DẪN NHẬP
Thập nhị nhân duyên là
phép tu hành trung thừa, quán sát tất cả các sự vật, cho đến luân
hồi, đều do nhân duyên mà phát khởi, nhân duyên hội
họp thì gọi là sanh, nhân duyên tan rã thì gọi là diệt, sự thật vốn
không có cái gì sanh, cái gì diệt cả.
Khi
thiền định người tu tập thường quán tất cả các sự vật, dù thân hay cảnh,
dù sống hay chết, đều do các duyên hội hợp mà hóa thành như có, chứ
không phải thật có, các sự vật chỉ có tánh đối đãi, chứ không có tự
tánh.
(Ví dụ như tờ giấy, nó có
những tính cách là mỏng, là vuông, là trắng, những tính
cách đó đều là đối đãi, vì mỏng đối với dày mà có, vuông đối với cái
không phải vuông mà có, trắng đối với cái không phải trắng mà có, lại tờ giấy
là vật có hình tướng, cũng có đối với không mà thành, rõ ràng tờ
giấy chỉ có những tính cách đối đãi, ngoài những tính
cách ấy ra, thì không chỉ thế nào là tờ giấy được. Lại tờ giấy là
một nhất hợp tướng, do rất nhiều cực vi kết hợp lại mà
thành, ngoài các cực vi ra, cũng không còn tờ giấy nữa. Lại tờ giấy
có những nguyên nhân của tờ giấy, nơi tờ giấy, người ta có thể nhận
rõ tác dụng của các nguyên nhân ấy, đã kết
hợp như thế nào, ngoài những tác dụng ấy ra, cũng không thể tìm
cái gì là tờ giấy được.)
Quán
sát như thế, thì nhận rõ được các tướng của sự vật đều giả
dối, không thật, theo duyên mà phát hiện, theo duyên mà thay đổi, không có
gì là chắc thật cả. Như vậy các pháp đều vô ngã, cảnh cũng vô ngã,
thân cũng vô ngã, cho đến những sự sống, chết đều vô
ngã. Đồng thời, các pháp vô ngã như thế, theo duyên
mà chuyển biến, mà thường dùng định lực quán cái có ra
không, cái không ra có, làm cho càng rõ thêm sự thật của mọi sự vật,
thấy được bản tánh vô ngã và ra khỏi luân hồi.
Cần
nhận rõ hành tướng của các nhân duyên, hiểu
rõ sự tác động của nhân duyên này đối với sự phát sinh
của nhân duyên khác, dùng phép quán duyên khởi, diệt
trừ những khâu chính trong dây chuyền 12 nhân duyên.
1. Vô minh:
Vô
minh là không sáng suốt, là mê lầm, không nhận được bản
tính duyên khởi chân thật của vạn pháp. Do vô minh, nên không
biết tất cả sự vật, dầu thân, dầu cảnh, dầu sinh, dầu diệt, dầu năng, dầu sở,
dầu có, dầu không, đều do nhân duyên hội họp mà giả
dối sinh ra, do nhân duyên tan rã mà giả dối mất đi,
đều theo nhân duyên mà chuyển biến như huyễn, như hóa,
không có thật thể. Chính vì không biết như thế, nên lầm nhận thật có cái ta,
thật có cái thân, thật có hoàn cảnh, rồi do sự đối
đãi giữa thân tâm và cảnh giới, phát khởi ra
những tâm niệm sinh diệt chuyển biến không ngừng.
2. Hành:
Hành,
chính là cái tâm niệm sinh diệt chuyển biến không ngừng ấy,
nó làm cho chúng sanh nhận lầm có cái tâm riêng, cái ta riêng
của mình, chủ trương gây các nghiệp, rồi về sau chịu quả báo.
3. Thức:
Tâm
niệm sinh diệt tiếp tục ấy, theo nghiệp báo duyên ra
cái thức tâm của mỗi đời, chịu cái thân và cái cảnh của loài này hoặc
loài khác.
4. Danh sắc:
Các
thức theo nghiệp báo duyên sinh ra danh sắc. Sắc, bao
gồm những cái có hình tướng, như thân và cảnh; Danh, bao
gồm những cái không có hình tướng, như cái sự hay biết, nói một cách
khác, là thức tâm thuộc nghiệp nào, thì hiện ra thâm
tâm và cảnh giới của nghiệp ấy.
5. Lục nhập:
Thân
tâm đối với cảnh giới thì duyên khởi ra các
sự lãnh nạp nơi 6 giác quan, nhãn căn lãnh
nạp sắc trần, nhĩ căn lãnh nạp thanh trần, tỷ
căn lãnh nạp hương trần, thiệt căn lãnh nạp vị
trần, thân căn lãnh nạp xúc trần và ý căn lãnh
nạp pháp trần.
6. Xúc:
Do
những lãnh nạp như thế, mà các trần ảnh hưởng đến tâm hay
biết sinh ra quan hệ với nhau, nên gọi là xúc.
7. Thọ:
Do
những quan hệ giữa tâm và cảnh như thế, nên sinh ra các thọ là khổ
thọ, lạc thọ, hỷ thọ, ưu thọ và xả thọ.
8. Ái: .
Do
các thọ đó, mà sinh lòng ưa ghét, đối với lạc thọ, hỷ thọ thì ưa,
đối với khổ thọ, ưu thọ thì ghét và đã có ưa ghét thì
tâm gắn bó với thân, với cảnh, hơn bao giờ hết.
Do
tâm gắn bó với thân, với cảnh nên không thấy được sự
thật như huyễn, như hóa, mà còn kết hợp được những ảnh
tượng rời rạc đã nhận được nơi hiện tại, thành những sự
tướng có định, rồi từ đó chấp mọi sự vật đều có thật, sự chấp
trước như thế, gọi là thủ.
10. Hữu:
Do
tâm chấp trước, nên những sự vật như huyễn như
hóa lại biến thành thật có, có thân, có cảnh, có người, có ta,
có gây nghiệp, có chịu báo, có sống và có chết, cái có như thế, tức là hữu.
11. Sinh:
Có
sống, tức là có sinh, nói một cách khác, là do không rõ đạo lý duyên
khởi như huyễn, không có tự tánh, nên nhận lầm thật có sinh
sống.
12. Lão tử:
Lão
tử là già rồi chết. Do có sinh sống, nên có già, rồi có chết.
Khi
tâm chúng sanh chịu cái quả báo đó, thì do sự đối
đãi giữa thân và cảnh lại sinh ra những điều ưa ghét, đó là ái. Rồi do có
ưa ghét, mà gắn bó với thân và cảnh, chấp là thật có, không biết
thân tâm và cảnh giới đều duyên khởi như huyễn, đó là
thủ. Do có chấp trước, nên mọi sự vật, vốn là huyễn hóa, lại biến
thành thật có, thân cũng có, cảnh cũng có, ý thức phân
biệt cũng có, mình cũng có, người cũng có, rồi từ đó, sinh ra có gây
nghiệp và có chịu báo.
Đã
có gây nghiệp và đã có chịu báo, thì khi hết thân này, nghiệp báo và
duyên khởi kết hợp sẽ hình thành vào một thân khác trong vị lai, đó là
sanh, mà đã có sanh thì nhất định có lão tử.
Nếu
xét các duyên, từ đời hiện tại đến đời tương lai, thì chẳng những
cái vô minh sẵn có từ trước là vô minh, mà thức, danh
sắc, lục nhập, xúc, thọ cũng đều thuộc về vô minh. Hành cũng
thế, chẳng những các nghiệp quá khứ là hành, mà các nghiệp hiện
tại như ái, thủ hữu cũng đều thuộc về hành. Như thế, vô minh quá
khứ cộng với vô minh hiện tại, cùng nhau duyên khởi ra thức
tâm của nghiệp báo đời sau.
Về nghiệp
báo đời sau, thì trong một chữ sanh, đã gồm đủ thứa, danh
sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái và thủ, hữu, thì một phần thuộc về sanh, một
phần thuộc về lão tử. Rồi do trong đời vị lai này, có gây
nghiệp, có chịu báo, nên có sanh và lão tử đời sau nữa.
Do mười
hai nhân duyên chuyển mãi, từ khâu này đến khâu khác, trong quá
khứ, hiện tại, vị lai, nên chúng sanh chìm đắm mãi
mãi trong đường luân hồi.
Nhưng
nếu xét cho cùng, thì chẳng những trong nhiều đời, mà trong một đời, chẳng
những trong một đời, mà trong từng niệm, từng niệm, mười hai nhân
duyên vẫn duyên khởi ra nhau, liên tục không gián
đoạn. Trong một đời, thì chúng sanh do vô minh không
nhận đạo lý duyên khởi như huyễn, nên tâm mới vọng động, đó là
hành. Do tâm vọng động mà có tiềm thức phát khởi liên
tục theo nghiệp báo và duyên ra danh sắc, danh
sắc duyên ra lục thập, lục thập duyên ra xúc, xúc duyên ra
thọ, thọ duyên ra ái, ái duyên ra thủ, và đã có chấp
thủ thì có thân tâm, có cảnh giới, có gây ra các
nghiệp huân tập nơi tiềm thức, cho đến có sự sinh
sống, có sự chuyển biến, có già, có chết. Nhưng sinh, trụ, dị, diệt như
thế, xét cho cùng tột, thì từng niệm, từng niệm, chúng sanh đều có,
nên từng niệm, từng niệm cũng đều đầy đủ 12 nhân duyên.
Trong mười
hai nhân duyên, thì nguyên nhân căn bản của luân hồi, tức
là vô minh và nguyên
nhân của tất cả sự chuyển biến trong luân hồi, tức là hành. Chỉ khi nào diệt
trừ được vô minh, thì mới giác ngộ, chỉ khi nào diệt
trừ được hành, thì mới hết sanh diệt.
Vì
thế, khi tu hành phép thập nhị nhân duyên, cần
phải theo đạo lý duyên khởi, mà quán tất cả sự vật
đều duyên sinh như huyễn, không có tự tánh, để diệt
trừ vô minh. Khi phát ra trí tuệ, trừ được vô minh, thì hành
diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc, lục thập, xúc,
thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử đều diệt hết. Nên nhận rõ
12 nhân duyên chỉ duyên sinh ra nhau và mỗi khâu, chỉ
một nhân duyên đối với khâu khác, chứ không phải tất cả các nhân
duyên đối với khâu ấy, như vô minh duyên sinh ra hành, thì vô
minh là một nhân duyên, trong nhiều duyên sinh ra hành, chứ
không phải một mình vô minh sinh ra hành. Nói vô
minh duyên sinh ra hành, thì có nghĩa là, nếu thiếu vô
minh làm nhân duyên thì hành không phát
khởi được. Đối với các khâu khác, thì cũng đều có nghĩa như thế. Nhưng,
nếu trong tất cả các duyên tạo thành một khâu, diệt trừ được một
duyên, thì cái khâu ấy quyết định không sinh ra được.
Chính vì vậy, ngược lại, lúc lưu chuyển, khi đã diệt
trừ được vô minh, thì cả 12 nhân duyên đều được diệt
trừ và người tu hành được giải thoát ra khỏi sanh tử.
Trong
lúc tu phép quán thập nhị nhân duyên để ra khỏi luân hồi, chúng
ta nên quán theo đạo lý duyên khởi và bắt đầu diệt
trừ những khâu quan trọng, duyên khởi ra phân đoạn sinh
tử là ái, thủ và hữu.
Chúng
ta nương theo đạo lý duyên sinh, quán biết thân cảnh
đều giả dối, không thật và các thọ sinh ra trong quan hệ giữa
thân và cảnh, vốn không có gì, nên diệt trừ được lòng ưa ghét. Khi
lòng ưa ghét đã diệt trừ thì đối với tất cả các sắc, đều xem
như bóng trong gương, đối với tất cả các tiếng, đều xem
như luồng gió thổi qua, không có gì là chắc thật và cũng không có gì
đáng để ý. Do tâm đối với cảnh không phát sinh ưa ghét và thường phóng xả
như thế, nên sự chấp trước cũng giảm bớt đi, đi đến
bị tiêu diệt hết. Tâm đã không chấp trước, thì thấy rõ mọi
sự vật đều huyễn hóa, không thật có, chính khi sinh, không có gì
đáng gọi là sinh, chính khi diệt, không có gì đáng gọi là diệt, do
đó, phát khởi được trí vô ngã, diệt trừ phân biệt ngã
chấp. Từ đó, các vị sơ tâm dùng trí vô ngã gột rửa lần
lần các thói quen mê lầm, diệt trừ hành ấm, diệt
trừ cơ sở vô minh duyên sinh ra luân hồi và lên
quả vô học.
Sơ
đồ tương ứng của Thập nhị nhân duyên:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét