DẪN NHẬP
Giáo lý Tứ đế là nền tảng của hệ thống giáo lý đạo Phật. Ngay sau khi Đức Phật thành đạo,
Ngài đến vườn Nai thuyết pháp cho năm anh em Kiều Trần Như, những bạn tu
khổ hạnh với Ngài trước đây; nội dung bài thuyết giáo đầu tiên ấy là Tứ
diệu đế. Từ đó, xuyên suốt hành trình hoằng
hóa của Ngài, giáo lý Tứ diệu đế được triển
khai, mở rộng. Đức Phật nhiều lần xác định về tầm quan trọng
và siêu việt của giáo lý Tứ đế,
Ngài dạy: «Những bậc A La Hán chánh đẳng giác ở trong quá khứ, ở trong tương lai hay hiện tại, được coi là vị Chánh
đẳng giác đúng nghĩa là Chánh đẳng
giác về Bốn thánh đế« (Tương Ưng V).
Mục
đích của đạo Phật là giải thoát mọi đau khổ, vì vậy các pháp môn tu được thiết
lập, mọi nổ lực tu tập đều hướng về mục tiêu ấy. Giáo lý Tứ Diệu Đế được xem là
thiên pháp tối thượng. Ngài Xá Lợi Phất nhận định: “Ví như tất cả các dấu chân
của mọi loài động vật đều bị nhiếp trong dấu chân voi, vì dấu chân này lớn nhất
trong các dấu chân. Cũng vậy chư hiền giả, tất cả các thiện pháp đều tập trung
trong Tứ Thánh Đế”. (Trung Bộ Kinh I).
Cho
đến lúc sắp nhập Niết Bàn, dưới cây Sa La song thọ, một lần cuối, Ngài nhắc lại
giáo lý Tứ Đế: “Này các thầy Tỳ kheo, đối với Bốn chân lý, các thầy có hoài
nghi chỗ nào thì có thể chất vấn tức khắc, không nên giữ sự hoài nghi mà không
cầu giải đáp”. (Kinh Di Giáo). Như vậy, tầm quan trọng của giáo lý Tứ Diệu Đế
đã được khẳng định bởi chính Đức Phật và những đệ tử xuất sắc của Ngài. Trãi
qua hơn 2500 năm, giáo lý Tứ Diệu Đế vẫn được tất cả bộ phái Phật Giáo, Nguyên
Thủy hay Đại Thừa đều xướng dương và hành trì rốt ráo.
Tứ Diệu Đế là Hán dịch từ chữ Phạn Catvary
Aryasatyani. Arya là Diệu, cao quý, nhiệm mầu; Satya là Đế, là sưj thaatj, chân
lý. Tứ Diệu Đế còn được gọi là Tứ chân đế, hoặc Tứ thánh đế, Bốn chân lý mầu
nhiệm.
1- Khổ
đế (Dukkha): là thực trạng đau khổ của con
người.
2- Tập
đế (Samudaya): là nguồn gốc hay nguyên nhân dẫn đến thực
trạng đau khổ.
3- Diệt
đế (Nirodha): là sự kết thúc hay sự chấm
dứt khổ đau.
4- Đạo
đế (Magga): là con đường hay phương
pháp thực hành dẫn đến chấm dứt khổ đau.
II. NỘI DUNG
II-1. Khổ đế:
Khổ
đế là một chân lý, một sự thực về bản chất cái khổ. Đức
Phật dạy: «Này các Tỳ kheo, sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết
là khổ, thương yêu mà biệt ly là khổ, mong cầu mà không được
là khổ. Tóm lại, chấp thủ năm uẩn là khổ« (Tương Ưng V).
Như vậy, Khổ có thể chia làm 3 phương diện như sau:
a)- Về phương diện sinh
lý: Khổ là một cảm giác khó chịu, bức xúc, đau đớn. Khi ta
bị một gai nhọn đâm buốt bàn chân hay một hạt cát vào trong mắt khó
chịu..., đây là sự bức bách đau đớn của thể xác. Sự đau đớn của
thể xác rất lớn, như Lão Tử nói: «Ngô hữu đại hoạn do ngô hữu thân«
(Có thân nên có khổ). Con người sinh ra đã vất vả khốn đốn;
lớn lên già yếu, bệnh tật khốn khổ vô cùng; và cuối cùng, cái chết:
sự tan rã cuối cùng của thể xác đem đến khổ thọ lớn lao.
b)- Về phương
diện tâm lý: Là sự khổ đau do không toại ý, không vừa
lòng v.v... Sự không vừa ý sẽ tạo nên nỗi đau
đớn về tâm lý. Những mất mát, thua thiệt trong cuộc
đời làm mình khổ. Người mình thương muốn gần mà không được, người mình
ghét mà cứ gặp gỡ hoài, mình muốn tiền tài, danh vọng, địa
vị nhưng nó cứ vụt qua ngoài tầm tay của mình. Cuộc đời như muốn
trêu ngươi, những ước mơ không toại ý, lòng mình luôn trống
trải, bức bách v.v... Đây là nỗi khổ thuộc về tâm lý.
c)- Khổ là sự chấp
thủ năm uẩn (Upadana-skandhas): Cái khổ thứ ba này bao hàm hai cái
khổ trên, như trong kinh đã dạy: «Chấp thủ năm uẩn là khổ«.
Năm uẩn là 5 yếu
tố nương tựa vào nhau để tạo thành con người, gồm có: thân
thể vật lý và cấu trúc tâm lý như: cảm giác, niệm
tưởng, hành và thức (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Nói một cách tổng quát, khi
ta bám víu vào 5 yếu tố trên, coi đó là ta, là của ta, là
tự ngã của ta, thì sự khổ đau có mặt. Ý niệm về «thân thể tôi«, «tình
cảm tôi«, «tư tưởng tôi«, «tâm tư tôi«, «nhận thức của tôi«, «tài sản của tôi«...
hình thành một cái tôi ham muốn, vị kỷ; từ đó, mọi khổ đau phát sinh.
Mọi khổ đau, lo lắng, sợ hãi, thất vọng, điên
cuồng đều gắn liền với ý niệm về «cái tôi« ấy.
Tóm
lại, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự
bức xúc của hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý. Về
mặt bản chất, khổ đau là do sự chấp thủ, ngã hóa năm uẩn.
II-2 Tập đế:
Tập
đế (Samudaya), tập là tích tập, các phiền não tụ hội tạo
thành năng lực đưa đến khổ đau; đây là nguyên nhân, là nguồn gốc
của các khổ. Khi nhận thức được bản chất của khổ một
cách rõ ràng, ta mới có thể đi vào con đường đoạn tận
khổ đau (Diệt đế).
Nguyên nhân của khổ thường được
các kinh đề cập chính là tham ái, do tham
ái mà chấp thủ, bám víu vào các đối tượng của tham ái.
Sự khao khát về dục lạc sẽ dẫn đến khổ đau, bởi vì lòng khao khát ấy
không bao giờ thỏa mãn.
Nguyên nhân sâu hơn và căn
bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không thấy
rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau
mà sinh khởi, đều vô thường và chuyển biến, không có cái
chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng. Do không thấy rõ
nên sinh tâm tham muốn, ôm giữ lấy các đối tượng lạc thú. Do không
thấy rõ mới lầm tưởng rằng «cái tôi« là quan trọng nhất, là cái có
thực cần phải bám víu, củng cố và thỏa mãn nhu
cầu của nó. Nói cách khác, do vô minh mà có chấp thủ «cái
tôi« và «cái của tôi« như thân tôi, tình cảm tôi, tư tưởng tôi...,
người yêu của tôi, tài sản của tôi, sự nghiệp của tôi... Do
những chấp thủ ấy mà có những nỗi thống khổ của cuộc
đời.
Tóm lại, chúng ta có
thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng mình;
lòng mình đầy tham lam, chấp thủ, nhận thức sai
lầm thì khổ là chắc chắn. Nói cách khác, do cái nhìn của mỗi người
đối với cuộc đời mà có khổ hay không. Nếu không bị
sự chấp ngã và dục vọng vị kỷ hay phiền
não khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc
đời đầy an lạc, hạnh phúc.
II-3 Diệt đế
Diệt đế (Nirodha), Diệt là chấm dứt, là dập tắt. Diệt
đế là sự chấm dứt hay dập tắt phiền não, nguyên
nhân đưa đến đau khổ và sự chấm dứt khổ đau; cũng có
nghĩa là hạnh phúc, an lạc. Diệt đế đồng nghĩa với Niết
bàn (Nirvana/Nibbàna).
Đạo
Phật xác nhận cuộc đời đầy dẫy những đau khổ, đồng
thời cũng xác định có một sự thật khác nữa là an
lạc, hạnh phúc. Vì vậy mà có sự tu tập để đạt
được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì? Hạnh phúc có các mức
độ khác nhau.
a)- Hạnh phúc tương đối:
Một khi bạn đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ, thì những
nỗi lo âu, sợ hãi, bất an giảm hẳn, thân tâm của
bạn trở nên thanh thản, đầu óc tỉnh táo; bạn nhìn mọi vấn đề trở
nên đơn giản và rộng lượng hơn. Đó là một hình thức của hạnh
phúc. Kinh Trung Bộ có một ví dụ: Có một người con trai đang yêu một
cô gái. Tình cờ, anh ta bắt gặp cô gái nói chuyện, cười đùa với một chàng
trai khác. Tâm hồn của người con trai đang yêu ấy bị xáo trộn mạnh
mẽ, khó chịu, bực bội và đau khổ. Thời gian sau, người
con trai ấy không còn yêu thương cô gái ấy nữa; lần này, anh ta gặp
cô ái ấy đang nói chuyện, cười đùa với những chàng trai khác, nhưng hình
ảnh ấy không làm tâm hồn anh ta đau đớn nữa. Cũng vậy,
nhờ tâm trí không bị chi phối bởi những tư tưởng chấp
thủ, nhờ không bị đun nóng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng, sợ
hãi, mà tâm ý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả
năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc và chính xác hơn,
bạn tạo nên một phép lạ: thân tâm được chuyển hóa, thái
độ ứng xử của bạn đối với mọi người độ lượng, bao dung và
khiêm tốn; đối với của cải, tài sản, danh vọng trở
nên thanh thản hơn, không còn bị áp lực của nó đè nặng lên
trái tim mình. Trên cơ sở ấy, bạn hưởng thụ đời sống có phẩm chất
hơn.
Tóm lại, tùy vào khả năng giảm
thiểu lòng tham, sân và vô minh đến mức độ nào thì đời sống của
bạn sẽ được tăng phần hạnh phúc lên mức độ ấy.
Nếu bạn phát
triển hạnh phúc tinh thần cao hơn bằng cách tu tập thiền định thì bạn sẽ có sự an lạc tuyệt vời. Đức Phật dạy: «Có người có thể không bị bệnh về thể xác trong một năm hay có
thể đến cả trăm năm, nhưng thật hiếm có người không bị bệnh về tinh thần, dù chỉ trong một phút«. Những tâm lý được coi là bệnh của tinh thần gồm có 5 trạng thái tâm lý,
thường gọi là 5 triền cái: tham dục, sân hận, hôn trầm (ngủ gật, lười nhác), trạo cử (tâm dao động và hối hận), hoài nghi và do dự.
Khi 5 loại tâm lý này có mặt, nó
sẽ trói buộc và ngăn che tâm trí bạn; loại trừ chúng thì tinh thần sẽ sáng tỏ thanh tịnh và an lạc như mặt trăng thoát khỏi mây
che. Thoát khỏi trạng thái hạnh phúc tinh thần này
được gọi là Tứ thiền.
b)- Hạnh phúc tuyệt đối: Trên
nền tảng hạnh phúc tinh thần, bạn phát triển tuệ quán, hướng tâm đến đoạn trừ toàn bộ phiền não vi tế, thâm sâu,
bạn có thể đạt hạnh phúc tuyệt đối, tối thượng là Niết
bàn. Diệt đế chính là Niết bàn. Niết bàn là
sự thanh tịnh, là hạnh phúc tuyệt đối. Đức Phật dạy: «Vô bệnh lợi tối thắng, Niết bàn lạc tối
thắng« (K.Magandiya, TBK II).
Niết
bàn còn được diễn tả dưới nhiều danh từ khác nhau, tiêu
biểu như: vô sanh, giải thoát, vô vi, vô lậu, đáo
bỉ ngạn, tịch tịnh, chân như, thực tướng, pháp
thân... Niết bàn không phải là đối tượng của tư duy, khái niệm
hay ngôn ngữ. Đây là trạng thái an lạc, hạnh
phúc tuyệt đối khi tâm ý đã vắng mặt tham, sân, si.
Chúng
ta thường quan niệm Niết bàn như một cảnh giới, một
cõi nào đó cao cấp hơn cõi người, như là cõi thiên đường của
các tôn giáo khác; đó là một sai lầm lớn. Niết
bàn vượt thoát mọi khái niệm đối đãi về thời
gian, không gian, có, không, lớn, nhỏ... Dù vậy, Niết bàn không
phải là hư vô, mà là một thực tại thanh tịnh, siêu việt,
không nằm trong phạm vi phân biệt của ý thức, hay
nói cách khác, không thể nhận thức được Niết bàn khi
đang còn tham, sân, si. Một vị Thiền sư nói: «Hãy nhìn những rặng
núi, những con suối chảy, những rừng cây xanh ngắt đẹp tuyệt vời kia.
Khi biết nhìn mọi vật với một nhãn quan mới, một nhãn quan không
bị chi phối bởi tham sân si, thì cảnh đẹp kia chính là Niết
bàn đó ! Niết bàn không phải là một nơi chốn nào khác biệt
với thế gian, một cảnh giới nào mà người ta có thể tìm
đến. Niết bàn chính là ở đây«. Đức Phật và các vị Bồ
Tát, A La Hán đã đạt Niết bàn ngay trong đời sống
này. Điều đó nghĩa là Niết bàn nằm ngay trong tầm tay của mỗi người.
Biểu hiện của Niết bàn là không còn tạo nghiệp và không còn tái
sinh.
II-4 Đạo đế
Đạo
đế (Magga): Đạo là con đường, là phương pháp thực hiện để đạt
được an lạc, hạnh phúc trong đời sống hàng ngày hay hạnh
phúc tuyệt đối Niết bàn. Như vậy, toàn bộ giáo lý mà Đức
Phật đã dạy đều là Đạo đế, tổng quát và căn bản gồm có 37
pháp, thường gọi là 37 phẩm trợ đạo. Đức Phật dạy: «Này
các Tỳ kheo, đây là những pháp do ta chứng ngộ và giảng dạy, các
con phải khéo học hỏi, thực chứng tu tập, truyền bá rộng
rãi để chánh pháp được trường tồn, vì hạnh phúc cho chúng
sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời,
vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người.
Đó là Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn thần túc, Năm căn, Năm
lực, Bảy Bồ đề phần, Tám thánh đạo phần« (kinh Đại Bát Niết
Bàn).
Trong
37 pháp thì Tám thánh đạo được coi là tiêu biểu và căn
bản nhất của Đạo đế. Tám thánh đạo, còn gọi là Bát chánh đạo - con
đường chân chính - có 8 chi phần:
1)- Chánh
kiến (Sammà
Ditthi): Thấy và hiểu đúng đắn, nghĩa là nhận thức đúng
về đạo đức của cuộc sống, cái nào là thiện, cái nào là ác. Nhận
biết đúng về bản chất của sự vật là vô thường, vô
ngã, duyên sinh. Nhận thức rõ bản chất của
khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con
đường đưa đến hết khổ.
2)- Chánh
tư duy (Sammà
Sankappa): Suy nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng để đầu óc của
mình nghĩ ngợi những vấn đề bất thiện như tham
dục, tức tối giận hờn, bạo lực hãm hại... dẫn tư duy của
mình hướng về tâm cao thượng như tư duy về sự buông bỏ, sự giải
thoát, về thương yêu giúp đỡ chúng sinh, về sự vị tha, nhẫn
nhục, trầm tĩnh.
3)- Chánh
ngữ (Sammà
Vàcà): Ngôn ngữ đúng đắn, nghĩa là không nói những lời đưa
đến đau khổ, chia rẽ, hung bạo, căm thù. Nói những lời lẽ đưa
đến xây dựng niềm tin, đoàn kết hòa hợp, thương
yêu và lợi ích.
4)- Chánh
nghiệp (Sammà
Kammanta): Hành vi đúng đắn, nghĩa là không có hành vi giết
hại, trộm cướp, hành dâm phi pháp. Thực hành sự thương yêu,
cứu giúp, không ham muốn thú vui bất thiện.
5)- Chánh
mạng (Sammà
Ajivà): Đời sống đúng đắn, nghĩa là phương tiện mưu sinh,
nghề nghiệp chân chính, không sống bằng những nghề phi pháp, độc
ác, gian xảo, lừa bịp lẫn nhau để mưu lợi riêng cho mình.
6)- Chánh
tinh tấn (Sammà
Vàyàma): Nỗ lực đúng đắn, nghĩa là nỗ lực đoạn trừ điều
ác, nỗ lực thực hành điều thiện.
7)- Chánh
niệm (Sammà
Sati): Nhớ nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng nhớ nghĩ các pháp bất
thiện, đừng để cho các đối tượng bất chính dẫn dắt mình đi lang thang. An
trú tâm ý vào thiện pháp, không quên thiện pháp.
8)- Chánh
định (Sammà
Samàthi): Tập trung tư tưởng đúng đắn, nghĩa là đừng để
tâm thức bị rối loạn, tập trung tư tưởng làm an
tịnh tâm thức một cách đúng đắn, có hiệu quả phát
triển tuệ giác.
Mối quan
hệ giữa các chi phần Bát chánh đạo là không thể phân
ly, chi phần này có trong chi phần kia, cái kia hỗ trợ cho
cái này. Tám chánh đạo có thể chia làm 3 bước là Giới, Định và Tuệ.
Giới là Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng; Định là Chánh
tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định; Tuệ là Chánh kiến, Chánh
tư duy. Xác định Bát chánh đạo là con đường đưa đến giải
thoát, Đức Phật dạy: «Này Subhadda, trong pháp luật nào
không có Bát thánh đạo thì ở đấy không có Tứ quả Sa
môn« (kinh Đại Bát Niết bàn, TB I). Đức Phật dạy thêm: «Nếu
những Tỳ kheo sống chân chính (theo Bát chánh đạo) thì
cõi đời này không thiếu vắng những vị A La Hán«.
Con đường
tu tập của Đạo đế là con đường nỗ lực tự thân của
mỗi hành giả Phật tử; con đường ấy vừa thực
tiễn vừa có hiệu quả ngay tại đời sống này.
KẾT LUẬN
Giáo lý Bốn chân lý vừa
là phương tiện, vừa là cứu cánh. Một giáo lý hoàn
chỉnh đầy tính nhân bản đem lại niềm tin, sức sống cho con
người, xã hội đương thời và
vẫn thiết thực lợi ích cho con
người và xã hội hiện đại.
Đặc tính của giáo lý Tứ diệu đế là con đường Trung đạo, không rơi vào cực đoan hưởng thụ dục
lạc hay khổ hạnh ép xác. Giáo lý Tứ diệu đế bao hàm tất cả các giáo pháp mà Đức
Phật đã dạy. Giáo lý Tứ diệu đế có thể thực
hành cho người xuất gia cũng
như tại gia, ai cũng tu tập được, ai cũng có thể nếm hương vị giải thoát, đáp ứng được
nhu cầu thoát khổ cho cá nhân và chuyển hóa xã hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét