Đại Lãn
Bát chánh đạo là hành pháp thứ bảy trong ba mươi bảy phẩm trợ
đạo. Hành pháp Bát chánh đạo là pháp môn thật tiễn đại biểu đặc trưng tối quan
trọng cho những lời dạy của đức Đạo sư trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Vì pháp
môn này là một phương pháp chính xác để hành giả hướng đến Niết-bàn giải thoát,
là một con đường ngắn nhất đưa hành giả đến chỗ an vui tịch tĩnh, là con đường
được Đạo sư nói ra lần đầu tiên sau khi Ngài thành Đạo tại vườn Nai cho năm anh
em Kiều Trần Như bạn tu của Ngài trước đó để tránh xa hai thái độ sống cực đoan
giữa đau khổ (khổ hạnh) và, khoái lạc (hạnh phúc) đưa hành giả đến con đường
Trung đạo không vướng mắc hai bên.
Bát chánh đạo tiếng Phạn gọi là āryāṣṭāṅgika-mārga, là con đường
chánh pháp có tám chi phần đưa đến Niết-bàn giải thoát, còn gọi là Bát Thánh
đạo, Bát chi chánh đạo, Bát Thánh đạo phần, Bát đạo hành, Bát trực hành, Bát
chánh, Bát đạo, Bát chi, Bát pháp, hay Bát lộ.
- Chánh kiến (pāli:sammàditthi): thấy
đúng.
- Chánh tư duy (pāli: sammàsankappa): suy
nghĩ đúng.
- Chánh ngữ (pāli: sammàvàca): nói đúng.
- Chánh nghiệp (pāli: samm kammata): làm
việc đúng.
- Chánh mạng (pāli: sammààjiva): sống
đúng.
- Chánh tinh tấn (pāli: sammààyàma): siêng
năng đúng.
- Chánh niệm (pāli: sammà satti): nhớ
đúng.
- Chánh định (pāli: sammà samàdhi): tập trung
đúng.
1. Chánh kiến, còn gọi là chánh đế, tức thấy khổ là khổ, tập là tập, diệt là
diệt, đạo là đạo, có nghiệp thiện ác, có nghiệp báo thiện ác, có đời này đời
kia, có cha mẹ, có người chơn đến nơi thiện, bỏ thiện hướng thiện, nơi đời này,
đời kia, tự giác tự chứng thành tựu. "Khi nào vị Thánh đệ tử biết
già chết, tập khởi của già chết, đoạn diệt của già chết và con đường đưa đến
đoạn diệt già chết, này chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử có chánh kiến...” (kinh
Chánh tri kiến, Trung bộ I, p. 49, HT.Minh Châu dịch) hay "Khi một vị
Thánh đệ tử biết được bất thiện và biết được căn bản của bất thiện, biết được
thiện và căn bản của thiện, này chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử có chánh kiến,
có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này".
(kinh Chánh tri kiến, Trung Bộ I, tr. 47). Đó chính là sự thành tựu của nhân
quả thế gian và xuất thế gian qua như thật tri kiến một cách rõ ràng về sự hiện
hữu và biến dịch của chúng theo duyên khởi mà hành giả có thể tư duy và nhận
chân được tánh và tướng của tất cả mọi pháp trên thế gian này, đâu là pháp hữu
lậu, đâu là pháp vô lậu. Đó gọi là chánh kiến.
Chánh kiến là chi đầu trong tám chi Bát chánh đạo thuộc vào phần
tuệ học của Tam vô lậu học nhằm trang bị cho một sự nhận thức đúng về lối nhìn
duyên khởi đối với mọi sự vật, không rơi vào cái nhìn méo mó sai lệch giữa có
và không, giữa thường và đoạn của lối nhìn tà kiến, mà lúc nào cũng phải giữ
một cái nhìn khách quan không thiên lệch bên này hay bên kia để vượt qua khỏi
mọi vướng mắc hữu lậu đạt chánh kiến vô lậu giải thoát như trong kinh Đại Tứ
Thập, Trung bộ III. tr. 207 “Phàm cái gì thuộc tuệ căn, tuệ lực, trạch
pháp giác chi, chánh kiến, đạo chi của một vị thành thục Thánh đạo A-la-hán, có
vô lậu tâm, chánh kiến như vậy là chánh kiến vô lậu, siêu thế.”
Lối nhìn này được mệnh danh là kiến giải trung đạo, vượt qua
khỏi tà kiến chấp có chấp không của thế gian. Nói chung hành giả xa lìa từ bỏ
năm loại kiến giải không chánh kiến này: Một là tự chấp cho rằng thân này có
ngã nó luôn tồn tại không mất, đó gọi là thân kiến hay ngã kiến. Hai là cực
đoan chấp dính kiến giải một bên, như sau khi chúng ta mất sẽ tồn tại không
mất, đó gọi là thường kiến hay hũu kiến đối lập lại với quan niệm sau khi ta
mất sẽ không còn nữa, đó gọi là đoạn kiến hay vô kiến. Hai quan điểm có-không
này mà chúng ta chấp vào một trong hai thì gọi là biên kiến. Ba là chấp nhận
kiến giải cho rằng không có đạo lý nhân quả trên đời này, đó gọi là tà kiến.
Bốn là chấp dính vào những kiến giải sai lầm cho là đúng đắn chân thật, đó gọi là
kiến thủ kiến. Năm là cho rằng những giới luật cấm chế sai lầm không đưa đến
con đường giải thoát của ngoại đạo mà cho rằng thực hành chúng sẽ đưa đến
Niết-bàn giải thoát, đó gọi là giới cấm thủ kiến.
Nếu hành giả xa lìa không sống theo năm thứ kiến giải sai lầm
lệch lạ này, mà thấy biết được một cách chắc chắn rằng: “Biết được
chánh kiến là chánh kiến, tà kiến là tà kiến. Biết được chánh ngữ và tà ngữ.
Biết được chánh nghiệp và tà nghiệp. Biết được chánh mạng và tà mạng. Biết được
chánh tinh tấn và tà tinh tấn. Biết được chánh niệm và tà niệm. Biết được chánh
định và tà định.” (kinh Đại Tứ Thập, Trung Bộ III, tr. 206 - 208 bản
dịch của HT.Minh Châu) thì đó gọi là thấy biết nhận thức một cách chân chánh
của hành giả về lối nhìn đưa đến con đường trung đạo giải thoát trong thực hành
của hành giả.
Chánh kiến, theo Đại Tỳ-bà-sa luận 97 thì chánh kiến được phân
ra là hai loại:
- Một hữu lậu chánh kiến hay còn gọi là thế tục chánh kiến, tức
chỉ cho ý thức luôn luôn tương ưng với thiện huệ hữu lậu, vì chúng quan hệ với
chấp thủ của hữu lậu nên phải chuyển hướng về đường thiện chiêu cảm quả dục
đáng vui của đời vị lai.
- Hai là vô lậu chánh kiến, còn gọi là xuất thế gian chánh kiến,
tức chỉ cho trí vô sinh hoàn toàn không còn nhiếp giữ ý thức tương ưng với thiện
huệ hữu lậu nữa, mà nó vượt qua khỏi chấp thủ về thiện hữu lậu chánh
kiến.
2. Chánh tư duy, còn gọi là chánh chí, chánh phân biệt, chánh giác hay đế niệm,
tức là không có dục giác, nhuế giác và, hại giác, là chi thứ hai trong Bát
chánh đạo, tức là hành giả phải tư duy suy nghĩ về đạo lý chân thật để xa lìa
tham dục, sân nhuế, hại niệm thuộc những cách tư duy tà vạy thiếu chính xác đưa
hành giả đến con đường nuôi lớn tham, sân, si tạo nghiệp ba đường dữ trói buộc
trong sinh tử luân hồi. Ngược lại hành giả phải luôn luôn tư duy suy nghĩ về
con đường giải thoát vô tham, vô sân, vô hại bằng cách không tư duy suy nghĩ
đến chúng.
Cũng như chánh kiến chánh tư duy có hai cách Chánh tư duy hữu
lậu và, Chánh tư duy vô lậu:
- Hành giả cần phải áp dụng cách tư duy suy nghĩ để một mặt huân
tập báo nghiệp thiện cho ý về vô tham, vô sân, vô hại và, mặt khác thực hành
những điều hành giả đã tư duy về các pháp thiện lợi mình lợi người (tạo nhân
tái sinh) của ba nghiệp thân, khẩu và, ý qua thể hiện thiện nhân đưa đến quả
sinh y thiện theo nhân quả hữu lậu. Đó gọi là tư duy hữu lậu.
- Hành giả tư duy với tâm vô lậu, tâm Thánh thì, sự tư duy đó
được gọi là Chánh tư duy vô lậu, ngược lại với tâm hữu lậu tư duy qua pháp vô
tham, vô sân, vô hại.
3. Chánh ngữ, còn gọi là chánh ngôn, đế ngữ, là chi thứ ba trong Bát chánh
đạo, nghĩa là xa lìa lời nói hư dối, hai lưỡi, ác khẩu, thêu dệt. Vì những lời
nói này câu hữu với vô minh sẽ đưa hành giả vào ba đường ác, ngược lại là những
lời nói chân thật, lời nói hòa hợp lợi mình lợi người, lời nói nhẹ nhàng không
thô ác nặng nề, lời nói không thêu dệt phù phiếm, câu hữu với phước báo an vui
hạnh phúc. Nói chung những lời nói nào mang lại lợi cho mình và có lợi cho mọi
người, chúng tạo nhân hướng thiện làm phước báo sinh y cho hành giả trong tương
lai thì đó gọi là chánh ngữ. Trong kinh Đại Bát Niết-bàn trước khi đức Phật
nhập diệt, có đệ tử hỏi:
Bạch Thế tôn, sau khi Phật nhập Niết-bàn rồi, người đời sau gặp
nhiều sách vở ngoại đạo với kinh Phật không làm sao phân biệt. Vậy biết tin
theo lời nào để tu? Phật bảo, không luận là lời nói của ai miễn là lời ấy đúng
sự thật, hợp chân lý thì cứ tin theo đó mà tu. Đó là chúng ta nói đến phước báo
hữu lậu của chánh ngữ, ngoài ra nếu hành giả từ bỏ bốn cách nói trên vượt qua
luật nhân quả và, câu hữu với vô tâm trong lời nói, thì những lời nói này thuộc
chánh ngữ vô lậu.
4. Chánh nghiệp, còn gọi là chánh hành, đế hành, là chi thứ tư trong Bát chánh
đạo, chỉ cho hành động, tạo tác chân chánh (tác nhân thiện nghiệp), tức chỉ
thân, khẩu, ý ba nghiệp thanh tịnh; tức xa lìa sát sinh, không cho mà lấy, tà
dâm, nói dối … nói chung là hành giả sống từ ý nghĩ, tạo tác hành động, lời nói
luôn xa lìa mọi thứ tà vọng thì, gọi đó là chánh nghiệp.
Theo kinh Bát chánh đạo thì, không thấy như thật, không tư duy
như thật, không nói như thật, đời sống không như thật, tinh cần không như thật,
hành động không như thật, ý nhớ không như thật, tập trung không như thật gọi là
bát đạo tà hành, ngược lại tám điều tà hành này thì gọi là chánh hành, hay
chánh nghiệp. Hành giả tạo nhân nghiệp thiện hữu lậu cho phước báo sinh y trong
tương lai thì, đó gọi là chánh nghiệp hữu lậu.
Theo Du Già Sư
Địa luận 64 thì, có ba loại chánh nghiệp (hành) là: Chánh hành đối với Phật bảo,
hành giả nên cúng dường thừa sự. Chánh hành đối với Pháp bảo, hành giả nên lấy
Du-già làm phương tiện tu tập. Chánh hành đối Tăng bảo, hành giả nên tu tập
cùng thọ tài-pháp thí. Theo Đại thừa Trang nghiêm luận 12 thì, dùng sáu Ba-la-mật:
Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ (Bát-nhã) làm chánh
hành. Theo Biện trung biên luận quyển hạ thì, lấy mười Ba-la-mật làm hành tướng
mà phân biệt thành sáu loại chánh hành: Tối thắng, tác ý, tùy pháp, ly nhị
biên, sai biệt, vô sai biệt làm chánh hành. Theo Pháp hoa huyền tán 8 thì, lấy
việc thọ trì phẩm Pháp sư trong kinh Pháp Hoa 4 như: Độc, tụng, giảng nói, viết
kinh và, cúng dường là chánh nghiệp của sáu loại pháp sư.
Theo Tịnh độ tông thì cũng lấy việc độc tụng, quán sát, lễ bái,
xưng danh và, tán thán cúng dường đức Phật Di Đà là năm chánh hành của hành giả
tu theo Tịnh độ và, theo Mật giáo thì đối với những hành nghiệp tu tập sau
những gia hành đều gọi là chánh nghiệp. Nói chung tất cả mọi hành động của
chúng ta từ lời nói đến việc làm và trong ý nghĩ chúng câu hữu với nhân quả
thiện đưa đến giải thoát thì đều gọi là chánh nghiệp thuộc hữu lậu hay là vô
lậu cả.
5. Chánh mạng, còn gọi là đế thọ, chánh mạng đạo chi, là chi thứ năm trong
Bát chánh đạo, là chỉ cho cách sống của hành giả, phương pháp sinh nhai hằng
ngày mang lại cơm no áo ấm, thuốc thang, và những nhu cầu cần cho cuộc sống
trong gia đình. Là hành giả tu tập theo chính pháp của Phật thì trước hết phải
thanh tịnh hóa ý nghiệp trong từng ý nghĩ bằng cách không nghĩ đến những điều
ác hại mình hại người, mà phải có những ý nghĩ đem lại lợi ích vui vẻ cho chính
mình và cho mọi người chung quanh gần nhất là những người thân trong gia đình
và, xa hơn nữa là xã hội; kế đến là thanh tịnh thân, khẩu nghiệp của mình bằng
vào những công việc làm và những lời nói trong công việc khi giao thiệp; hành
giả phải tránh xa mọi công việc làm đưa đến hại mình, hại người như học nghề
chú thuật, bói toán … lường gạt kẻ khác, mà ngược lại hành giả phải sống đúng
với chính pháp nghĩa là chúng ta phải lựa chọn những nghề nghiệp nào mang lại
mọi lợi ích an vui cho mình cho người thì chúng ta chọn nghề đó để sống. Đó gọi
là nghề nghiệp sinh sống chánh đáng của một hành giả thực hành chính pháp của
đức Phật.
6. Chánh tinh tấn, còn gọi là chánh phương tiện, chánh trị, đế pháp, đế trị, là
chi thứ sáu trong Bát chánh đạo, chỉ cho mọi sự nỗ lực siêng năng tinh cần
trong bốn việc mà hành giả cần phải hạ quyết tâm phát nguyện trong lúc tu tập
để thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu, ý trong chỉ ác hành thiện: Pháp ác nào đã
phát sinh hãy nhanh chóng trừ diệt chúng, pháp ác nào chưa phát sinh nỗ lực
ngăn chận chúng không cho khởi sinh; pháp thiện nào chưa phát sinh hãy nhanh
chóng làm cho chúng phát sinh, pháp thiện nào đã sinh tiếp tục là cho chúng
tăng trưởng hơn lên. Nghĩa là lúc nào cũng tìm cầu phương pháp siêng năng nỗ
lực tinh cần trong việc đề phòng ngăn ngừa những điều phi pháp có thể xảy ra
cùng, nỗ lực chận đứng những việc ác đã lỡ phát sinh (phòng phi chỉ ác) qua hai
việc hại mình hại người và, luôn luôn siêng năng tinh tất trong việc hành thiện
qua hai việc thiện lợi mình lợi người như trên chúng tôi đã trình bày. Sự siêng
năng đúng ờ đây chúng cũng được quan niệm như là pháp Tứ chánh cần mà trước đây
chúng tôi đã đề cập qua.
7. Chánh niệm, còn gọi là đế ý, là chi thứ bảy trong Bát chánh đạo, dùng cộng
tướng của bốn pháp thân, thọ, tâm và, pháp mà quán. Đây là một hình thức khác
của Tứ niệm xứ, điều mà chúng tôi cũng đã đề cập đến trước đây. Ở đây chúng tôi
cũng xin đề cập vắn tắc một chút, là hành giả chúng ta luôn luôn nhớ nghĩ về
tánh tướng của tất cả các pháp một cách như thật mà không để lãng quên mất.
Chúng ta có thể phân chánh niệm ra hai loại:
- Nhớ nghĩ đúng về pháp hữu lậu thế gian, tức là hành giả chúng
ta luôn nhớ nghĩ về những thiện niệm, tác ý tương ưng với pháp hữu lậu.
- Nhớ nghĩ đúng về pháp vô lậu xuất thế gian, tức là hành giả
chúng ta nương vào chánh kiến vô lậu mà thường tư duy suy nghĩ như thật về mọi
đối tượng, với sự tác ý tương ưng với pháp vô lậu với những ý niệm ghi nhớ rõ
ràng không bao giờ quên.
Đó là hai cách nhớ nghĩ chân chính đúng chính pháp về thiện và
thiện giải thoát dành cho hành giả khi tu tập chánh niệm.
8. Chánh định, còn gọi là đế định, là chi thứ tám của Bát chánh đạo, mục đích
của chi này là giúp hành giả xa lìa pháp dục ác bất thiện thành tựu bốn pháp
thiền: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và, tứ thiền.
Theo kinh Đại Tứ Thập, Trung Bộ III, tr. 206 - 208 bản dịch của
HT.Minh Châu đức Phật dạy: "Thế nào là Thánh chánh định với các cận
duyên và tư trợ? Chính là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm. Này các Tỳ-kheo, phàm có nhất tâm nào
được tư trợ với bảy chi phần này, như vậy, gọi là Thánh chánh định cùng với các
cận duyên và tư trợ". Sự thành tựu của chánh định của các bậc hữu học
như đức Phật đã dạy là phải câu hữu với bảy chi trên làm trợ duyên, duyên khởi
trong lúc tu tập mới mong đạt đến kết quả.
Trong khi đạo quả giải thoát của các vị A-la-hán của bậc vô học
gồm có mười chi như kinh Trung bộ III sđd tr. 221 thì: “Do có chánh kiến, chánh
tư duy khởi lên; do có chánh tư duy, chánh ngữ khởi lên; do có chánh ngữ, chánh
nghiệp khởi lên; do có chánh nghiệp, chánh mạng khởi lên; do có chánh mạng,
chánh tinh tấn khởi lên; do có chánh tinh tấn, chánh niệm khởi lên; do có chánh
niệm, chánh định khởi lên; do có chánh định, chánh trí khởi lên; do có chánh
trí, chánh giải thoát khởi lên. Như vậy, này các Tỳ-kheo, đạo lộ của vị hữu học
gồm có tám chi phần, và đạo lộ của vị A-la-hán gồm có mười chi phần."
Do đó sự hiện hữu có được của chánh định chính là sự hiện hữu
của chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh
tấn, chánh niệm và, ngược lại tất cả đều có trong nhau qua duyên khởi. Và ở đây
đứng về mặt thời gian nhân quả phân đoạn mà nói thì tám chi phần này theo thứ
tự làm duyên cho nhau để đưa đến đạt bốn thiền định, nhưng đứng về mặt sát-na
sinh diệt không thời gian thì chúng hiện hữu ở trong nhau. Về mặt nhân quả thời
gian thì chánh kiến thuộc chi phần quan trọng chủ yếu trong Bát chánh đạo để
đưa về chánh định.
Tóm lại
Bát chánh đạo là tám chi nhánh cần và đủ để hành giả từ đó có
thể mượn chúng là con đường đưa đến giải thoát khổ đau, hay Bát chánh đạo là
con thuyền để nhờ vào đó mà hành giả vượt qua khỏi bờ bên này tức là bờ đau khổ
sang bờ bên kia tức bờ giác ngộ giải thoát.
Trong Bát chánh đạo chúng ta nhận thấy có sự liên hệ mật thiết
giữa hành pháp thứ tám này cùng với bảy hành pháp trợ đạo khác như chúng tôi đã
trình bày trước đây trong Nguyệt san Pháp luân này. Sự có mặt trong nhau qua sự
phối hợp sau đây để hành giả có cái nhìn tổng quát và hiểu rõ một cách cơ bản
về sự liên hệ này:
- Chánh niệm trong Bát chánh đạo chính là ý nghĩa nội dung của
Tứ niệm xứ (trụ); cũng chính là niệm căn, niệm lực của Ngũ căn-Ngũ lực; cũng là
niệm giác chi của bảy Giác chi; và là tâm thần túc của Tứ thần túc.
- Chánh tinh tấn chính là ý nghĩa nội dung của Tứ chánh cần;
cũng chính là tinh tấn thần túc của Tứ thần túc.
- Chánh tư duy là trạch pháp giác chi; cũng chính là quán thần
túc của Tứ thần túc.
- Chánh kiến là tuệ căn, tuệ lực;
- Chánh định là hỷ, khinh an, định, xả giác chi.
Chính vì sự quan hệ này nên được đức Đạo sư gọi là pháp trợ đạo
cho Đạo đế, con đường trung đạo đưa hành giải thoát ra khỏi khổ để chứng đắc
Niết-bàn an lạc giải thoát, phần này chúng tôi đã đề cập đầy đủ trong phần đạo
đế trong tứ đế xin xem lại qua những bài viết trước cũng trong Tập san Pháp
Luân này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét