DẪN NHẬP
Héraclite,
một triết gia Hy Lạp cổ đại, bảo rằng: «Không ai có thể đặt chân hai
lần trên cùng một dòng nước«. Điều đó đã nói lên sự chuyển biến liên
tục của con người và thế giới sự vật hiện tượng.
Tất cả hiện hữu ấy đều là hiện hữu của tương duyên, chúng
luôn diễn ra trong vòng nhân quả. và cũng chính trong mối tương
quan nhân quả này mà vấn đề luân lý đạo đức Phật
giáo được đặt ra dưới tên gọi của nghiệp thiện và ác. Do đó, nói đến nhân
quả - nghiệp báo là nói đến một tiến trình tạo tác của con
người, và từ đó hình thành đời sống an lạc hoặc khổ đau cho mỗi con
người; trong đó, mỗi tư duy và hành động cụ thể là một
nguyên động lực kiến tạo nên trạng thái tâm lý an
hay bất an, kiến tạo nên cuộc sống hạnh
phúc hay bất hạnh. Tất nhiên, trong suốt tiến trình tạo tác
(nhân quả - nghiệp báo) đó, con người luôn luôn
đóng vai trò trung tâm và chủ động. Ở đây, theo lời Đức Phật dạy,
không hề có bất kỳ một sự chi phối nào bởi một quyền năng, bởi một
đấng tạo hóa, thần thánh v.v... trong tiến trình tạo tác ấy, mà chỉ
có con người và các hành động tâm lý của nó mà thôi.
Các tôn
giáo nói chung đều có quan niệm khác nhau về nhân quả. Ở
đây, chúng ta chỉ tìm hiểu thuần túy về nhân quả theo
quan niệm của Phật giáo.
Nhân là nguyên
nhân, quả là kết quả. Trong thế giới tương quan duyên
sinh, mỗi sự vật, hiện tượng đều có những nguyên nhân của
nó. Nguyên nhân của một sự thể (pháp) gọi là nhân,
và hiện hữu (pháp) của sự thể đang tồn tại là quả.
Trong mối tương quan nhân quả này, mỗi hiện hữu vừa là nguyên
nhân vừa là kết quả như sự tuần hoàn của mây, mưa, nước, hơi nước... Nguyên
nhân chính (trực tiếp) của một hiện hữu gọi
là nhân, nguyên nhân phụ (gián tiếp) có ảnh hưởng đến
quả gọi là duyên (hay các điều kiện phụ thuộc); do đó, nếu
nói đủ là Nhân - Duyên - Quả.
Trong
tương quan nhân quả, như đã đề cập, còn có các yếu tố duyên
(trung gian) xen vào; do đó, sự thành tựu một quả hẳn là
còn tùy thuộc vào các duyên. Vì thế, ở đây chúng ta cần ghi
nhận một số điểm như sau:
*
Trong giáo thuyết nhân quả, một nhân không thể đưa đến một quả,
hay một quả không thể chỉ có một nhân. Và nhân quả thường là đồng
loại. Ví dụ: trứng gà chỉ nở ra con gà, chứ không thể có trường hợp trứng
gà nở ra con vịt. Như thế là không có sự lẫn lộn trong đồng loại.
* Nhân
quả tuy cùng một giống (đồng loại), nhưng do các duyên
trung gian xen vào, cho nên có thể quả cùng loại với nhân nhưng vẫn
khác với nhân. Ví dụ: một nắm muối nếu bỏ vào tô canh thì mặn, nhưng
nếu bỏ vào hồ nước mênh mông thì không mặn. Sự khác biệt này tùy
thuộc vào các duyên (thuận hay nghịch) và theo đó mà quả hình thành.
* Nhân
quả - nghiệp báo là sự hiện hữu của các mối tương quan
thiện-ác, chánh-tà v.v..., nó thuộc pháp hữu vi sanh diệt vốn
là hiện thân của ý niệm phân biệt; do đó, với tâm
thanh tịnh và xả ly thì vấn đề nhân quả - nghiệp
báo không còn được bàn đến.
Thông
thường, một quả khi hình thành nó cần có đầy đủ nguyên nhân chính và
các nhân duyên phụ, cho nên nhân quả được xét đến qua nhiều
góc độ như thời gian, không gian, vật lý, tâm
lý v.v...
a- Nhân
quả đồng thời: Là loại nhân quả mà từ nhân đi đến quả rất nhanh.
Ví dụ: ăn thì no, uống nước thì hết khát, tức giận thì buồn phiền v.v...
b- Nhân
quả khác thời: Là loại nhân quả mà thời gian đi đến quả
có một khoảng thời gian. Và khoảng thời gian đó được chia làm 3
loại như sau:
* Hiện
báo: Nghĩa là nghiệp nhân trong đời này đưa đến quả
báo ngay trong đời này. Ví dụ: tuổi nhỏ lo học
hành chăm chỉ nên lớn lên trở thành người có tri thức.
* Sinh
báo: Nghĩa là tạo nhân trong đời này nhưng đến đời sau mới
thọ quả báo. Ví dụ: kinh Địa Tạng bảo rằng ai hay trêu chọc người, đời
sau sẽ thác sinh vào loài vượn, khỉ.
* Hậu
báo: Nghĩa là tạo nhân trong đời này nhưng đến các đời sau mới
thọ quả báo (xem Truyện tiền thân, Bổn Sinh, Bổn Sự).
Ba
thời nhân quả này vì có một thời gian tương đối ổn định
(có khoảng cách), do đó chúng được xếp vào loại định nghiệp. Cũng
có trường hợp do các nhân duyên trung gian can thiệp mạnh
vào làm cho nghiệp quả trở nên khó xác định về thời gian và
chủng loại. Trong trường hợp này, chúng được gọi là bất định
nghiệp. Ba thời nhân quả, đồng thời cũng là câu trả lời tại
sao (một số trường hợp) có người làm lành trong đời này lại gặp
những điều bất hạnh, và ngược lại, người làm việc ác lại gặp
may mắn.
2-
Phân loại 2 (theo vật lý và tâm lý): Cách phân loại này nhằm
chỉ đến sự biểu hiện của nghiệp quả thông qua thái độ tâm
lý tiếp thọ nghiệp, đồng thời nói lên những khoảng cách
khác nhau của nghiệp quả giữa tâm lý và vật lý, giữa nội
tâm và ngoại cảnh.
a- Nội
tâm và ngoại giới: Nhân quả biểu hiện ở trong tâm
lý của con người được gọi là nhân quả nội tâm (nội
giới) và ngược lại là ngoại cảnh (ngoại giới).
Như trường
hợp một vị sư bị vu khống phải ở tù, thân vị ấy ở trong tù nhưng
tâm vị ấy thì an định, ly thủ, giải thoát. Như thế, nghiệp quả chỉ
biểu hiện ở thân chứ không biểu hiện ở tâm.
b- Tâm
lý và vật lý: Sự biểu hiện khác nhau của nhân quả trên cùng
một con người được chia thành hai phần: tâm lý và vật
lý.
Như
một người có thân thể (thể chất vật lý) xấu xí, khó nhìn,
nhưng tâm thì thông minh và sáng suốt, hiền từ, độ lượng và tu
tập tốt (tương tự như vậy đối với các trường hợp ngược lại).
Tuy
nhiên, cũng có trường hợp được phước báo cả hai mặt thân
và tâm, hoặc ngược lại.
Có
thể nói rằng, nhân quả là giáo lý gắn liền với đời sống tu
tập của hàng Phật tử, gắn liền với các vấn đề luân
lý đạo đức của con người; và nhân quả đã nghiêm túc đặt
ra vấn đề trách nhiệm của con người đối với chính tự
thân cũng như xã hội. Bởi lẽ, Đức Phật dạy rằng: «Con người là
chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp« (Tăng Chi II, HT Thích Minh
Châu, Viện Phật học Vạn Hạnh, 1982, tr.101). Từ đó, nhân quả được
bàn đến thông qua các phạm trù cơ bản của đời sống con người.
Trước
hết, giáo lý nhân quả dạy con người thức tỉnh trong
các hành động tạo tác của mình để xa lánh các việc ác và nỗ lực làm
các việc lành nhằm đem lại sự an vui, thanh bình cho cuộc sống. Giáo
lý nhân quả chú trọng đến vấn đề thiện ác, tức là vấn
đề luân lý đạo đức của con người nói chung và của
hàng Phật tử nói riêng. Tuy nhiên, vấn đề trọng yếu của giáo
lý nhân quả là ở chỗ nó đặt ra trách nhiệm cá nhân của
mỗi con người đối với các điều kiện sống của con người ấy.
Do đó, không thể quy ước giáo lý nhân quả - tức luân
lý đạo đức Phật giáo - theo khuôn mẫu ước lệ như luật
pháp được ban hành trong xã hội. Chẳng hạn, một người phạm
tội, luật pháp sẽ trừng phạt y khi hành vi phạm tội được
xác định - nghĩa là y đã thực hiện điều tội lỗi, Trong khi, với đạo
đức và luân lý, anh ta sẽ có tội ngay khi những ý niệm tội
lỗi (xấu ác) phát sinh trong tâm của y, mặc dù đó chỉ là ý niệm chứ
chưa phải là hành vi. Do đó, trách nhiệm cá
nhân theo giáo lý nhân quả, ở đây, là trách nhiệm cao
nhất đối với thái độ tâm lý đạo đức của mỗi con người,
mà không phải là trách nhiệm theo quy ước luật
pháp trong xã hội.
Trong
một số trường hợp, những người khôn ngoan có thể chạy trốn pháp
luật, nhưng với luân lý đạo đức, họ không thể chạy trốn lương
tâm của chính mình. Vì thế, nếu đứng trên phương diện giáo dục, giáo
lý nhân quả thực là một phương pháp giáo dục vô
cùng lành mạnh và tích cực. Vì ngay từ đầu, tinh thần nhân
quả đã đưa con người về với chính nó. Con người phải hoàn
toàn chịu trách nhiệm về những tư duy và hành động của
chính mình. Hạnh phúc hay khổ đau là do mình tự tạo cho mình. Ở đây
không hề có một sự trừng phạt hay ban thưởng nào, cũng
không có một giáo điều hay tín lý nào có thể thiết lập trên
cơ sở nhân quả của Phật giáo. Một nền luân lý đạo đức như
thế, nhân bản và tích cực như thế, trí tuệ và đầy
tình người như thế, nếu được áp dụng vào mỗi con người, gia
đình, học đường và xã hội; ắt hẳn sẽ đưa đến một cuộc sống an lạc, hạnh
phúc.
2- Nhân
quả - khởi điểm của tiến trình giải thoát:
Như
đã đề cập, giáo lý nhân quả đặt trọng tâm vào vấn
đề thiện-ác, chánh-tà, , tốt-xấu v.v..., tức là các vấn đề liên
quan đến đời sống đạo đức của con người. Tuy nhiên, đó
cũng là điểm khởi đầu của con người để đi vào đạo. Nhưng đối
với Phật giáo, sự giác ngộ và giải thoát không chỉ dừng
lại ở lĩnh vực nhân quả-thiện ác, mà nó còn đi xa hơn nữa, đó là đi
ra khỏi thế giới phân biệt, đối đãi giữa thiện-ác (thực tại giải
thoát).
Vì
lẽ, Đức Phật dạy các pháp là vô ngã. Do đó, mọi sự phân biệt thiện-ác,
chánh-tà... đều là sản phẩm của ý niệm vốn sanh khởi từ sự
có mặt của ngã tưởng. Ở đây, điều tối quan trọng là hãy nỗ lực tư
duy và nhận ra rằng không hề có mặt bất luận một ngã tưởng nào
thực sự hiện hữu; tất cả là vô ngã. Khi nhận ra điều này
nghĩa là đã bước lên đường để đi vào thế giới thực tại giải
thoát - một thế giới vượt lên trên mọi ý niệm phân biệt,
mọi ngã tưởng điên đảo, thế giới của sự thanh tịnh, xả
ly và vô niệm. Tại đây, thần chết sinh tử của nhân quả không
còn nữa, vì rằng khi ngã tưởng được buông bỏ thì tham
ái và chấp thủ sẽ tiêu tan, và khi ngã tưởng, tham
ái và chấp thủ bị đoạn diệt thì trụ cột của thế
giới tương quan nhân quả của nghiệp báo thiện
ác đã bị sụp đổ; đây là ý nghĩa của Niết bàn tối thượng.
Qua
các phần được trình bày ở trên, nhân quả có vị trí rất quan
trọng trong việc giải thích sự khác biệt nghiệp quả ở mỗi con
người, và sự thiết lập nên một nền tảng đạo đức luân lý Phật giáo
rất nhân bản và tích cực. Nhân quả theo Phật
giáo không phải là định mệnh, cũng không mang tính chất tiền
định cố hữu. Bởi lẽ, sự hiện hữu của con người không đơn
giản chỉ tùy thuộc vào các nhân đã gieo trong đời sống quá
khứ, mà nó còn tùy thuộc ngay nơi các hành động (nghiệp mới) tạo tác
trong hiện tại. Điều này cũng khai phóng cho con người một lối
đi năng động, tích cực để vượt qua mọi trở ngại của nghiệp
quả, thậm chí có thể chấm dứt dòng sinh tử khổ đau ngay tại cuộc
đời này. Thực ra, theo lời Đức Phật dạy, tất cả nghiệp
quả (của vô lượng kiếp quá khứ) đã tập trung vào thân năm uẩn này
rồi, vấn đề còn lại là hành vi tạo tác (xúc) giữa thân
căn và thế giới, nói cụ thể là những nghiệp mới được tạo
tác thông qua sự giao tiếp giữa 6 căn, 6 trần để ý thức (hay 6 thức) cảm
thọ vui, buồn, khổ, lạc hoặc không khổ, không lạc mà thôi. Từ đó, lối đi của giải
thoát chân thực, thực sự không phải là nghiệp quả của năm uẩn,
mà chính là hành vi tạo tác của năm uẩn. Cho đến khi
nào chúng ta ngộ được rằng năm uẩn là vô ngã, chúng
không có tự tánh và không còn tham ái và chấp thủ năm
uẩn là ta, là của ta, là tự ngã của ta; ngay lúc đó, nhân quả - nghiệp
báo sẽ không còn hiện hữu.
Trong kinh
điển, thảng hoặc có nói về nhân quả xuất thế gian,
nhưng thực ra, nếu ngay tại thế gian này mà phiền
não, lậu hoặc đã được đoạn tận thì xuất thế chính là tại
thế, cũng như hoa sen đã vươn lên khỏi mặt nước và nở rộ giữa hư
không vô tận.
Nhân
quả - nghiệp báo là pháp duyên sinh, do đó không
có lý do gì mà nó thường trụ vĩnh hằng. Vấn đề là nỗ
lực tận dụng năng lực của trí tuệ soi sáng bóng mờ
của tự ngã để đi vào chân trời thực tại như thực; đó chính
là hình ảnh của bậc A La Hán đã chấm dứt dòng sinh
tử luân hồi ngay trên mảnh đất trần thế này.
Và
đối với người Phật tử, cần phải hiểu rõ nhân quả, xây
dựng niềm tin trên cơ sở của nhân quả, để từ đó kiến tạo cho
mình một đời sống thanh bình, an lạc. Kinh Pháp
Cú, Đức Phật dạy rằng: «Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ
tạo tác, đối với ý nhiễm ô, nói năng hay hành động, khổ não bước theo
sau, như xe (đi) theo chân vật kéo, ... đối với ý thanh tịnh, an
lạc bước theo sau, như bóng không rời hình«.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét