Lê Sỹ Minh Tùng
Washington - Mùa Phật Đản PL 2559, DL 2015
"LINH HỒN", "TÁI SINH" VÀ GIẢI THOÁT
1. Thế nào là “tái sinh”?
Theo tinh
thần Phật giáo Đại thừa, mỗi chúng sinh là sản phẩm của chính
mình, con người chúng ta hiện tại là sản phẩm do
chính chúng ta tạo nhân trong quá khứ và bây giờ chúng
ta đang tạo ra cuộc đời cho chính mình trong tương lai. Cuộc
sống là một quá trình liên tục chỉ tạm thời gián đoạn mỗi
khi thân xác vật lý biến đổi không còn phù hợp cho
việc tiếp tục tồn tại và dừng hoạt động, chúng
ta tạm thời rơi vào trạng thái không còn thân xác cho
đến khi có cơ hội kết hợp đủ các yếu tố cần
thiết thì một chu kỳ sống mới với thân xác mới lại bắt đầu. Tuy
nhiên khái niệm về sự “tái sinh” không phải là đặc thù
của Phật giáo Nguyên thủy. Từ xa xưa, trước khi Phật giáo ra đời, các tôn
giáo khác nhau cùng đưa ra các học thuyết chủ trương sự “đầu
thai” mà trong đó họ cho rằng một “linh hồn” có thể luân
chuyển trong nhiều thân xác khác nhau.
2. “Linh hồn” là gì? Linh hồn có bất
tử không?
"Linh hồn",
tiếng Hy Lạp là “Psyche”, nghĩa là sự sống, tinh thần, ý thức.
Socrates cho rằng linh hồn là tinh thể (Essence). Platon lý
luận rằng linh hồn bao gồm lý trí (Logos), tình
cảm (Thymos) và ái dục (Eros). Trong khi đó, Aristote định
nghĩa linh hồn là hoạt tính của một cơ thể sống và cho
rằng linh hồn sẽ mất đi khi cơ thể không còn nữa,
giống như hoạt tính của con dao là cắt, khi con dao bị hư hoại thì hoạt tính
cắt không còn nữa. Mỗi tôn giáo, mỗi tín ngưỡng có quan
niệm khác nhau về “linh hồn”, nhưng thông thường linh hồn thường
được hiểu là phần tinh anh, cái tinh thể, phần tinh
thần của con người. Xa hơn nữa, các tôn
giáo như Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo, Hồi Giáo đều
cho rằng linh hồn là phần thiêng liêng, bất diệt. Linh
hồn là do Thượng đế ban cho mỗi người như là sự sống. Nếu
một người biết thờ kính Thượng đế thì khi chết linh hồn đó
sẽ được về sống hạnh phúc đời đời trên Thiên đường. Ngược
lại, nếu làm ác, không tin vào Thượng đế thì linh hồn đó
khi chết chắc chắn sẽ bị đọa vào địa ngục để gánh chịu mọi
sự khổ đau.
Nói
chung, các tôn giáo hữu thần đều cho rằng có một linh
hồn bất tử trong con người. Nếu khi sống làm như lời Thần linh,
Đấng tạo hóa hoặc Chúa dạy, thì sau khi chết người ấy được cứu rỗi
lên Thiên đường hoặc ngược lại thì bị đày xuống Hoả ngục. Cái phần
phi vật chất được lên thiên đường hay xuống hoả ngục đó, họ
gọi là “linh hồn”.
Vào
thời Đức Phật còn tại thế, Bà la môn giáo (Ấn độ
giáo ngày nay) tin rằng có một linh hồn hay bản
ngã (Atman) (tiểu ngã) trường tồn. Đối với Ấn độ giáo,
cặp phạm trù cơ bản nhất là tiểu ngã (Atman) và đại
ngã (Brahman). Đại ngã là cái bản ngã vũ trụ,
cái tuyệt đối. Nếu nhìn dưới góc độ tôn giáo, đại
ngã là yếu tố thần linh được bao chứa và thấm
nhuần trong vạn vật. Còn tiểu ngã là cái bản
thể của mỗi con người. Ấn độ giáo cho rằng tiểu
ngã và đại ngã là nền tảng của vũ trụ quan, trong khi
đó thuyết nghiệp báo và luân hồi là nền tảng nhân
sinh quan. Thuyết luân hồi của Ấn độ giáo quan
niệm rằng cái chết của con ngưởi là sự chuyển hóa sang kiếp sống
khác, sự tái sinh trong luân hồi là do nghiệp
báo mà ra. Nói cách khác, bất cứ hành động nào của con
người cũng phải trả giá, nó toàn năng ngoài ý muốn con
người và nó theo đuổi con người không bao giờ lầm lẫn.
Sau cùng thuyết giải thoát cho rằng tuy rất khó, nhưng con
người có thể tránh khỏi luân hồi nghiệp báo bằng
cách nỗ lực gắng sức dập tắt động lực đẩy bánh
xe nghiệp báo thì có thể đi đến giải thoát. Và lúc đó tiểu
ngã sẽ hòa đồng vào đại ngã của vũ trụ. Tóm
lại, Bà la môn giáo cho rằng thờ phượng các Thượng
đế (đại ngã) cũng chính là thờ phượng tiểu ngã (Atman) của
mình cho nên tiểu ngã là linh hồn và đại
ngã (Thượng đế) (Brahman) là chúa tể các linh hồn đó.
Trong
khi Ấn Độ giáo (Bà la môn giáo) tuyệt đối tin vào
một linh hồn, một tiểu ngã thường hằng bất biến thì
sự xuất hiện của Đức Phật đã thổi một luồng sinh
khí mới vào trong xã hội Ấn độ lúc bấy giờ.
Thuyết Duyên Khởi của Đức Phật với chân lý “Vô
Ngã”, một trong ba pháp ấn (Vô thường, Vô ngã, Khổ)
của giáo lý Phật Đà, đã phủ định cái Ngã trong Ta của Bà la môn
giáo. Ấn Độ giáo càng phát triển vun bồi cho “tiểu ngã” bao nhiêu
thì giáo lý đạo Phật càng xa lìa, đánh đổ nó để trở
về với trạng thái không dính mắc mà có thanh tịnh tự
tại Niết bàn. Vì thế con đường giải thoát của đạo
Phật là phải phá chấp, trong thì phá chấp ngã, ngoài
thì phá chấp tướng, trong ngoài tự tại là có thanh
tịnh Niết bàn.
Tuy
vậy, Phật giáo Trung Hoa tin rằng sau khi chết thì linh
hồn sẽ bị Ngưu đầu Mã diện đưa về cõi âm. Sau khi được sự phán
xét của Diêm vương, linh hồn thiện đi đầu thai ở dương
thế còn linh hồn ác bị đọa đày đời đời trong hỏa
ngục. Do đó, người Trung Hoa quan niệm rằng “sinh ký tử quy” nghĩa là
“sống gửi, thác về” cho nên dương thế chỉ là cõi tạm trong khi cõi âm mới là cõi
sống thật sự do vậy mới có tập tục đốt giấy vàng bạc để cho linh
hồn ông bà tiêu xài ở cõi âm. Nhưng thử nghĩ lại đã ở trong hỏa
ngục thì làm sao tiêu xài?
Trải
qua ngàn năm sự cai trị thời phong kiến của Trung Hoa, chúng ta đã bị thâm
nhiễm quan niệm ấy và cùng quan niệm đó, vào thế kỷ thứ 18, thi
hào Nguyễn Du (Tố Như) có viết trong truyện Kiều như sau:
“…Rằng:
Những đấng tài hoa
Thác
là thể phách, còn là tinh anh”.
Phách
mà thi hào Nguyễn Du nói ở đây là thân tứ đại sẽ tan rã,
tiêu mất. Cái duy nhất còn lại của con người mà thi
hào gọi là “tinh anh” thì chính là “linh hồn” mà dân gian thường gọi..
Tuy
có rất nhiều học thuyết về Thượng đế, linh hồn,
nhưng Phật giáo phủ nhận tất cả. Phật giáo không
chấp nhận khái niệm về một linh hồn bất tử hay một bản
ngã trường tồn.
3. Phật giáo giải
thích hiện tượng “tái sinh” và “linh hồn” này thế nào?
Đức
Phật dạy rằng con người là sự tập hợp của hai thành
phần chính gọi là Danh và Sắc.
Danh là phần tư tưởng gồm có 4 hợp tố, đó là thọ, tưởng, hành và
thức. Sắc gồm có hai, đó là nội sắc và ngoại sắc, nhưng đại để là
sự kết hợp của đất, nước, gió, lửa. Theo quan
điểm của đạo Phật, mọi sự vật hiện tượng, trong đó có
cả con người, đều chịu sự chi phối của quy
luật biến dị, thay đổi của vũ trụ. Định luật đó gọi là Vô thường. Chính vì bản
chất của mọi sự vật hiện tượng là không thật, do các nhân duyên
hội tụ mà thành, nên chúng mới chịu sự chi phối của định
luật vô thường nầy. Thân (sắc) hay tâm (danh) của con
người cũng phải chịu sự chi phối, tác động này. Tất
cả mọi sự vật hiện tượng, dù là các ý niệm hay tư
tưởng đều luôn luôn thay đổi nên không có một cái gì gọi là
một linh hồn bất tử được. Do vậy, Phật giáo phủ nhận
những quan niệm về thuyết linh hồn bất tử vì
những quan niệm đó hoàn toàn không phù hợp với
“duyên sinh, duyên diệt” của sự thật mà Ngài đã giác ngộ ra. Thật ra
trên thế gian này không có cái gì gọi là trường tồn, bất
tử cả, bởi vì tất cả mọi sự vật đều sinh diệt vô thường. Cho dù
to lớn như những hành tinh, những dãy Thiên hà hay bé nhỏ như hạt bụi,
nguyên tử thì không có sự tồn tại vĩnh cửu. Vì sự tồn tại là
do nhân duyên cho nên mọi sự vật không có tự thể, không
có tự tánh nghĩa là tất cả đều là vô ngã, tức là không, là
trống rỗng. Nhân duyên tụ hội gọi là sinh, nhân duyên ly
tán, gọi là diệt thế thôi.
Không
những quy luật vô thường vận hành trong thế giới vật
chất hữu vi, mà ngay cả trong thế giới tư tưởng (tinh thần)
thì tất cả cũng đều sinh diệt vô thường cả. Nhân
sinh vũ trụ thay đổi từng giây, từng phút, từng sát na,
từng ý niệm. Ngày nào chúng ta còn trai trẻ tráng
kiện mà bây giờ lưng mõi, gối mòn, lưng còng má hóp, nhớ trước quên
sau, nếu không phải là vô thường thì còn là gì? Cái tâm
trước đâu có giống cái tâm sau cho nên tư tưởng liên tục sinh
diệt trong ta, thế không là vô thường thì là gì?
Vì
vậy khi đạo Phật ra đời, Đức Phật phủ nhận con
người là do Thượng đế sinh ra và phủ nhận luôn cả chủ
thuyết linh hồn (Soul) mà các quan niệm chấp ngã của con người tạo ra.
Ngay cả khái niệm về một linh hồn bất tử hay ngay cả
một bản ngã thường tại cũng bị Đức Phật phủ nhận. Sau khi
đắc tứ thiền, Đức Phật với Tuệ Minh Sát và trí
tuệ của bậc Chánh đẳng Chánh giác thấy biết như
thật rằng từ con người cho đến nhân sinh vũ
trụ tất cả đều là do nhân duyên, cái này có vì cái kia có, cái này
sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt, nhân này quả nọ mà tạo
thành chớ tuyệt đối không có ai là tác giả cả. Do
đó Đức Phật phủ nhận sự hiện hữu của Thượng
đế trong cuộc sống và dĩ nhiên không có Thượng đế thì
làm gì có ai cho ai linh hồn. Vì vậy, dựa theo các tôn giáo thần
quyền, linh hồn là một thực thể vĩnh hằng do Thượng
đế ban cho loài người cho nên linh hồn có thể chuyển
từ thân xác này sang thân xác khác hay từ cõi này sang cõi khác là phi thực tế
và thuộc về tà kiến. Đối với đạo Phật thì cái tâm còn không có thật
thì làm gì có linh hồn. Tâm nhà Phật gọi là Thức. Thức là cái nhận thức
cũng biến đổi liên tục dựa theo sự biến dạng tâm
lý và sinh lý của con người mỗi khi lục
căn tiếp xúc với lục trần. Thí dụ mắt thấy sắc, tai
nghe âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm mùi vị hay thân cảm
xúc hoặc ý duyên với pháp trần thì có biết bao tư
tưởng đưa vào tâm để cho ta cái nhận biết. Phật giáo dùng
chữ sát na để chỉ cho đơn vị thời gian và một sát
na xảy ra rất nhanh bởi vì mỗi một cái nháy mắt có thể có hàng
trăm sát na cũng như đơn vị nhỏ nhất để đo thời gian của nhân
loại ngày nay là giây. Trong sách Strangers to Ourselves:
Discovering the Adaptive Unconscious viết bởi giáo sư Timothy D.
Wilson trang 24 có dẫn chứng rằng: Cứ mỗi giây, năm giác
quan của con người là mắt thấy, mũi ngửi, tai nghe, miệng nếm và
thân cảm xúc tiếp nhận khoảng 11 triệu ý tưởng từ bên
ngoài đưa vào tâm. Trong 11 triệu ý tưởng đó thì mắt đã thâu nhận
trên 10 triệu ý tưởng để chuyển vào hệ thống trung ương não
bộ. Nhưng hệ thống thần kinh não bộ trong một giây chỉ có thể
phân tích 40 ý tưởng. Cho nên câu hỏi các nhà khoa học đặt ra là 10,999,
960 ý tưởng không được bộ óc phân tích kia sẽ đi về đâu và sẽ
có tác dụng hay ảnh hưởng đến tầng ý
thức của con người như thế nào? Do đó nhà tâm lý
học Sigmund Freud mới giới thiệu tảng băng tâm lý mà
trong đó ông ta lý luận rằng phần tiền ý thức (trí nhớ, và
lưu giữ kiến thức) và phần vô thức chiếm đa phần trong tâm tư
của con người. Vô thức luôn hối thúc, lấn áp ý
thức để con người có những tư tưởng, lời
nói hay hành vi không thể kiểm soát được.
Đức
Phật với tuệ minh sát, với trí tuệ của bậc Chánh
đẳng Chánh giác khi quán chiếu lại thân, tâm của mình và
của nhân loại thì Ngài thấy rằng chúng sinh không hề có tâm
mà chỉ có những sát na tư tưởng kết nối và kết nối lại với
nhau khiến chúng ta cảm giác như có tâm. Thí dụ ở sát na trước
mắt thấy sắc cho ta cái biết của sắc (nhãn thức), đến sát na sau
tai nghe âm thanh cho ta cái biết về âm thanh (nhĩ
thức)…Cái biết sau nối tiếp (thay thế) cái biết trước và cứ thế cái
biết liên tục sinh diệt tạo thành chuổi nhận thức chớ thật sự
không có một thức nào (hay một cái tâm nào) cố định cả. Cái tâm sau thay thế
cái tâm trước và cứ thế tâm luôn sinh diệt tuôn chảy trong tâm
hồn của chúng ta, vì thế Thức dựa theo Phật
giáo là kết nối của các dòng chảy liên tục của các ý niệm (sát
na tư tưởng). Vì sự ngộ nhận lầm lẫn cho rằng mình có tâm
cho nên họ mới nghĩ rằng trong ta phải có “cái Tôi”. Bây giờ không có tâm thì
làm gì có Tôi hay cái của Tôi, tức là hoàn toàn vô ngã. Thí dụ,
ban đêm nhìn ra xa lộ ở Hoa Kỳ, chúng ta thấy ánh sáng đèn chạy dài
như dòng sông uốn khúc. Nếu bây giờ lấy hết những chiếc xe kia đi thì
dòng sông ánh sáng đó sẽ không còn. Nói cách khác nếu không có những
ánh sáng từ những chiếc xe kết nối lại thì không bao giờ có ánh
đèn sáng dài đến thế. Cái tâm con người thì cũng thế, tuy
mỗi sát na tư tưởng rất nhanh, nhưng vì kết nối liên
tục những sát na tư tưởng đó thì chúng ta có một
chuổi nhận thức mà con người lầm lẫn cho là có tâm.
Trong kinh
Đại Duyên (Mahanidanasutta) của Trường
Bộ (Dighanikaya), Đức Phật hỏi Tôn giả A-nan rằng:
“Này
A-nan, nếu Thức không đi vào trong bụng mẹ thì danh sắc có
thể hình thành trong bụng mẹ được không?”
Tôn
giả A-nan đáp:
- “Bạch Thế
Tôn, không”.
Thức
dựa theo Phật giáo là dòng chảy liên tục của các ý
niệm. Các ý niệm này tùy thuộc nhiều yếu tố khác
mà phát sinh và Đức Phật gọi quá trình tùy thuộc phát sinh
nầy là “duyên khởi” và “thức” chỉ là một mắc xích trong 12 mắc
xích duyên khởi mà thôi. Chính sự tiếp nối của các ý
niệm tương tục nầy mà thức đi tái sanh, lên xuống trong 3
cõi 6 đường, chứ không phải là một linh hồn bất tử, vĩnh hằng cứ lên
thiên đàn hoặc xuống địa ngục như các tôn giáo hữu thần khác. Do
đó, khái niệm thức của Phật
giáo hoàn toàn khác biệt với "linh hồn bất tử" của
các tôn giáo khác.
Hãy
lắng nghe câu chuyện trong kinh Tỳ kheo Na Tiên như
sau :
Vua Di
Lan Đà bây giờ hỏi Tỳ kheo Na Tiên rằng :
-
Bạch Đại đức! Con người sau khi chết rồi, cái gì sanh trở lại?
Tỳ
kheo Na Tiên đáp :
-
Tâu Đại vương! Đó là Danh (thọ, tưởng, hành, thức) và Sắc (đất, nước, gió,
lửa…).
- Phải
chăng đó là Danh và Sắc-thân của người cũ sanh trở lại?
-
Thưa không phải Danh cũ, cũng không phải Sắc-thân cũ sanh trở lại. Cái
Danh và Sắc-thân của đời này làm các việc thiện ác, do
nghiệp thiện ác ấy mà chuyển sang một Danh và Sắc-thân khác
để thọ lãnh phước báo hay tội báo đã gây ra.
-
Như vậy là không phải cái Danh và Sắc-thân cũ sanh trở lại. Thế thì đời
này là điều ác, đời sau đâu có chịu quả báo được?
Và nếu không sanh trở lại nữa thì tức là đã giải thoát
khỏi luân hồi?
-
Không phải như vậy! Nếu sống ở đời mà chỉ toàn làm điều thiện thì sau khi
chết có thể không sanh trở lại. Nhưng thông thường thì làm
điều thiện cũng có mà gây điều ác cũng nhiều, việc lành, việc dữ tiếp
nối xen nhau không ngừng, cho nên phải sanh trở lại mà thọ
báo. Làm sao thoát khỏi luân hồi được.
-
Xin cho thí dụ về sự liên hệ giữa Danh và Sắc-thân cũ với
Danh Sắc-thân mới :
- Ví
như người hái trộm xoài của kẻ khác. Chủ vườn xoài bắt được quả
tang đem đến báo cáo với Đại vương, yêu cầu Đại vương xử
trị. Trước mặt Đại vương bị cáo cãi rằng : ”Tôi không hái
xoài của anh ấy. Cây xoài của anh ấy trồng hồi trước là cây mầm tí
xíu. Còn những trái xoài mà tôi hái bây giờ nằm trên một cành cây to lớn sum
sê. Thế thì tôi đâu có ăn trộm”. Trước những lý lẽ viện ra như thế, Đại
vương có cho rằng anh ta vô tội và xử cho anh ta được thắng
kiện không?
-
Không! Vua Di Lan Đà đáp. Anh ta có tội. Trẩm sẽ xử cho người trồng
xoài được thắng kiện. Vì trước kia nhờ người này ra công trồng trọt bón
xới cây mầm, cho nên ngày nay mới có cây xoài to lớn đơm hoa kết trái.
-
Tâu Đại vương! Con người tái sanh trở lại cũng giống như
thế. Với cái Danh và Sắc-thân này, người ta sống trên đời mà làm các việc
thiện ác. Nghiệp thiện ác nối tiếp không ngừng, chuyển
biến hình thành để sanh ra một Danh và Sắc-thân mới. Cũng như do công
phu đào lỗ bỏ hột và vun bón cây mầm nên về sau mới có cây xoài
sum sê cành lá với trái chín trĩu cây. Làm việc thiện ác trong
đời này tức là gieo hột giống xuống đất và bón xới cây mầm. Đời
sau chắc chắn sẽ thọ báo tương ứng.
Vua
lại hỏi :
-
Bạch Đại đức! Trong con người cái gì làm chủ? Phải chăng đó
là linh hồn thường tại?
-
Tâu Đại vương! Cái linh hồn thường tại ấy như thế nào?
-
Nó thường ở trong ta, dùng mắt mà nhìn hình tướng, dùng tai mà
nghe âm thanh, dùng mũi mà ngửi mùi, dùng lưỡi mà nếm vị, dùng thân mà sờ
mó cảm nhận, dùng ý mà hiểu biết và nhờ nghĩ. Nó cũng như Đại
đức và trẩm hiện đang ở trong cung điện này nhưng vì bốn mặt đều có cửa sổ,
nên ngang qua cửa sổ ấy chúng ta mới thấy được phong
cảnh bên ngoài.
-
Như vậy, ý Đại vương là muốn ví các giác quan nơi con
người với các cửa sổ của cung điện này chăng? Ngang qua bất cứ cửa sổ nào,
ta cũng thấy được cảnh vật bên ngoài. Thế thì ngang qua bất cứ giác
quan nào, linh hồn thường tại cũng phải thấy được ngoại
cảnh giống như thế chứ gì? Vậy linh hồn thường tại có thấy
được hình tướng chỉ bằng tai, hoặc mũi, lưỡi, thân và ý chăng?
-
Thưa không.
- Vậy
khi linh hồn thường tại đó thoát khỏi cơ thể có nghe được âm
thanh, có ngửi được mùi, có sờ biết nhám trơn, có suy nghĩ bằng mắt,
mũi, lưỡi, thân và ý chăng?
-
Thưa không.
-
Như vậy thì lời lẽ của Đại vương trước sau không xứng
hợp với nhau. Lại nữa, trong khi Đại vương và bần
tăng cùng ngồi trong cung điện này, nếu phá bỏ hết tất cả các cửa sổ ở bốn
phía thì tầm mắt của chúng ta rộng xa thêm ra không?
-
Thưa có.
-
Vậy, phá bỏ một cái cửa nơi thân ta là cặp mắt chẳng hạn thì linh
hồn thường tại có thấy rộng xa thêm không?
-
Thưa không.
-
Và nếu phá bỏ thêm mấy cái cửa khác nơi thân ta là tai, mũi, lưỡi, thân, ý
thì linh hồn thường tại có nhờ đó mà nghe rộng thêm, ngửi nhiều thêm,
nếm tăng lên, sờ nhiều ra và suy nghĩ rộng hơn không?
-
Thưa không.
-
Như vậy lời lẽ của Đại vương trước sau lại không xứng
hợp nhau.
Na
Tiên bèn giải thích rằng :
-
Con mắt và hình tướng gặp nhau khiến tâm thần kích
động. Tâm thần kích động thì liền sanh cảm thọ khổ vui. Với
lỗ tai và âm thanh, hoặc với mũi và hương, lưỡi và vị, thân và nhám trơn,
ý và điều nhớ nghĩ cũng như thế. Tâm thần kích động thì liền
sanh cảm thọ khổ vui. Do cảm thọ khổ vui liền sanh ý
niệm. Do ý niệm biến chuyển thành tựu cho nhau mà
tạo nên một ông chủ là cái Ngã. Cái gọi là linh
hồn thường tại đâu có dính dáng gì ở đây.
Nghiệp
lực là sức mạnh (năng lực, power, force) của nghiệp và là động
cơ chính khiến chúng sinh dính liền với sinh tử luân
hồi. Chính nghiệp lực đã chuyển Thức cuối cùng (tử tâm)
sang Thức (tái sinh) cùng với nhân duyên (điều kiện hội tụ) để tạo thành
sự sống cho một thai nhi. Nếu cho rằng những con người vừa
mới sinh ra là do sự sáng tạo của Thượng đế và không
có liên quan gì đến kiếp sống trước thì Phật giáo gọi đây
là đoạn kiến, là không đúng. Ngược lại, có quan niệm cho
rằng linh hồn từ kiếp trước đầu thai vào kiếp sống mới
thì đạo Phật gọi đây là thường kiến, cũng không đúng luôn. Dựa
theo tinh thần Phật giáo, sự hình thành của Danh và Sắc trong một
kiếp sống mới là kết quả của vô minh, tham ái và nghiệp dẫn
từ kiếp trước. Nói thế nghĩa là kiếp sống mới không phải là sự đầu
thai của kiếp sống cũ, nhưng nó chuyển tiếp từ kiếp sống cũ mà có. Ví như
khi một cây đèn cầy được mồi từ ngọn lửa của cây đèn thứ nhất. Ngọn lửa của cây
đèn cầy thứ hai bây giờ không phải là ngọn lửa của cây đèn cầy thứ nhất nữa, do
vì lửa được chuyển tiếp sang cây đèn cầy thứ hai, nếu không có cây đèn cầy thứ
nhất được thắp lên thì ngọn lửa sẽ không thể hiện hữu trên cây
đèn thứ hai. Thế thì hai cây đèn cầy hoàn toàn khác, kích thước khác
nhau, màu sắc khác nhau, ngọn lửa cũng khác nhau. Do đó, từ tướng diện, nhân
cách, tài năng…cho đến mọi sự khổ, vui trong đời này là phản
ảnh trực tiếp từ những nghiệp mà con người đã kiến
tạo từ kiếp trước, cho nên ví dụ hai ngọn lửa khác nhau
là thể hiện hai cuộc sống khác nhau của hai kiếp sống, nhưng cùng một
khởi nguồn từ ngọn lửa. Thí dụ tiền kiếp có người sống
trong giàu sang quyền quý, nhưng tham lam bỏn xẻn, ưa hãm
hại người (ngọn lửa cây đèn thứ nhất) nay sang đến kiếp này thì cuộc
sống trở thành nghèo đói và luôn bị người hãm hại lại (ngọn lửa
của cây đèn thứ hai).
4. Có ai chết rồi mà không sanh trở
lại không?
Nếu chúng
sinh còn nặng nợ tham dục ái ân, kẻ đó còn sanh trở
lại đời sau. Còn những ai đã thoát khỏi vòng tham đắm dục
tình thì người đó sẽ không còn tái sanh trở lại. Nói cách khác
còn tạo nghiệp là còn sinh tử, hết tạo nghiệp là thoát
ly sinh tử, chứng nhập Niết bàn tịch tĩnh.
5. Tại sao con người phải khổ?
Bất
cứ ai sinh ra trong thế gian này đều nghĩ rằng trong ta phải có một
cái linh thiêng, làm chủ mạng sống của mình và gọi đó là số mạng của “Ta”,
và cái Ta hình thành tức là bản Ngã. Từ đó những vật sở hữu của
họ thì gọi là “Cái Của Ta”. Khi cảm tính về “Cái Ta” hiện lên thì
tính ích kỷ, tính tư lợi hay là tự xem ta là trung
tâm (self-centered) cũng bắt đầu bùng phát. Ta thì lo ích kỷ cho
riêng ta, người thì lo ích kỷ cho người vì thế con
người bắt đầu tranh chấp, đố kỵ, hơn thua, lo bảo
vệ Cái Ta và những cái thuộc về Ta. Cảm tính về Cái Ta và Cái Của Ta được
xem là sự bám vúi, chấp thủ một khi sáu căn tiếp
xúc với sáu trần và nỗi khổ niềm đau cũng bắt đầu phát sinh từ
đó. Chính vì bám víu vào Cái Ta và Cái Của Ta, do chấp vào ngũ
uẩn nên sinh lòng tham, vì dục vọng luôn theo sát bên ta. Lòng
tham do tham sắc, tham do thọ uẩn, tham do tưởng uẩn thúc đẩy nên
mới có ý tưởng thực hành nghiệp. Và cũng từ đó gây ra bao
nhiêu đau khổ cho con người.
Ngã
chấp phát triển như thế nào?
Một
đứa bé mới sinh ra đời chưa có cảm tính về một “Cái Ta” riêng biệt
trong tâm thức của nó. Dần theo môi trường sống lớn lên, đứa bé
được cha mẹ, những người thân chung quanh nhét vào trong tâm
thức những ý niệm về Cái Của Ta. Đây là cha mẹ của
nó, thức ăn của nó, cái giường ngủ của nó, đồ chơi của nó, cái phòng
của nó, cái chén cái ly này là của nó, anh chị em của nó….Vì là của
nó nên nó phải bảo vệ giữ gìn Cái Của Nó từ đó tâm
thức bắt đầu phát triển những ý niệm ích kỷ hẹp hòi. Cái Ta
ấy mỗi ngày tiếp tục biến đổi và sinh
trưởng dưới tác động của những điều mà nó học hỏi mới
và các kinh nghiệm mới trong cuộc sống và trong tâm
thức của nó lúc nào cũng có Cái Ta mới khác hẳn với Cái Ta trước đó. Nói
chung Cái Ta thay đổi từ lúc còn bé thơ, dần đến trưởng thành và sau
cùng là đến lúc mạng chung. Mỗi thời điểm trong cuộc đời có một
Cái Ta khác biệt, nào là Cái Ta lúc còn đi học, Cái Ta bước vào ngưỡng cửa cuộc
đời, Cái Ta của những cặp nhân tình, Cái Ta của những đấng cha mẹ, Cái Ta
của những người lớn tuổi và cuối cùng Cái Ta của người sắp hấp hối.
Nói chung, Cái Ta đang tuần tự biến dạng trong kiếp sống này qua
những thể dạng khác nhau từ trẻ thơ, đến trưởng thành, rồi già
nua và sau cùng nhờ vào cái chết để trở thành Cái Ta của một đứa
bé khác dưới một cái tên gọi khác, vào trong một gia đình khác,
một dòng họ khác, một quê hương khác, một tôn giáo khác
và dĩ nhiên nó mang theo bao nhiêu kinh nghiệm, ký
ức, kiến thức từ kiếp trước dưới hình thức những
vết hằn ghi đậm trên dòng tri thức liên tục của nó.
Con
người cố bám víu vào Cái Ta và Cái Của Ta dưới đủ mọi hình
thức và họ quan niệm rằng Cái Ta chính là sự sống
trong cuộc đời. Nhưng trên thực tế, mỗi khi xảy ra sự nắm bắt
và bám víu vào bất cứ hiện tượng gì trên thế
gian từ vật chất đến tinh thần, kể cả những thứ tốt
đẹp nhất thì tức khắc nó sẽ sinh ra phiền não khổ đau.
Thí
dụ nếu xem thân xác này là Của Ta thì chắc chắn chúng
ta phải quý trọng và cưng chìu thân. Lo sợ khi thân mất. Nhưng
thân này thực sự nó là Của Ta chăng? Nếu nó là Của Ta thì Ta phải làm chủ nó.
Ta bảo nó đừng già, đừng bệnh, đừng chết…nó có nghe không? Nếu là Của Ta thì
tại sao Ta không mang nó theo khi chết mà tứ đại trở về với cát
bụi?
Tệ
hại hơn nữa, nếu bây giờ nghĩ rằng tâm thức là Của Ta thì tâm sẽ dấy
lên biết bao dục vọng để vun bồi cho Ta và những cái thuộc về Ta.
Đức
Phật sinh ra trong cung vàng điện ngọc nhưng Ngài thấy rằng những nỗi khổ
lúc nào cũng tiềm ẩn phía sau tuổi trẻ, sức
khỏe và đời sống của tất cả mọi chúng sinh. Nỗi khổ
là hiện tượng vô hình, nhưng nó lại tác động không kém gì
những nhát đao, những thanh kiếm xuyên suốt vào tâm của con người.
Cái đau đớn trong tâm hồn nhất thiết không thương sót
một ai. Người giàu sang phú quý cưu mang nỗi khổ của người
giàu, kẻ nghèo khó cũng phải gánh chịu những nỗi bất
hạnh đau đớn dành riêng cho họ. Ông hoàng bà chúa có những nỗi khổ
niềm đau theo lối vua chúa, ngược lại kẻ bần cùng cũng có cái đau cái đớn
chẳng khác gì. Nhưng tại sao chúng sinh lại phải khổ?
Trong
bộ Trường A Hàm (Dĩgha Nikàya) Đức Phật dạy rằng:
- Ái
dục bắt nguồn từ đâu và phát sanh ở đâu? Nơi nào có thỏa
thích và dục lạc, nơi đó có ái dục bắt nguồn và phát sanh.
Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp có thỏa thích và dục lạc.
Vậy ái dục bắt nguồn từ đó và phát sanh ở đó.
Con
người vì bị vô minh che lấp nên không nhìn thấy
biết đúng và từ đó ái dục có cơ hội phát sinh rồi chấp
thủ, khư khư bám chặt lấy “Cái Ta” và những cái gì gọi là “Cái Của Ta”.
Thí dụ bất cứ ai cũng có thể xây dựng một ngôi nhà, bằng
gỗ, bằng gạch hay bằng xi măng cốt sắt, nhưng Đức Phật dạy rằng loại
nhà ấy không phải thật sự là “Cái Của Ta mà chỉ là của ta trên danh nghĩa,
theo quy ước, trong khái niệm. Nó là một hiện tượng mà chúng
ta gọi cái nhà trong thế gian vậy thôi. Còn ngôi nhà thật sự
của chúng ta là trạng thái an tĩnh trong tâm
thức. Một cái nhà vật chất ở ngoại cảnh có thể thật đẹp,
nguy nga tráng lệ, nhưng nó chính là nguyên nhân tạo từ lo
âu này đến lo âu khác, băn khoăn tự lo nọ đến áy
náy buồn phiền kia. Vì nó ở ngoài ta tức là vật ngoại thân
nên sớm muộn gì rồi ta cũng phải bỏ lại cho nên càng bám
víu vào nó thì càng khó dứt bỏ tức là càng khổ đau thêm. Nó không phải là
nơi chốn mà ta có thể sống vĩnh viễn trong đó, bởi vì nó không
thật sự thuộc về ta mà là một phần của thế gian. Do đó ái
dục làm động cơ thúc đẩy con người đưa đến hành động
tạo nghiệp bất thiện bằng chính thân, khẩu hay ý của ta.
Chính ái dục, nằm trong phạm vi ảnh hưởng của vô
minh, sai khiến con người luyến ái, đeo níu, bám chặt vào đời
sống và lòng ham muốn khát khao ấy lôi cuốn con
người lặn hụp triền miên trôi nổi từ kiếp sống này đến kiếp
khác. Do đó có sống là có khổ.
Nói
chung khổ là trạng thái không thỏa mãn, bất toại
nguyện làm cho con người khó chịu. Hạnh
phúc mà con người đeo đuổi cũng không thể tồn tại vì
những điều kiện tạo duyên cho nó phát sinh luôn biến đổi vì
thế không có hạnh phúc nào thật sự vững bền cả. Những điều
mà chúng sinh mong muốn chỉ tồn tại nhất thời và những
đối tượng mà con người khao khát mong mỏi chẳng qua chỉ là
phù du tạm bợ, có đó rồi rồi mất đó chẳng khác nào như ôm giữ một cái bóng, như
nắm bắt một làn hương.
Nếu con
người biết huân tập nhiều hạt giống thiện thì
những chủng tử lành đó có công năng dẫn dắt họ tái
sinh vào những cảnh giới an lành để tiếp
tục hưởng những quả báo tốt đẹp. Ngược lại thì phải thọ
báo vào cảnh giới khổ não, đau thương. Nghiệp là hành động
lập đi lập lại nhiều lần rồi thành thói quen tức là tập khí.
Chính cái thói quen, hay tập khí này có sức mạnh phi
thường mà Phật giáo gọi là nghiệp lực để tùy
duyên, chiêu cảm đến môi trường thích hợp mà thọ
sinh. Tuy nhiên, đạo Phật là đạo chuyển nghiệp nghĩa là
trong quá khứ cho dù con người vì sống trong vô minh bất
giác tạo nên bao nhiêu tội nghiệp (nhân). Nhưng nếu bây giờ
biết thức tỉnh, dừng lại, tu tâm dưỡng tánh, tránh xa ác
nghiệp, tạo nhiều thiện nghiệp thì những ác nhân đó không
có cơ hội tác tạo với ác nghiệp để gây ra cảnh khổ cho mình. Nhân
(cause) mà không có duyên (conditions) thì tuyệt đối không bao
giờ thành quả (effect). Cũng như gạo (nhân) mà không có nước, không
nấu (duyên) thì không bao giờ thành cơm được (quả).
Ngày
nay con người thay vì cố tìm cách thay đổi cuộc sống
cho phù hợp với đạo đức nhân bản thì họ nhắm mắt đi
tìm phước báo. Giáo lý của Đức Phật rất ngắn gọn, đó
là nên tránh xa các việc ác và cố gắng làm các việc lành. Khi
đã thành tựu rồi thì cố gắng giữ gìn tâm ý cho
được thanh tịnh là có giải thoát. Nhưng đa
số người tu Phật cừ lờ đi, tuy họ cũng làm việc
thiện mà không muốn buông bỏ những thói quen xấu của
mình. Do đó đi tìm phước báo mà không buông bỏ tánh ác thì
không bao giờ có. Tất cả hành vi thiện, ác đều do từ thân, khẩu, ý mà
ra cho nên đó là nơi mà bạn phải nhìn lại mình mà nhà Phật gọi là “Phản
quang tự kỷ”.
Nhìn
lại để thấy biết thực hành thân, khẩu, ý thế nào mà có an
lành, hạnh phúc. Ngược lại, cũng nhìn lại để thấy biết thực
hành thân, khẩu, ý như thế nào mà phải gánh chịu phiền não, khổ
đau. Chúng ta hằng ngày cố gắng cực nhọc lo lau sạch
nhà cửa, xe cộ, chén bát nhưng lại quên không nhìn lại sự dơ
bẩn trong tâm của mình. Bởi vì không nhìn lại chính mình, con
người mới có thể làm đủ điều xấu. Tuy bạn có lương lẹo, gian
xảo đến đâu thì không bao giờ bạn có thể đánh lừa lương
tâm của mình được. Vì thế nếu biết nhìn vào chính mình thì bạn sẽ
biết phân biệt thiện, ác rất rõ ràng. Nếu bạn sắp làm một việc
ác, bạn nhìn vào chính mình đúng lúc thì bạn có thể dừng lại. Vì tâm
luôn hướng ngoại nên tâm chứa đầy tham vọng và ảo tưởng,
nhưng bây giờ nếu nhìn vào bên trong, nhìn lại chính mình thì bạn sẽ thấy rất
rõ điều thiện và điều ác. Thấy điều thiện nhắc nhở chúng ta cố
gắng nỗ lực tiếp tục và tăng trưởng thực
hành điều thiện. Làm điều thiện và buông bỏ điều ác là
có phước báo ngay. Đức Phật dạy rằng: “ Chúng
sinh nếu muốn vun bồi phước báo của mình cho được viên
mãn thì hãy lánh xa điều ác” nghĩa là nếu mình không làm
điều ác thì tất cả việc làm bây giờ đều trở thành thiện hết
mà không cần phân biệt thiện, ác gì cả. Ngược lại tuy có làm vài điều
thiện, nhưng vẫn còn làm điều ác thì vẫn còn lo lắng, ưu bi, khổ
não triền miên. Do đó, nếu tâm của chúng ta thiện lành
và đức hạnh thì đây là hạnh phúc trong đời này vậy.
Đối với con người hạnh phúc là diễn tiến theo ý
muốn của họ, là khi mà mọi người trên thế giới chỉ nói
những lời tốt đẹp đối với họ, nhưng nếu thực sự đây là hạnh
phúc mà bạn mong muốn thì chính bạn đã xây lâu đài trên cát. Không những
người ngoài làm chúng ta bực bội mà ngay cả những
người thân yêu quanh chúng ta đôi khi cũng làm
cho chúng ta buồn phiền, ưu bi, khổ não. Thậm chí,
chính chúng ta cũng làm cho chúng ta buồn bực, không
vui. Vì vậy, nếu bạn biết nhìn lại chính mình để buông bỏ điều
ác thì chính mình sẽ có hạnh phúc bởi vì tâm lành thì không
có lo âu, phiền não. Khi tâm thanh thản, bạn nở một nụ cười.
Ngược lại tâm rối ren, lo lắng thì lòng bực dọc, mặt khô cằn,
hung hăng, tức giận.
Tôn
chỉ của đạo Phật là giúp chúng sinh giải thoát ra
khỏi mọi hệ lụy của phiền não khổ đau để có cuộc sống an
vui tự tại mà muốn đạt đến cứu cánh này thì chúng
sinh phải biết buông xả. Vì thế trong Kinh Trung A
Hàm (Majjhima Nikaya), Đức Phật đã tóm gọn cốt
lõi của đạo Phật trong một câu thật ngắn gọn cho những ai muốn
đi trên con đường giải thoát giác ngộ, đó là”Không
được bám víu vào bất cứ gì cả” mà Kinh Kim Cang gọi
là “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” nghĩa là một khi
mắt, tai, mũi, lưởi, thân và ý tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp mà tâm không bám víu, chấp
thủ.
Cùng ý
niệm đó, trong kinh Bahiya Sutta, Đức Phật giảng giải cho
một đệ tử tên là Bahiya về sự bám víu, chấp thủ một
khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần như sau:
"Này
Bahiya,
Khi
nhìn thấy một hình tướng, thì đấy chỉ là cách trông thấy.
Khi
nghe thấy một âm thanh, thì đấy chỉ là cách nghe thấy.
Khi
ngửi thấy một mùi, thì đấy chỉ là cách ngửi thấy.
Khi
nếm thấy một vị, thì đấy chỉ là cách nếm thấy.
Khi
xảy ra một sự cảm nhận trên thân xác, thì đấy cũng chỉ là một sự cảm nhận.
Và
mỗi khi có một tư duy hiện ra, thì đấy cũng chỉ là một hiện
tượng tự nhiên hiện ra trong tâm thức.
Đấy
là cách không có cái ngã.
Đấy
là sự chấm dứt của dukkha (khổ đau). Đấy là nibbâna (niết-bàn).
Bài
kinh trên tuy ngắn gọn, nhưng rất quan trọng. Vậy hãy nghiệm xem Đức
Phật muốn dạy chúng ta những gì?
1) Khi
mắt nhìn thấy hình tướng nào đó thì chỉ cần biết là mắt
thấy hình tướng là đủ, đừng cho rằng mắt Ta thấy hình
tướng đó thì sẽ vắng bóng Cái Ta và Cái Của Ta trong tâm
thức. Tại sao? Thí dụ nếu mắt thấy chiếc xe thì chỉ là chiếc xe thôi
cũng như mắt thấy trăm ngàn vật thể khác cho nên cái thấy đó không có dính mắc,
cái thấy dững dưng không có gì quan trọng. Đó là thấy mà cũng như
không thấy nên tâm không dao động. Ngược lại nếu cho là mắt Ta
thấy chiếc xe thì cái thấy bây giờ là mình thấy, mình đem hình bóng chiếc xe đó
vào tâm mình rồi ái dục phát sinh, lòng tham đắm nỗi dậy và nỗi khổ
niềm đau cũng từ đó phát sinh. Nếu cố gắng làm đêm làm ngày để có
tiền mua chiếc xe giống vậy thì quá khổ, còn muốn mà không được thì
quá khổ tâm.
2) Khi
tai nghe tiếng nhạc thì biết là tai đang nghe nhạc. Đừng cộng
thêm ngã chấp vào mà nghĩ rằng tai Ta đang nghe nhạc.
3) Khi
mũi ngửi mùi hương thì biết mũi đang ngửi mùi hương thế thôi.
4) Khi
lưỡi nếm vị ngọt thì biết lưỡi đang nếm vị ngọt là đủ.
5) Khi
thân đụng phải vật cứng hay mềm thì biết thân đang đụng vật cứng hay
mềm chớ đừng cho rằng thân Ta đang đụng vật cứng hay mềm.
6) Cuối
cùng khi có một tư tưởng hiện ra trong tâm
thức thì biết có tư tưởng đang hiện ra trong tâm
thức là đủ.
Thí
dụ khi muốn làm một việc (thiện) gì cho người khác thì chỉ lo làm
cho hoàn tất, tạo niềm vui cho kẻ khác là đủ thì tâm tự tại. Ngược
lại, nếu cho rằng chính Ta làm việc đó thì trong tâm sẽ đặt ra vô
số điều kiện tức là tâm còn dính mắc. Nào là muốn người trả ơn,
nào là muốn người khác khen tặng, chụp hình, đăng báo thì phiền
não tức thì phát sinh, không còn tự tại. Đây là sự khác biệt
giữa việc làm vô ngã vị tha (vì người mà làm) và bản
ngã tư lợi (mua bán, kinh doanh).
Nếu con
người biết tư duy quán chiếu và thực hành đúng
những lời dạy của Đức Phật ở trên thì trong họ cái tự Ngã dần
dần bị tiêu diệt và những cảm tính về “Cái Ta” và “Cái Của Ta”
cũng không còn. Đây là con đường thoát khổ, giải thoát tự
tại Niết bàn tức là:
“Đối
cảnh vô tâm mạc vấn thiền” rồi vậy.
Vì
vậy nếu con người sống trong chánh niệm tĩnh thức,
không chạy theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì những cảm tính
về “Cái Ta” và “Cái Của Ta” sẽ biến mất và đúng vào thời điểm đó không còn hình
bóng của khổ đau và dĩ nhiên Niết bàn thanh tịnh sẽ hiện
bày.
Thế
thì đắc đạo rồi có còn đau khổ không?
Trở
lại với kinh Na Tiên Tỳ Kheo:
Vua Di
Lan Đà hỏi:
- Bạch Đại đức, bậc tu hành đắc đạo không còn tái
sanh trong đời sau, nhưng trong đời nầy có còn thấy
mình đau khổ nữa không?
- Tâu Đại vương, tùy từng việc một. Có việc còn thấy đau khổ, có việc
không.
- Có việc có, có việc không, là như thế nào?
- Đau
khổ của thân thì còn, đau khổ của tâm thì hết.
- Vì sao vậy?
- Sở
dĩ thân còn đau khổ là vì nhân duyên sinh ra
loại đau khổ nầy là thân, hễ nhân duyên ấy còn tồn
tại thì đau khổ của thân còn. Sở dĩ tâm hết đau
khổ là vì nhân duyên sinh ra loại đau khổ thứ hai là
lòng tham dục, một khi tâm ý đã dứt trừ hết các điều dữ, tham
dục không còn nữa, thì đau khổ của tâm hết.
- Bậc tu hành đã đắc đạo rồi mà không khiến thân lìa được khổ
đau, như thế là chưa chứng đắc Niết Bàn chăng? Đắc
đạo rồi mà thân còn đau khổ thì làm sao gọi là đắc đạo? Còn nán
ở lại trần thế làm gì để còn chịu khổ đau?
- Tâu Đại vương, bậc đắc đạo không chuộng mà cũng không ghét,
không tìm cầu mà cũng không xua đuổi. Bình thản mà sống giữa cõi đời nầy,
không hấp tấp, không vội vả. Ví như chuối non không cần
phải vú ép. Lại cũng không cần chờ chuối chín để chực hái. Vì
vậy nên đức Xá Lợi Phất xưa có dạy rằng:
Không
cần tịch diệt,
Cũng
không cần trường sanh.
Chưa
phải lúc thì ở,
Thời
đến thì ra đi.
Vua
nói:
- Hay thay! Hay thay!
----- Hết -----
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét