HT. Thích Trí Quảng
Tôi nhận
thấy Tăng Ni thực hiện lời Phật dạy, tập hợp một chốn để an
cư kiết hạ, thúc liễm thân tâm, trau dồi giới, định, tuệ. Đó là điều đáng
mừng. Sau đây, tôi có vài suy nghĩ về tu hành xin được chia
sẻ cùng đại chúng.
Việc
thứ nhất, chúng ta là đệ tử Phật, đương nhiên phải nương
vào giáo pháp của Phật mà hành trì, nương vào di
huấn của Phật mà tu tập. Nhưng giáo lý của Phật khá nhiều
so với các tôn giáo khác.
Nói
đến tôn giáo khác, chúng ta nghĩ tới đạo Thiên Chúa,
đạo Hồi và Ấn Độ giáo, đó là những tôn giáo lớn, nhưng thời
gian thuyết giáo của các vị giáo chủ này ngắn ngủi. Chỉ
có Đức Phật Thích Ca thuyết giáo tương đối dài. Theo
Nam truyền Phật giáo, Đức Phật thuyết pháp 45 năm,
theo Bắc truyền Phật giáo Đức Phật thuyết pháp 49 năm. Điểm
lại, chúng ta thấy Phật nói rất nhiều pháp tu khác nhau, nhưng ngày
nay, phần lớn người chấp pháp thường chê pháp môn khác, dù
đó cũng là pháp của Phật.
Theo kinh
nghiệm của riêng tôi, điều quan trọng là chọn pháp thích
hợp để mình tu cho đạt được kết quả tốt đẹp. Những pháp
khác mà người ta chọn để tu, mình không nên chê; vì chấp vào một pháp nào đó mà
chê bai pháp khác là hiểu sai ý Phật.
Thật
vậy, Phật có vô số phương tiện giáo hóa độ sanh, tùy
vào hoàn cảnh, tùy vào địa điểm, tùy theo suy nghĩ khác
nhau, mà Phật thuyết pháp không giống nhau. Vì vậy, người
ta thường chia pháp Phật, mở rộng có đến 84.000 pháp tu để ứng vô
84.000 phiền não, trần lao của chúng sanh. Cho nên, pháp
Phật dùng để tẩy nghiệp chướng, trần lao của mọi người,
nhưng không hiểu tôn ý Như Lai mà lại chấp chặt vào
một pháp nào, cho là nhất, quả thật là sai lầm.
Có
thể nói pháp Phật được ví như thuốc chữa bệnh, thì bệnh lành, pháp
cũng phải xả. Ý này thường được diễn tả rằng qua sông cần thuyền, nhưng lên
mặt đất, không thể đi thuyền, phải đi bộ, hay đi xe, đi máy bay…
Vì tinh thần này, tất cả các pháp được Phật dạy khác nhau tùy chỗ,
tùy lúc, tùy nghiệp của chúng sanh… Và chính nhờ sự khác biệt của vô
số pháp Phật dạy mà đạo Phật đã tồn tại lâu dài và
phát triển khắp năm châu. Cốt lõi này nói tóm gọn là đạo
Phật bất biến, muôn đời không thay đổi, nhưng tùy duyên là ứng
vào địa điểm, vào nếp sống, nếp nghĩ của người dân bản địa mà có
thay đổi. Và tuy đạo Phật tùy duyên, tức thích
nghi với hoàn cảnh xã hội của từng vùng miền khác nhau,
nhưng vẫn luôn giữ vững yếu lý bất biến.
Khi Tổ
sư Minh Đăng Quang truyền đạo, Ngài chủ trương du tăng khất
sĩ theo truyền thống của đạo Phật. Du tăng không ở một
chỗ. Ban đầu Phật lập giáo khai tông đã quy
định rằng một Tỳ-kheo không ở dưới một gốc cây quá ba đêm và ôm
bình khất thực, không đi quá bảy nhà, tức từ tịnh xá đi ra,
ngang qua bảy nhà, nếu không ai cho, phải ôm bát về, không đi xin
nữa. Sau này, Tổ Minh Đăng Quang cũng quy định như vậy.
Thời
của Phật và thời của Tổ Minh Đăng Quang trong giai đoạn ban
đầu quy định như thế, nhưng về sau, lại khác. Thật vậy, vì ban
đầu Phật lập giáo khai tông, Tỳ-kheo không ở một chỗ cố định, nhưng
khi vua Tần Bà Sa La cúng thượng uyển, xây tịnh xá Trúc
Lâm, lúc đó một ngàn Tỳ-kheo dưới sự lãnh đạo của ba anh em Ca
Diếp trở về đây và Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên cũng
dẫn đại chúng về theo Phật, tổng cộng là 1.250 vị là số
Tỳ-kheo chính xác căn bản thời Phật tại thế đã
về Trúc Lâm ở. Vì vậy, Phật quy định Tỳ-kheo không
ở dưới gốc cây nữa, nhưng ở cốc nhỏ chỉ có một cửa duy
nhất hướng về Đức Phật và không có cửa hậu. Ngày nay, Phật
Niết-bàn, cốc của Tỳ-kheo hướng về chỗ thờ Phật.
Như
đã nói ban đầu Phật quy định Tỳ-kheo ngủ dưới gốc
cây không quá ba đêm, nhưng về tịnh xá Trúc Lâm, vua Tần Bà
Sa La phát nguyện cúng dường, nên các thầy phải ở yên trong cốc, nếu chưa hiểu
đạo phải ở một chỗ để được hướng dẫn và tu tập, là mục tiêu chính
của Tỳ-kheo. Như vậy, chúng ta thấy rõ Phật quy
định hiểu đạo mới cho đi khất thực. Nhưng ngày nay thì ngược
lại, người chưa hiểu đạo đi khất thực, người ta lại nghĩ rằng đó pháp
Phật. Hiểu như vậy hoàn toàn trái lời Phật dạy. Vì người
chưa thấu hiểu đạo sẽ dễ sanh phiền não, nghiệp
chướng, trần lao càng phát triển.
Thực
tế cho thấy người mới tu tập Phật pháp, nghiệp bắt đầu đổ ra, thứ nhất là
ốm đau, bệnh hoạn. Tôi phải mất mười năm, từ năm 1950 đến 1960, chịu
đựng nghiệp này. Nhưng Tỳ-kheo mang nghiệp thân đi khất thực, làm sao
người phát tâm. Một Tỳ-kheo ốm đau, bệnh hoạn, hôi dơ, xấu xí,
hung dữ mà chúng ta thường thấy qua hình ảnh những
người khất thực phi pháp ngày nay, gây phiền não thì không
được phép ra ngoài, vì người trông thấy sẽ chê trách, khinh ghét.
Riêng
tôi ý thức lời Phật dạy, nên gia tốc tu hành, siêng
năng đọc kinh, sám hối, thực hành Thiền quán. Tin Phật dạy ốm
bệnh là nghiệp, nên Tăng Ni trong ba tháng an
cư phải dụng công tu cho tiêu trừ nghiệp. Có một số bệnh mà
thuốc không chữa được, chỉ tu hành là chữa được. Thuở nhỏ, tôi bị bệnh tim bẩm
sinh, thời đó bác sĩ chưa có khả năng mổ tim. Tôi siêng năng
lạy sám hối, siêng năng tu tập, bệnh này tự nhiên khỏi. Lúc đó,
tôi mới mười mấy tuổi, chưa thể thuyết pháp, nhịp tim trên 100 một phút.
Tôi chỉ lạy Hồng danh sám hối, đọc thầm và nhịp tim giảm
xuống còn 70, 80 và gia tốc Thiền quán, nhịp tim hạ còn 50, 60 thì
nhịn đói dễ dàng. Nếu nhịp tim 70, 80, một ngày phải ăn một, hai lần, nhưng
nhịp tim hạ còn 50, 60 thì hai, ba ngày mới ăn một lần vẫn
khỏe bình thường. Thầy tu mà ăn đến bụng to thì tu khó.
Trên
bước đường tu, đầu tiên thực tập pháp Phật để điều
chỉnh thân nghiệp và tâm nghiệp của chúng ta. Đối với tôi, điều
này quan trọng cần phải thực tập. Khẩu nghiệp phá
dễ, cả đời không nói chuyện cũng không sao. Chỉ cần nói với Phật, nói
với người mất công sanh chuyện. Thân nghiệp dễ thấy, là ốm
đau, bệnh hoạn, nghèo đói, xấu xí… Thuở nhỏ, tôi ốm đau, bệnh
hoạn, tự biết thân nghiệp nặng, nên nỗ lực lạy Phật, đem
Phật vào tâm, lần lần tiêu được bệnh nghiệp. Tâm nghiệp là ham đủ thứ, ham ăn,
ham mặc, ham ngủ, ham tiền tài, ham công danh, lo sợ đủ thứ, tôi cũng có
nỗi sợ đó là sợ tụng kinh, nhưng tôi cố khắc phục tánh xấu này. Tập khắc phục
được nghiệp thì lần lần nghiệp giảm; còn mình chìu theo nghiệp, nghiệp sẽ tăng
lên.
Cắt
đứt nghiệp ham ngủ trước. Tỳ-kheo A Na Luật ham ngủ, bị Phật quở
trách. Ngài dứt khoát không ngủ đến mù mắt. Tôi không khuyên làm như
vậy, nhưng các thầy nên ngủ ít lại. Riêng tôi, phá nghiệp ham ngủ, hễ cứ ham muốn
ngủ thì tôi không cho phép mình ngủ, nhưng nếu mệt quá, thiếp đi thì
ngủ. Còn ham muốn ngủ thì cắt bằng cách lấy kinh đọc, nhưng buồn
ngủ đến mở mắt không ra, không thấy chữ, không đọc được thì đổi
qua lạy Phật. Vì danh hiệu Phật nhớ trong lòng, cứ đọc và lạy,
không cần mở mắt vẫn lạy Phật được.
Về
sau, trong giấc ngủ, tôi vẫn lạy Phật, vẫn tụng kinh, tôi mới
phát hiện ra Thiền thay cho ngủ, nghĩa là tâm mình lúc nào cũng
Thiền, cũng lạy Phật. Tôi nhớ nhiều ý kinh nhờ đọc
kinh nhiều. Vì vậy, cần phải nỗ lực khắc phục
nghiệp, nếu chỉ dành thì giờ cho cuộc sống vật
chất quá nhiều, chắc chắn không bao giờ tiêu
trừ được phiền não, trần lao, nghiệp chướng. Hãy kiểm lại
xem một ngày có mấy tiếng tu, mấy tiếng dành cho phiền não, nghiệp
chướng. Kiểm rõ như vậy rồi, chúng ta dứt lần phiền
não, nghiệp chướng, cho đến dành trọn 24 tiếng tu hành, tu trong
giấc ngủ, tu trong việc làm của chúng ta.
Chuyển
hóa thân nghiệp không phải một ngày một bữa mà làm được, phải có quá
trình thực tập. Giờ đến cắt nghiệp ham ăn. Vì ăn sung sướng quen, nên phải
cắt bớt từ từ. Ở ngoài đời, ăn thịt cá. Vô chùa, ăn rau. Tu cũng
phải tập ăn chay, một tháng ăn chay bốn ngày, sáu ngày, mười
ngày, cho đến ăn chay ba tháng vẫn khỏe mạnh mới cho cạo
tóc xuất gia ở chùa. Không phải đi tu là cạo tóc, đắp y, là
làm thầy liền. Tập khắc phục nghiệp để tướng Sa-môn hiện ra, mới
cho cạo tóc. Ngày nay, Giáo hội chúng ta quy
định phải làm công quả sáu tháng, ăn chay, dậy sớm, lao
động được, vì đạo Phật đào tạo người để cứu đời.
Theo kinh
nghiệm riêng tôi, người xuất gia còn ham ăn, ham ngủ, ham mặc đẹp, ít ai
muốn cúng dường họ. Trên bước đường tu, không nên lệ
thuộc thế gian, dứt khoát Sa-môn là như vậy. Tôi nhớ ngài Ca
Diếp xưa kia thường mặc đồ rách bỏ. Riêng tôi từng lượm quần áo tang
mà người xả tang bỏ và ngâm vỏ măng cụt để nhuộm màu lem luốc mặc, để đâu cũng không
ai thèm lấy. Còn có người bạn đồng tu được Phật tử may cho đồ tốt,
phơi đồ sợ mất, phải canh chừng hoài, phiền não lắm. Tôi sướng hơn huynh này.
Như vậy, có được hạnh của Sa-môn thì sung sướng thấy rõ.
Tiếp
đến thử thách tiếp theo là ham muốn tình cảm, sáu tháng ở chùa,
thầy trụ trì để ý xem Phật tử có xin về thăm nhà
không. Nếu có về thăm nhà, không cho xuất gia. Sau mười năm xuất gia,
tôi mới về nhà. Tôi nhớ Phật nói rằng Ngài đi tu, hẹn khi nào thành
đạo mới trở lại hoàng cung. Chưa thành đạo mà
có ý muốn về thăm nhà là đọa lạc, vì ở chùa, ba giờ phải thức
dậy, cực khổ. Ở nhà ngủ tới mấy giờ cũng được.
Ngoài
ra, người tu không lệ thuộc tình cảm. Nói cách nào nhỉ, người ta nghĩ
tôi vô tình nhất, ít khi thăm viếng ai, không lệ thuộc ai. Trên
bước đường tu, chúng ta không lệ thuộc miếng ăn, manh áo,
tình cảm, xã hội, mới giải thoát, thành tựu hạnh Sa-môn,
được Phật thọ ký và khiến Hộ pháp che chở chúng ta,
khiến chư Thiên đến cúng dường. Chúng ta thấy nhiều
vị tôn túc tu hành có được kết quả này, tức cuộc sống thực
tế các ngài không quan tâm đến ăn, mặc, ở, nhưng luôn đầy
đủ. Phật tử hiến cúng vì thành tựu hạnh Sa-môn và các ngài
ra xã hội, người thấy phát tâm kính lễ.
Hòa
thượng Từ Huệ cùng tông môn Thiên Thai với tôi, nhưng
khi thấy Tổ Minh Đăng Quang đi vào làng, không nói gì, Hòa
thượng liền buông tất cả việc, ôm bình đi theo Tổ. Điều này
khiến tôi nhớ lại câu chuyện Mã Thắng đi khất thực, Xá
Lợi Phất trông thấy liền đi theo đến với Phật.
Ngày xưa chứng quả Dự
lưu, chúng ta không biết thế nào, nhưng Phật dạy rằng không bị ham
muốn chi phối mới được Phật thừa nhận chúng ta là Sa-môn.
Còn buồn giận, lo sợ, ham muốn, dù mặc áo tu, nhưng là tu
sĩ giả. Người không được Phật công nhận là Dự lưu thì hở
chút buồn giận hết chuyện này đến chuyện khác. Như vậy, thân xuất gia,
nhưng tâm chưa vào đạo.
Thiết nghĩ bằng mọi cách, phải
đem tâm chúng ta vào đạo gọi là Dự lưu, tức phiền
não bên ngoài không quấy rầy chúng ta. Thứ hai là chúng
ta phá luôn nghiệp chướng. Nghiệp này là thân nghiệp ốm
đau, bệnh hoạn. Tu sao cho hết bệnh nghiệp, nếu không hết,
vẫn nỗ lực tu thì chết cũng về với Phật. Chuyển nghiệp lần lần là tu
và chuyển hết nghiệp thế tục, mới trở thành nghiệp Sa-môn là
thầy tu thực sự, là Dự lưu, thể hiện cuộc sống trong
đạo hoàn toàn an lạc, giải thoát. Phật giáo suy
đồi khi hiện hữu nhiều người xuất gia, nhưng tâm thế
tục. Vì vậy, nếu giữ đúng điều Phật dạy và thực tập miên mật,
từng bước sẽ có tiến bộ và phá trừ được phiền não, nghiệp
chướng, trần lao.
Ta biết rõ đã là nghiệp, nên nó đòi
hỏi trong cuộc sống tối thiểu ba việc là ăn, mặc, ở. Nhưng Phật dạy
người tu hạn chế tối đa ba việc này. Đừng để ba
nghiệp này mở rộng, ham muốn chỗ ở lớn hơn, ăn nhiều hơn, mặc nhiều
hơn chỉ chuốc lấy khổ mà thôi. Chúng ta hạn chế, thu hẹp ba việc này
để có cuộc sống an vui.
Tu
hành, muốn đạt quả Dự lưu, chí yếu nhất là người thấy ta mà có
thể phát tâm Bồ-đề muốn tu, cầu giải thoát. Khi tu cao hơn, các
vị Thánh có tầm nhìn rộng hơn đó là Chánh kiến do thực
tập Thiền quán mà sanh trí tuệ thấy được Túc
mạng của mình, nghĩa là biết con người thật của mình từ đâu đến
và khắc phục được nghiệp. Còn không biết, cứ muốn này muốn nọ thì phiền não nhân đây phát
sinh, nên càng tu càng đọa.
Thấy
được con người thật của mình, thấy được oan gia nghiệp
chướng của mình mới chuyển được nghiệp. Thấy nghiệp là sao. Thấy
người vô cớ phỉ báng mình là biết oan gia nghiệp
chướng mà mình đã tạo, quả đất tròn, trong kiếp luân hồi, gặp
lại. Ban đầu, quý vị chỉ thấy mang máng, sau thấy rõ, mới chuyển được
nghiệp. Chẳng hạn vô tịnh xá tu, mình không động chạm họ, nhưng họ
ghét và phá mình, phải biết đó là oan gia gặp lại. Nếu
không biết, không thấy nghiệp, cứ hỏi tại sao nó hại tôi. Phật nói tại đời
trước hại người, nay họ hại lại, rõ ràng rồi, nói gì nữa.
Theo
tôi, nếu đã tu, chúng ta tránh người không ưa mình, hạn chế đừng gặp
mặt họ. Tuy nhiên, vẫn gặp trong lòng, vì là nghiệp mà. Vì vậy, với
người có thiện duyên, ta tìm đến độ. Biết chỗ nên tới, chỗ nên tránh,
người nên gặp, người nên tránh. Là nghiệp thì phải giải quyết theo
cách đó, vì gặp lại, nghiệp sẽ tăng trưởng, trong khi ta chưa đủ
sức chuyển hóa. Thể hiện lý này, kinh Pháp hoa nói rằng
phải đợi đủ sức, ta đến độ, gọi là thệ nguyện an lạc.
Có
người nói Tổ Minh Đăng Quang trước khi thọ nạn, có nói với một thầy
là hôm nay ngài vào núi Lửa để thiền định và từ đó, ngài vắng
bóng luôn. Vì vậy, họ giải thích là ngài đi tìm gặp ông Năm
Lửa để trả túc nghiệp đời trước. Theo tôi, ngài trả túc
nghiệp và bị bắt cho đến khi ngài hoàn toàn vắng
bóng, nhưng ngài vẫn sống an lành trong thiền định.
Vì
vậy, tu hành, chúng ta cố khắc phục nghiệp, từng bước vượt
qua phiền não, nghiệp chướng, trần lao, buông bỏ được
sự chi phối của tình cảm, của xã hội, phá được sự đòi hỏi của
thân; đó là nghĩa giải thoát trong đạo và đạt được giải
thoát này, chúng ta không còn bị cuộc đời chi phối,
không còn chịu khổ đau.
Điều đặc
biệt là nơi tịnh xá này, Phật tử của tịnh
xá và Phật tử của đạo tràng Pháp Hoa tuy tu
pháp khác nhau, nhưng coi nhau là huynh đệ, tu chung với
nhau được. Đây là duyên lành đặc biệt để tôi đến đây thuyết
pháp, làm bạn với Hòa thượng trụ trì tịnh xá Ngọc Viên.
Cầu
mong Tăng Ni hữu duyên hôm nay an cư cố gắng nỗ
lực thực tập pháp Phật, rèn luyện cơ thể chịu
đựng được đói khát, nóng lạnh, vượt qua mọi ham
muốn, bực tức. Tuy còn ở thế gian, nhưng không bị cuộc đời chi
phối nhiều. Và từng bước đi sâu vào Thiền quán, trí
tuệ phát sinh, thấy việc đáng làm, thành tựu công đức như Phật
dạy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét