một
ngày nào đó, chẳng hạn như bị tai nạn, một bi kịch của bản thân hay một
người thân qua đời. Điều xảy đến với mình sau đó là các thú vui giác cảm, sức
khỏe, sinh lực, sắc đẹp, cá tính, sự quyến rũ, sẽ không còn mang
đến cho mình một chút thích thú nào nữa. Chúng ta cũng
có thể sẽ cảm thấy chua chát vì không tìm thấy được lạc
thú và những sự toại nguyện mà sự sống đáng lý ra phải mang lại
cho mình. Tóm lại, chúng ta phải luôn tìm đủ mọi cách để chứng
tỏ khả năng mình, cho thấy mình là một "con người" nào đó, và
chính vì thế mà mình phải luôn phục tùng tất cả những gì mà cá tính mình bắt
mình phải thực hiện.
Cá
tính (personality/ bản ngã, bản tính, tính khí..) lệ thuộc vào tâm
thức con người. Chúng ta không sinh ra với một cá tính nào
cả. Nếu muốn trở thành một "ai đó" (a person), một “cá
nhân” nào đó thì chúng ta phải suy nghĩ và hình
dung mình là một "con người" nào đó. Chẳng hạn như mình là một
người tốt hay xấu, hoặc là một sự tổng hợp pha trộn đủ mọi thứ khác nhau (1) tính
khí thay đổi liên tục dưới sự chi phối của nghiệp khi
nó tác động với các bối cảnh bên ngoài và tạo ra các nét cá tính khác
nhau). Cá tính phát sinh từ ký ức, từ khả năng nhớ lại lai lịch của
mình, từ các quan điểm về chính mình - cho rằng mình đẹp hay xấu, dễ
thương hay đáng ghét, thông minh hay ngu đần - và cách nhìn
đó về chính mình sẽ liên tục biến đổi tùy thuộc vào các bối
cảnh xảy ra (2)
(nghiệp - dưới các hình thức ký ức, trí nhớ, kỷ niệm)
- tác động với nhân duyên tạo ra "tính khí" của mình,
cái "tính khí" luôn biến đổi đó chưa phải là "cái
tôi" hay "cái ngã" của mình. Trái lại nếu phát huy được
một khả năng suy tư nhạy bén thì chúng ta sẽ nhìn thấy xa
hơn những hình ảnh đó. Chúng ta sẽ thực hiện được
các kinh nghiệm cảm nhận về tâm thức nguyên sinh tức
là tri thức nhận biết thực tại của chính mình (còn gọi là tỉnh thức),
trước khi nó bị chi phối (conditioned/ trói buộc, nhào nặn) bởi
các sự cảm nhận của mình (3) (các sự cảm nhận của ngũ giác và tâm
thức) sẽ làm cho "tri thức nguyên sinh" thuần khiết
bị méo mó và ô nhiễm, và biến nó trở thành "cái tôi"
hay "cái ngã" của mình.
Nếu
cứ ra sức tìm hiểu về cái tâm thức nguyên sinh ấy,
thì chúng ta sẽ khó tránh khỏi rơi vào cạm bẫy giăng
ra bởi khả năng lý luận ấy của mình (4) (cái bẫy giăng ra là tính
cách nhị nguyên của sự suy nghĩ và lý luận: "tâm
thức nguyên sinh" của mình sẽ không còn là mình nữa mà trở
thành một đối tượng của sự suy nghĩ và lý luận; tâm thức hay tri
thức nguyên sinh chỉ có thể được cảm nhận một cách trực tiếp mà thôi).
Do đó tốt hơn hết là chỉ nên quan sát và lắng nghe, thay
vì tìm cách khám phá ra phương cách phải làm thế nào để đạt
được "giác ngộ". Ngay cả việc hành thiền nhắm vào chủ
đích tìm kiếm sự giác ngộ cũng sẽ không mang lại một kết quả
nào, bởi vì một khi chúng ta vẫn tìm cách đạt được một
kết quả nào đó, thì chúng ta sẽ vẫn còn tạo ra cho mình một "cái
tôi" trong thể dạng vô minh của nó.
Trong trường
hợp đó chúng ta sẽ cảm thấy mình là một chúng
sinh chưa giác ngộ - tương tự như một người đang gặp
khó khăn hay đang phải đối phó với một hoàn cảnh tuyệt vọng (5) (luyện tập giác
ngộ, mong cầu giác ngộ có nghĩa là mình chưa giác ngộ, tương
tự như một người bị bế tắc đang cố gắng tìm một giải
pháp cho sự bế tắc ấy của mình). Đôi khi chúng
ta có cảm giác là những gì tồi tệ nhất mà người ta có
thể nghĩ về mình đều hoàn toàn đúng! Nếu cho rằng sự lương thiện là
cách tin rằng mình là một con người kém cỏi nhất thì đấy cũng là một hình
thức nhầm lẫn (perversity/gàn dở, sai lầm).
Tôi
không có tham vọng phán đoán gì cả về cá tính con người, mà
chỉ gợi ý với quý vị là nên tìm hiểu xem nó đích thật là gì, đấy là
cách giúp quý vị không nên chỉ biết phản ứng căn cứ vào những thứ ảo
giác do chính quý vị tự tạo ra, cũng không căn cứ vào những sự suy
nghĩ vay mượn từ vốn liếng hiểu biết của mình. Nếu muốn thực
hiện được điều đó thì quý vị phải tập ngồi xuống thật yên lặng hầu giúp
mình lắng nghe được sự tĩnh lặng. Điều đó không những sẽ mang lại sự Giác
Ngộ mà còn giúp quý vị đương đầu với các thói quen, các sự xáo động trên
thân xác và các xúc cảm (trong tâm thức) chi phối sự sinh
hoạt thường nhật của mình.
Vậy
quý vị hãy nên lắng nghe sự tĩnh lặng. Quý vị hiện đang nghe thấy tiếng tôi nói,
nghe tiếng động chung quanh, thế nhưng phía sau tất cả những thứ ấy
có một thứ âm thanh rất cao, gần như là âm thanh điện tử.
Và
đấy cũng là cái mà tôi gọi là "âm thanh của sự tĩnh lặng". Tôi xem đó
là một phương tiện thực tiễn mang lại sự tập trung
tâm thần, thật vậy khi nào hướng được sự chú tâm vào tĩnh lặng -
nhưng không bám víu vào nó hay đề cao nó - thì mình sẽ lắng nghe
được sự suy nghĩ của mình. Phải chăng tư duy cũng
là một hình thức vận động của âm thanh? Khi người ta suy
nghĩ thì người ta cũng nghe thấy được là mình đang suy nghĩ, mỗi khi
tôi nghe thấy tôi suy nghĩ, thì cũng không khác gì như tôi nghe được một
người nào khác đang nói. Tóm lại là tôi nghe thấy tư
duy nhưng tôi cũng nghe thấy cả âm thanh của sự yên lặng (6) (tâm thức là
một giác quan tinh tế và khá "trừu tượng", do đó nhà
sư Sumedho đã mượn sự cảm nhận của thính giác là
"nghe" để mô tả và cụ thể hóa sự cảm nhận của tâm
thức. Phía sau sự cảm nhận hình tướng là mắt, phía sau sự cảm nhận vị
là lưỡi, phía sau sự cảm nhận âm thanh là tai, v.v..., phía sau sự cảm
nhận tư duy và xúc cảm là tâm thức. Khi nào tâm thức cảm
nhận được sự yên lặng, thì đấy là thể dạng nguyên sinh của chính nó. Trong thể
dạng đó không có một nhiễu âm nào, không có "cái tôi" nào hiện
lên, mà chỉ là một sự trống không - hay Tánh Không - tuyệt đối mà
thôi).
Thế
nhưng mỗi khi tôi lắng nghe được sự yên lặng thì tôi cũng nhận
thấy không còn một tư duy nào nữa cả (tư duy là một thứ
nhiễu âm). Những gì còn lại chỉ là một sự tĩnh lặng, và tôi ghi nhận được
sự tĩnh lặng ấy một cách thật minh bạch (7) (tư duy và
xúc cảm biến mất, nhưng dòng chảy của tri thức vẫn tiếp tục luân
lưu tương tự như một dòng sông yên lặng và êm ả, không một gợn
sóng li ti nào). Điều đó giúp tôi trực nhận được Tánh
Không.
Tánh
Không không hề có nghĩa là tự cô lập mình hay chối bỏ bất cứ một
thứ gì, mà chỉ là sự buông bỏ các xu hướng quen thuộc chi
phối các sự sinh hoạt không ngưng nghỉ và các tư duy dồn
dập của mình trong cuộc sống thường nhật.
Thật
vậy, quý vị có thể làm cho các sự sinh hoạt theo thói
quen cũng như các sự thèm khát (desires/ thèm muốn, ham
thích, say mê...) phải hoàn toàn dừng lại, bằng cách lắng
nghe âm thanh ấy (của sự tĩnh lặng). Quý vị không cần phải nhắm
mắt, bịt tai hay bắt những người xung quanh phải rời khỏi gian
phòng. Quý vị cũng không cần phải luyện tập trong một nơi vắng vẻ nhất định nào
cả, mà có thể là ở bất cứ nơi nào và trong hoàn cảnh nào. Do đó việc
luyện tập thường nhật sẽ không gặp phải một khó khăn nào cả, dù là quý vị đang
phải sống chung với một tập thể (tăng đoàn chẳng hạn) hay trong
khung cảnh gia đình, khi mà cuộc sống ấy đã trở thành tập
quán của quý vị. Trong các hoàn cảnh đó, chúng
ta - cả mình và kẻ khác - thường có thói quen sinh hoạt dựa
vào các định kiến và hình ảnh (8) (các sự hình dung và tưởng tượng
của mình) mà chính mình cũng
không hề ý thức (9) (không nhận biết gì cả, sống như một cái
máy). Thế nhưng đấy cũng là dịp mà sự yên lặng của tâm thức đánh
thức sự quán thấy của mình trước các điều kiện trói
buộc ấy. Khi nào hiểu được rằng tất cả mọi hiện tượng đều hiện
ra để mà biến mất đi, thì chúng ta cũng sẽ nhận thấy rằng
tất cả các tư duy và hình ảnh mà mình tạo ra để gán
cho mình và kẻ khác đều là do tâm thức mình tạo dựng (thói
quen, thời gian và ký ức) và mình thì không hề là những thứ ấy. Những
gì mà chúng ta luôn nghĩ rằng là mình thật ra không phải là mình.
Có
thể quý vị sẽ nêu lên thắc mắc: "Ấy, vậy thì tôi là gì? Muốn biết
mình là gì chẳng phải là một điều chính đáng hay sao?" Thật
ra cũng chỉ cần biết được những gì không đích thật là mình thì cũng là đủ. Mọi vấn
đề rắc rối đều phát sinh từ việc chúng ta tin rằng mình là
tất cả những thứ ấy, nhưng thật ra thì mình lại không phải là những thứ ấy, đấy
chính là nguyên nhân mang lại khổ đau cho mình. Chúng
ta không khổ đau vì anatta (not-self/vô ngã/không có "cái
tôi"), tức là mình không phải là một thứ gì cả, sở dĩ mình
khổ đau là vì lúc nào mình cũng cảm thấy mình là một con người nào
đó. Khổ đau là ở chỗ ấy. Vậy thì khi nào mình không còn phải là một con
người nào cả, thì khi ấy chẳng những sẽ không có một sự khổ đau nào mà còn
là cả một sự nhẹ nhõm, tương tự như trút bỏ được bộ áo giáp nặng nề tạo
ra bởi hình ảnh của "cái ngã" của mình và sự sợ
hãi khó chịu trước cái nhìn của kẻ khác.
Tất
cả cái gánh nặng ấy phát sinh từ cảm tính cho rằng mình có một
"cái tôi", có một sự hiện hữu để chấp ngã, vì thế chúng
ta cũng nên buông bỏ cái gánh nặng ấy xuống.
Chỉ
cần buông bỏ nó, đơn giản chỉ có vậy. Hãy cứ nhìn vào
những gì đang đày đọa con người, tàn phá xã hội và
làm điêu đứng cả nhân loại trên hành tinh này, thì sẽ thấy
ngay là cái gánh nặng ấy của "cái tôi", "cái ngã"
hay cái "cố chấp" của mình, nặng nề đến dường nào! Thật là nhẹ
nhàng thoải mái biết bao nhiêu khi cảm thấy mình không phải
là một con người nào cả! Chẳng phải là thoải mái hay sao
khi không còn trông thấy mình là phải đương đầu với mọi thứ khó khăn, phải gắng
sức luyện tập thiền định liên tục hầu thoát ra khỏi tình
trạng đó, hoặc phải tìm đến ngôi chùa Amaravati này (ngôi chùa của nhà
sư Ajahn Sumedho) thường xuyên hơn, hoặc cảm thấy mình
phải được giải thoát nhưng không sao thoát được? Chẳng phải
tất cả những thứ ấy cũng chỉ là các sản phẩm do tư duy tạo tác ra hay
sao? Đấy là cách tạo dựng ra các sự suy nghĩ về mình, tức là
các thói quen phán đoán liên tục nhắn bảo với mình là mình vẫn
chưa đạt được, còn phải cố gắng hơn nữa.
Vậy chúng
ta hãy lắng tai nghe; khả năng nghe của mình lúc nào cũng sẵn
sàng. Thiết nghĩ trong giai đoạn mới khởi sự tu tập, thì quý vị
cũng nên tham dự các khóa ẩn cư về thiền định, hoặc tạo
ra một khung cảnh thuận lợi có người nhắc nhở và hỗ trợ mình, hoặc có
một người thầy khích lệ giúp mình kiên trì hơn - chẳng qua là vì quý
vị rất dễ rơi vào các thói quen trước đây của mình, nhất là đối với
các thói quen vô cùng tinh tế thuộc lãnh vực tâm
thần - trong khi đó thì âm thanh của sự tĩnh lặng lại không
có vẻ gì là hấp dẫn lắm so với các thói quen ấy (sự
yên lặng không đủ sức thu hút mình hay chinh phục mình so với
các thói quen suy nghĩ đã ăn sâu vào tâm thức mình
từ trước). Thế nhưng, dù là đang nghe một bản nhạc, nhưng quý vị vẫn
có thể lắng nghe được sự tĩnh lặng trong ấy. Nó không hề phá hỏng
âm điệu của bản nhạc mà quý vị đang nghe. Quý vị vừa có thể thưởng thức âm
thanh và cả sự yên lặng, những người tu tập vẫn có thể sinh
hoạt bình thường bên cạnh chúng ta, thế nhưng trong khi đó thật
sâu bên trong tâm thức họ là cả một sự tĩnh lặng mênh mông.
Con
Đường Trung Quán do Đức Phật đề xướng (10) (Long Thụ cho
biết ông chỉ là người triển khai học thuyết Trung
Quán căn cứ vào một bài kinh do Đức Phật thuyết
giảng) không hề có nghĩa là một sự hủy diệt tuyệt đối.
Người ta thường nói: "Sự tĩnh lặng, Tánh Không và vô
ngã không phải là những gì mà mình phải đạt cho bằng được, mà thật ra là
phải loại bỏ tất cả mọi sự thèm khát của mình. Dù mang bất
cứ ý nghĩa nào, thì tất cả những thứ ấy cũng đều là các hình thức chống
lại sự tĩnh lặng. Chúng ta phải buông bỏ tất cả các điều kiện trói
buộc, từ âm thanh đến hình tướng. Không nên để cho bất cứ một hình
tướng nào còn sót lại trong gian phòng này, ngoài những bức tường trắng
toát" (11)
(câu này phản ảnh những lời Đức Phật đã giảng trong
"Bài kinh ngắn về Tánh Không"/Culasunnata-sutta, MN 121.
Trong bài kinh này Đức Phật nêu lên phép thiền định về
sự an trú trong Tánh Không qua bảy phép tập trung sự cảm nhận:
nếu tập trung sự cảm nhận về gian tịnh xá thì chỉ cảm nhận
gian tịnh xá hoàn toàn trống không; nếu tập trung sự cảm nhận về
rừng thì chỉ cảm nhận toàn là rừng; nếu tập trung sự cảm nhận về đất thì chỉ cảm
nhận toàn là đất; tiếp theo là các sự tập trung sự cảm nhận về không
gian vô tận, về tri thức vô tận, về hư vô...v.v. cho đến "không-cảm-nhận"
nhưng cũng "không-phải-là-không-cảm-nhận", và sau cùng là "cảm
nhận về thể dạng tập trung tâm thần không chủ đích". Đây là một bài
kinh rất thực tiễn, vô cùng cao siêu và sâu sắc,
giúp chúng ta trực tiếp áp dụng khái niệm về Tánh Không do
chính Đức Phật thuyết giảng vào việc biến cải tâm thức mình).
Chính
ở điểm này sẽ phải cần đến sự chú tâm và sự cảm nhận về thực tại.
Trên hành tinh này chúng ta bị trói chặt với thân xác con người,
sự lệ thuộc đó thật hết sức nặng nề. Suốt đời, chúng
ta phải sống giam mình trong các khả năng hạn hẹp của thân
xác, phải đối đầu với mọi chướng ngại và khó khăn
phát sinh từ thân xác (khuyết tật và ốm đau chẳng hạn). Đấy là chưa nói đến
mọi thứ xúc cảm bên trong tâm thức! Chúng ta cảm nhận được
những thứ ấy và lưu giữ các kỷ niệm về chúng. Chúng ta buông mình vào
các thứ thú vui giác cảm cũng như các sự cảm nhận đớn đau trong suốt cuộc
sống của mình. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể nhìn vào các thứ ấy
theo một chiều hướng khác hơn, đó là chiều hướng mà Đức Phật đã chỉ dạy
cho chúng ta: ấy là phải nhìn vào mọi sự vật đúng với chúng là như thế, và
cũng nên để cho chúng được là như thế, đúng với bản chất của chúng là
như thế - dù chúng là nguyên nhân của khổ đau nhưng cũng chỉ
là nhất thời mà thôi, và chúng không hề hàm chứa một thực thể nào
cả - thay vì tìm cách gán cho chúng một giá trị (các đặc
tính hay một sự quan tâm) nào đó khiến chúng bị biến dạng đi,
và tạo ra thêm khổ đau cho mình.
Chỉ
vì vô minh nên chúng ta thường xuyên tạo ra những hình
ảnh lệch lạc về những gì xảy ra trong cuộc sống, về thân xác mình, các sự hồi
tưởng của mình, lời ăn tiếng nói của mình, các sự cảm nhận của
mình, quan điểm của mình, văn hóa của mình, các tập
quán tôn giáo của mình - khiến mọi sự trở nên vô cùng phức
tạp, khó khăn và đối nghịch nhau. Những sự điên rồ đó của thế giới tân
tiến ngày nay đều phát sinh từ sự ám ảnh về "cái tôi"
bé tí xíu của mình (12) ("cái tôi" còn gọi là "bản ngã",
tiếng Pa-li là atta, tiếng Phạn là: atman; các tôn giáo độc thần thì
gọi đấy là "linh hồn"/soul, self, ego). Cứ nhìn
vào tình trạng trên thế giới ngày nay thì sẽ hiểu sự tác
hại của "cái tôi" bé xíu ấy to lớn đến dường nào: tuy cái tôi chỉ
bé tí xíu nhưng chúng ta lại cảm thấy mình quan trọng khủng
khiếp. Người ta dạy cho mình hiểu rằng mình là trung tâm của thế
giới, và sau đó thì mình lại còn tiếp tục thổi phồng thêm sự quan trọng
ấy của mình. Ngay cả trường hợp mình nghĩ rằng mình đang rơi
vào hoàn cảnh tuyệt vọng, thế nhưng mình cũng cứ xem ý
nghĩ về sự tuyệt vọng ấy mang một tầm quan trọng thật to lớn.
Chúng
ta có thể đi khám bác sĩ tâm thần năm này sang năm
khác, thảo luận với họ về các nguyên nhân mang lại cảm
tính thua kém tự ti (nullity/bất tài, vô giá trị, vô tích sự) của
mình, chẳng qua cũng là vì sự thua kém ấy vô cùng quan trọng
đối với mình - cảm tính về "cái tôi" quá mạnh khiến mình không
thể chịu đựng nổi là mình bất tài, vô giá trị, đó là một
sự mặc cảm thật to lớn - thế nhưng dưới một góc nhìn khác, thì đấy
lại là những gì thật bình thường, chẳng qua là vì chúng ta suốt
đời phải sống với ảo vọng chính mình; chúng ta có thể lánh
xa kẻ khác nhưng lúc nào cũng bị trói buộc với “cái tôi” của chính
mình, "cái tôi" đó đòi hỏi mình đủ mọi thứ chuyện khiến mình cảm
thấy bất toại nguyên, thua kém và tự ti.
Khái
niệm về anatta hay vô ngã thường bị hiểu sai. Nhiều người cho rằng đấy
là cách phải chối bỏ "cái tôi" như là một thứ gì tự nó xấu
xa và phải tháo gỡ nó ra. Thế nhưng đấy không phải là
cách vận hành của vô ngã. Anatta hay "vô ngã" chỉ đơn
giản là một sự gợi ý trong tâm thức mình, là một lợi khí giúp
mình suy nghĩ xem mình đích thực là gì. Và sau một thời
gian luyện tập thì mình sẽ không còn xem mình là bất cứ một thứ gì nữa cả.
Nếu đẩy sự lý luận đó đến chỗ tột cùng, thì chúng ta sẽ nhận
thấy rằng thân xác, xúc cảm, ký ức, tóm tắt là tất cả những
gì nhất định phải là "chúng ta" hay "của chúng
ta" thật ra cũng chỉ là các hiện tượng tự nhiên mà thôi,
và đặc tính của hiện tượng là liên tục hình
thành, kéo dài trong một thời gian và sau đó thì biến mất.
Khi
nào chúng ta hoàn toàn ý thức được rằng: sự kiện của mọi hiện
tượng tất yếu sẽ phải biến mất đi một lúc nào đó, thì chúng
ta cũng sẽ nhận thấy thật rõ ràng tình trạng ám ảnh và bám
víu của mình đối với những thứ thật phù du. Cần phải luyện tập lâu
dài mới có thể vượt lên trên được các chướng ngại tạo ra bởi các
sự ám ảnh về "cái tôi" hay "cái ngã" của mình, thế
nhưng điều đó vẫn có thể làm được. Cần phải có thời gian để vượt
qua các chướng ngại của thói quen, và đơn giản chỉ có
thế (13) ("cái
tôi" chi phối mình từ lâu đời, sự ngoan
ngoãn và vâng lời của mình trước sự chỉ huy của nó tạo
ra cho mình các thói quen ăn sâu vào tâm thức mình, vì thế
phải có thời gian để buông bỏ sự dính mắc với chúng).
Một
số nhà tâm lý học và bác sĩ tâm thần cho rằng chúng
ta cần phải có một "cái tôi" (một phương
pháp trị liệu trong khoa phân tâm học). Quả cũng là một điều hay
khi xem "cái tôi" không phải là một thứ gì phải loại bỏ mà
chỉ cần đặt nó vào đúng vị trí của nó. Thế nhưng, cũng phải thiết đặt
nó trên một nền tảng tốt đẹp và lợi ích trong cuộc sống của
mình, có nghĩa là nó không được tạo ra cho mình những hình ảnh về một
"cái ngã" mang đầy khiếm khuyết và các xu hướng tiêu cực (14) (do nó mang
đầy tham, sân, si, mạn, nghi, sợ hãi, ham muốn...)
Sự
sống là một dòng sông luân lưu và biến đổi liên tục. Có lúc
thì mình cảm thấy mệt mỏi, có lúc thì bị tràn ngập bởi mọi
thứ xúc cảm, chẳng hạn như giận dữ, ganh tị, sợ hãi, mọi thứ thèm
khát, chiếm hữu hoặc những thứ xúc cảm thật kỳ lạ mà chúng
ta không hoàn toàn hiểu hết được (15) (những sự hoang mang tâm thần,
pha trộn bởi những thứ xúc cảm bấn loạn khác nhau; tương tự như các
xúc cảm và hình ảnh hiện lên trong các giấc mơ). Thế
nhưng tất cả những thứ ấy đều thuộc vào một quá trình chung của sự sống. Chúng
ta phải tìm cách nhận diện các hiện tượng ấy mỗi
khi chúng hiện lên với mình, hầu có thể quan sát bản chất của
chúng: tốt hay xấu, hoàn hảo hay khiếm khuyết? Dầu sao thì tất cả những
thứ ấy cũng chỉ mang tính tạm thời, nói cách khác là chúng cũng
sẽ biến mất, tương tự như chúng đã hiện ra trước đây. Đấy
là cách mà chúng ta phải thường xuyên ý thức hầu phát
huy sức mạnh nội tâm giúp mình tháo gỡ những mắt xích của
nghiệp trói buộc mình. Cũng có thể xảy ra trường hợp mà cuộc
sống không ưu đãi mình, chẳng hạn như các khiếm khuyết trên thân xác, hoàn cảnh sống hoặc các vấn đề sức khỏe, công việc hay tình cảm. Thế nhưng dưới
góc nhìn của Dhamma (Đạo Pháp) thì những thứ ấy không hề là các chướng ngại,
bởi vì thông thường chính những thứ ấy là những gì giúp mình thức tỉnh trước hiện
thực của cuộc sống.
Bên
trong nội tâm mình có một cái gì đó giúp mình hiểu rằng các việc như hoạch
định tương lai, sắp xếp êm đẹp tất cả mọi chuyện, làm cho mọi thứ đều trở
nên tốt đẹp và thật hoàn hảo, hoặc mang lại cho mình một cuộc sống
an vui, không hề có một giải pháp thỏa đáng nào cả (16) (sự vận
hành chung của thế giới hiện tượng tùy thuộc vào quy
luật tương tức/pratityasamutpada, và trong khuôn khổ của một cá thể thì
đấy là sự vận hành của nghiệp của cá thể ấy tương quan với thế
giới hiện tượng. Chúng ta không thể thay đổi sự vận hành tự
nhiên ấy theo sự mong muốn của mình, nếu không thì đấy cũng chỉ
là các sự "bất toại nguyện" tức các sự khổ đau mà mình tự tạo ra cho
mình). Chúng ta đều phải công nhận không thể nào
chủ động hay lèo lái sự sống hầu mang lại cho mình những gì đẹp nhất, nhưng chúng
ta cũng hiểu rằng sự sống cũng hàm chứa những kích thước sâu rộng hơn
những thứ ấy rất nhiều (17) (sự sống không phải chỉ gồm có các điều tốt
đẹp hay xấu xa, may mắn hay xui rủi, sung sướng hay bất
hạnh, những thứ ấy chỉ biểu trưng cho một thể dạng rất thấp của sự sống).
Chỉ khi nào chúng ta vượt lên trên được cấp bậc sơ đẳng chi phối bởi bản
năng ấy, thì khi đó chúng ta mới cảm nhận được những sự rung cảm
thật sâu xa - tương tự như một thứ hạnh phúc mà
mình không thể mô tả được bằng lời - một sự mở rộng trong
con tim mình, trong tâm thức mình, khiến mình có cảm giác sự
sống cũng là chính mình, trong sự sống đó có cỏ cây, có những côn trùng nhỏ bé,
có những con người khác với mình, có những sinh linh hiện hữu,
có những sinh linh đã khuất... Phải chăng đấy là các kích
thước to rộng của sự sống mà nhà sư Sumedho muốn nói đến trên đây?
Chúng ta là một trong tất cả và tất cả trong một...
Trở
lại với sự tĩnh lặng. Vậy thì nếu muốn loại bỏ được cảm tính
mình là một con người nào đó với tất cả những hình ảnh nào
đó được ghép chung vào con người ấy, thì cũng nên hiểu rằng có một sự
tĩnh lặng tàng ẩn phía sau mọi sự cảm nhận ấy.
Chúng
ta có thể tan vào sự tĩnh lặng mà trong đó tất cả mọi thứ đều trở
thành một. Tương tự như không gian trong gian phòng này. Chẳng
phải không gian chỉ là một thứ đối với tất cả mọi người hay
sao? Tôi không thể bảo rằng cái không gian này là của tôi. Không
gian là như thế, bên trong nó mọi hình tướng được hiện
ra và biến mất đi, thế nhưng nó cũng là một thứ gì đó mà chúng
ta có thể trông thấy nó và ngắm nhìn được nó (18) (cũng ví
như chúng ta dùng món đồ chơi thổi bọt xà phòng bong bóng lên không trung,
không trung ấy là không gian sự tĩnh lặng và nhưng bọt bong bóng kia chính là
thế giới của mọi hiện tượng sự vật mà ta cảm nhận được qua lục căn).
Thế nhưng sau khi ngắm nhìn nó thì chuyện gì sẽ xảy ra? Nếu chúng
ta càng phát huy sự cảm nhận ấy về không gian thì chúng
ta càng cảm thấy một sự mênh mông tỏa rộng, bởi
vì không gian là vô thủy cũng vô chung.
"Âm
thanh của sự tĩnh lặng" cũng vận hành theo cách đó đối với
các tư duy của quý vị: nó giúp quý vị cảm nhận được thiên
nhiên, sự liên hệ giữa âm thanh và sự yên lặng
cũng tương tự như sự liên hệ giữa hình tướng và không
gian. Một người xao lãng chỉ nhận thấy hình tướng nhưng
không trông thấy không gian, chỉ nghe thấy âm thanh và tiếng
động nhưng không nghe thấy sự yên lặng tỏa rộng.
Tuy
nhiên, đôi lúc chúng ta cũng thoáng thấy được một sự
tĩnh lặng mênh mông nào đó, chẳng hạn như trong một gian phòng kín cửa
hay một nơi vắng vẻ, hoặc nhận thấy một không gian bát ngát
như khi đứng trên đỉnh một đồi cát giữa sa mạc hay trên một mỏm đá của một đỉnh
núi cao. Sự tĩnh lặng mênh mông và không gian bát ngát đó
tuy vậy cũng có thể khiến chúng ta cảm thấy một chút choáng ngợp
hay sợ hãi nào đó, bởi vì chúng ta có "thói quen"
sống với tiếng động và âm thanh, với các khoảng không
gian chật hẹp. Nhìn vào nội tâm thì đấy là thói
quen "lấp đầy" tâm thức mình bằng các thứ suy tư và
xúc cảm phát sinh từ các sự cảm nhận về hình tướng, mùi, vị, âm
thanh và sự đụng chạm. Những cảm nhận hỗn độn đó che lấp sự trong
sáng và phẳng lặng của trí thức nguyên sinh của chính mình. Xin
mạn phép nhắc lại là trong "Bài kinh Ngắn về Tánh Không" Đức Phật có
nói đến phép thiền định "Cảm nhận về không gian vô tận",
đó là phép luyện tập giúp chúng ta khám phá ra các không gian vô
biên của tâm thức mình.
Tôi
thường luyện tập về các cách mang lại các tư duy trung hòa, chẳng hạn
như cảm nhận "tôi là một con người" (không phải là một cá
nhân hay một nhân vật nào cả), trong con người đó không dấy lên
một sự xúc cảm nào. Tôi lắng nghe và cố gắng chỉ nghe thấy tư
duy và sự yên lặng bao quanh nó. Đấy là cách giúp tôi quan
sát được sự liên hệ giữa khả năng suy tư và sự tĩnh lặng tự
nhiên của tâm thức mình, và đấy cũng là cách mang lại thể dạng
thăng bằng cho sự chú tâm của tôi. Bất cứ một con người nào
cũng có thể thực hiện được khả năng cảm nhận đó, khả năng lắng nghe
đó và khả năng giác ngộ đó. Việc này sẽ khó khăn hơn nhiều nếu tâm
thức mình còn tràn ngập xúc cảm, có nghĩa là mình chưa làm chấm dứt được
các sự thèm muốn được chiếm hữu, thèm muốn các giác cảm, tóm
lại là chưa buông bỏ được tất cả mọi thứ chuyện.
Chính
vì thế nên quý vị phải cố lắng nghe các phản ứng phát sinh từ các xúc
cảm của mình. Trước hết phải quan sát những gì xảy ra mỗi khi sự tĩnh lặng hiện lên với mình, tuy rằng sự lặng yên đó cũng có thể
mang tính cách tiêu cực, chẳng hạn như: "Tôi phải làm gì bây giờ"
hoặc "Thật là mất hết thì giờ". Khi nào nhận biết được sự
thực ấy và chấp nhận nó, thì quý vị sẽ nhận thấy các phản
ứng đó sẽ tự nhiên chấm dứt. Các phản ứng cảm xúc hiện
lên rồi sẽ dần dần tan biến hết và quý vị sẽ nhận thấy thật rõ
ràng rằng mình chỉ là "như thế" thôi và cái "như thế" ấy
của mình cũng chỉ là một thứ gì đó có khả năng ý thức thế thôi.
Chính
vào lúc đó quý vị có thể tạo ra một nền tảng vững chắc cho toàn
bộ cuộc sống của mình, dựa vào quyết tâm thực hiện những
gì tốt đẹp và không làm điều ác (19) (khi mọi xúc cảm thèm
khát đã tan biến hết giúp mình cảm nhận được mình là "như thế",
thì sự cảm nhận trong sáng và thăng bằng đó sẽ là một cơ hội tốt nhất
giúp mình thực hiện những điều tốt đẹp và từ bi, biết giữ
gìn giới luật, tóm tắt là mang lại một lý tưởng nào đó
cho cái thể dạng chỉ là "như thế" của mình). Trong thiền
định, không hề có nghĩa là khi nào phát huy được sự chú
tâm thì chúng ta có thể làm được bất cứ gì mình muốn, bởi vì tất
cả còn phải tùy thuộc vào một yếu tố khác nữa, đó là
các điều kiện trói buộc mà mình phải tôn trọng và chấp
nhận: tức là mình không thể nào vượt xa hơn các khả năng của thân
xác, nhân tính, trí thông minh cũng như các khả năng khác của
mình. Vậy cũng không nên tự nhận diện mình qua các thứ ấy
hay bám víu vào chúng, tuy nhiên thiền định cũng có thể
giúp mình nhận biết được những gì trong tầm tay của mình: chỉ là
như thế, và các điều kiện trói buộc mình cũng chỉ là như thế.
Đôi khi cũng phải tôn trọng và chấp nhận cả những sự bất lực
của chính mình.
Biết tôn
trọng và chấp nhận các điều kiện bám sát mình trong kiếp
sống này, và điều đó cũng có nghĩa là nên tôn trọng và chấp nhận các điều
kiện ấy đúng với chúng là như thế, dù chúng có thuận lợi hay khó khăn cũng
vậy. Điều đó không có nghĩa là phải yêu quý hay dính mắc vào chúng mà chỉ là chấp
nhận chúng như một cơ sở căn bản giúp chúng ta luyện tập.
Một tâm
thức giác ngộ không hề tìm cách đạt được những
gì tốt đẹp nhất trong cuộc sống. Tâm thức ấy không đòi hỏi
phải có một sức khỏe tốt nhất, các điều kiện tốt nhất, một hoàn cảnh tốt nhất hoặc
bất cứ một thứ gì khác tốt nhất, hầu giúp nó đạt được thể dạng giác
ngộ ấy của nó, bởi đấy cũng chỉ là những gì khiến làm dấy lên cảm tính
mình là "một con người chỉ có thể hành động hữu hiệu khi nào hội
đủ các điều kiện tốt nhất". Khi nào bắt đầu hiểu được rằng sự yếu
kém và các khiếm khuyết của mình, cũng như tất cả các đặc
tính khác của mình, không hề tạo ra một chướng ngại nào, thì khi
đó chúng ta mới có thể nhận thấy mọi sự vật một
cách đúng đắn được, và khi đó chúng ta mới có thể tôn
trọng và sẵn sàng xem chúng như một phương tiện giúp mình vượt
lên trên mọi sự bám víu vào chúng. Nếu biết luyện tập theo cách đó
thì chúng ta sẽ thoát ra khỏi mọi sự nhận diện và bám
víu vào các hình ảnh mà mình tạo dựng về chính mình.
Quả
đấy là một thứ gì thật tuyệt vời mà tất cả chúng ta đều có
thể thực hiện được với tư cách con người: đó là cách sử
dụng toàn bộ các phương tiện mà sự sống đã ban
cho mình - và đấy cũng là một quá trình không bao giờ ngưng nghỉ. Sự
luyện tập mang lại sự giác ngộ cho mình chỉ chấm dứt kể từ
giây phút mà mình không còn hiện hữu trong thế giới này nữa.
Bures-sur-Yvette, 06.11.15
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét