MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm,
Bát Nhã Ba La Mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách..."
I- Dẫn
Nhập Về Uẩn (khandha).
Ngũ uẩn là sắc
uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn (1).
Đây là những yếu tố vật chất và tinh thần được kết
hợp lại mà có cái gọi là con người, là chúng sanh.
Khi không gọi là ngũ
uẩn mà gọi là danh và sắc thì ta cũng phải hiểu: Sắc là sắc
thân vật lý, và danh là gọi chung của phần tâm và tâm sở gồm
có thọ, tưởng, hành và thức.
Muốn thấy rõ, biết rõ (tuệ
tri) (2) ngũ
uẩn này như thế nào ta phải tìm hiểu ngữ nghĩa cho chính
xác. Tại sao vậy? Vì theo kinh văn “Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh” thì soi
chiếu, thấy rõ 5 uẩn nầy đều là không (chiếu kiến ngũ uẩn giai không)
thì chấm dứt tất cả mọi khổ ách (độ nhất
thiết khổ ách).
Khandha
(uẩn) là gì?
- Khandha được ngài Huyền Tráng dịch
là “uẩn” có nghĩa là tụ tập, tích tập theo từng loại,
từng nhóm cùng một tính chất giống nhau. Ví dụ: Sắc, có nhiều sắc tích
tụ lại, kết hợp lại. Thọ, có nhiều loại thọ tích
tụ lại, kết hợp lại... Do uẩn với nghĩa này, nên đôi chỗ trong
kinh, đức Phật hoặc các vị kết tập sư còn gọi giới, định,
tuệ là giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn.
- Khandha được ngài Cưu Ma La
Thập dịch là “ấm”, có nghĩa là ngăn che, ngăn
lại, che đậy cái thực, cái sự thực. Dịch như thế có nghĩa là năm cái
“ấm” ấy ngăn che, che đậy làm cho chúng sanh không thấy rõ
thực tánh của pháp.
Với nghĩa nào cũng đúng. Tuy
nhiên, theo Nikāya, đức Phật dạy: "Sắc tập khởi là sắc uẩn, thọ tập
khởi là thọ uẩn, tưởng tập khởi là tưởng uẩn,
hành tập khởi là hành uẩn, thức tập khởi là thức
uẩn". Rồi đức Phật còn dạy như sau: "Hãy như thật liễu
tri (3) sắc tập khởi và sắc đoạn diệt.
Hãy như thật liễu tri thọ tập khởi và thọ đoạn
diệt... thức tập khởi và thức đoạn diệt".
Do thế, rõ ràng có một
loại sắc chưa được gọi là uẩn, có một loại sắc khi tập khởi được gọi
là sắc uẩn. Có một loại thọ chưa được gọi là uẩn, có một loại thọ
khi tập khởi được gọi là thọ uẩn... Nói cách khác, nếu sắc
được như thật liễu tri thì sắc ấy là sắc như thật, sắc
của thế giới chân đế, như chơn như thực (paramattha). Đây
chính là sắc khi chưa tập khởi, là thọ khi chưa tập khởi, là tưởng
khi chưa tập khởi, là hành khi chưa tập khởi, là thức khi
chưa tập khởi – vì “có tập khởi mới có uẩn”. Sắc tập
khởi là sắc được nhìn bởi thế giới khái niệm (paññatti), tức là
đã được chế biến qua tư tưởng, tình cảm chủ quan của người nhìn
ngắm (thuật ngữ Duy Thức gọi là biến kế sở chấp) thì chính sắc
này chồng chất lên sắc kia mà tạo nên uẩn: Cái tập khởi, cái
ngăn che, cái rối ren, cái rối loạn, phức tạp. Rồi,
càng tập khởi, càng chồng chất chừng nào thì bản
ngã càng được củng cố, càng dày sâu thêm chừng ấy; và theo
đó, sai lầm chồng chất sai lầm, che mờ cái thực mà thuật
ngữ thiền tông gọi là “đầu thượng trước đầu” hay “tuyết thượng gia
sương”.
Như vậy sắc tập khởi chính
là sắc sanh, sắc đoạn diệt chính là sắc diệt; thọ tập
khởi là thọ sanh, thọ đoạn diệt chính là thọ diệt... Cái
sắc bình thường của xác thân ta nó sinh diệt theo định
luật tự nhiên của thế giới sinh vật lý; cái thọ bình
thường của cảm giác chúng ta nó sinh
diệt theo định luật tự nhiên của tâm sinh lý... Sắc và
thọ bình thường ấy vốn vô thường, không có tự tính,
là vô ngã theo định luật tự nhiên của trời đất nên
không phải là vấn đề, vì không đưa đến khổ. Chính cái sắc tập
khởi do ta tự chồng chất lên, tự chế biến, tự đẻ ra, sắc ấy mới bị
hành (saṅkhāra) chi phối, mới tạo ra bản ngã, cái ấy mới đưa đến khổ.
Do thế, người tu tuệ quán phải thấy rõ cái uẩn ấy, uẩn ấy có sanh thì
uẩn ấy có diệt. Uẩn, theo nghĩa này, chúng ta phải thấy rõ, hiện
quán và thực chứng mới mong giải thoát sinh tử khổ
đau.
1. SẮC (Rūpa).
1.1- Sắc
như thực sắc (sắc như chơn như thực, paramattha)
Hiểu sắc là yếu
tố thuần vật chất, là sắc thân tứ đại này,
thì sắc thân ấy là tổng hợp của những đặc tính luôn
luôn biến động, thay đổi.
Cái thân sắc của
mỗi chúng sanh từ lúc sinh ra đến lúc già yếu, tử vong nó
thay đổi, biến động từng giây khắc một. Rồi những tế bào cơ thể, máu
huyết... nó sinh diệt trùng trùng; nhờ vậy tế bào mới thay thế tế bào
cũ, máu mới thay thế máu cũ. Cái đứng yên, cái không thay đổi không bao
giờ tìm thấy.
Cô đọng về sắc này, ta có:
- 5 sắc thuộc thân, ngũ
căn: Nhãn căn (mắt), nhĩ căn (tai), tỷ
căn (mũi), thiệt căn (lưỡi), thân căn (thân).
Mỗi căn như vậy đều có phù trần
căn và tịnh sắc căn. Phù trần căn là phần sắc thô tháo
bên ngoài; tịnh sắc căn là phần sắc vi tế ở bên trong, tức
là phần thần kinh nhạy bén, nó có chức năng mang thông tin
truyền báo lên trung khu thần kinh, tức não bộ.
- 7 sắc đối tượng: Đây là những sắc
làm đối tượng cho ngũ căn mắt, tai, mũi, lưỡi và thân.
- Mắt thấy mọi vật (mọi sắc
tướng, mọi cảnh quan, vũ trụ vạn hữu - sắc đối tượng).
- Tai nghe mọi âm
thanh (âm thanh cũng là vật chất nên gọi là sắc đối tượng).
- Mũi ngửi hương (hương cũng
là vật chất - sắc đối tượng).
- Lưỡi nếm vị (vị cũng là vật
chất - sắc đối tượng).
- Thân xúc chạm đất, lửa, gió - sắc
đối tượng).
Thân chỉ xúc chạm, sờ đụng được cái
gì thô ráp, cứng (đất), cái gì nóng, lạnh (lửa), cái gì rung động, chuyển
động (gió). Còn nước có tính chất làm cho liên kết, dính liền
thì thân không xúc chạm được.
Do vậy, thân xúc có ba đối tượng:
đất, lửa, gió - thuộc thô sắc. Còn nước thuộc tế sắc. Như vậy ngũ
căn có bảy sắc đối tượng: sắc, thanh, hương, vị, đất, lửa, gió.
Khảo sát 12 sắc ấy thì sắc nào cũng
thay đổi, dịch biến, vô thường, vô tự tính, không, vô ngã.
Dù đức Phật, chư vị thánh nhân hay phàm phu đều có 12
sắc ấy, giống nhau, không sai, không khác. Cho nên đấy là sắc như thực sắc, sắc
chư chưa tập khởi, sắc của thế giới chưa bị khái niệm,
những nhận thức, lý trí hay tình cảm chủ
quan của con người xen vào.
1.2- Sắc
uẩn:
Trong 12 sắc ấy thì chúng luôn là
sắc như thực, nhưng nếu 5 sắc căn bị chấp thủ là “ta”; và 7 sắc đối tượng
bị chấp thủ là “của ta” thì
đã biến chúng thành sắc uẩn rồi! Một số ví dụ cụ thể:
- Khi mắt ta nhìn một bông hoa, ta
không bao giờ nhìn bông hoa như là bông hoa (sắc như thực), mà luôn chất chồng
vào cái hoa ấy không biết bao nhiêu là khái niệm: Hoa đỏ, hoa vàng, hoa này
đẹp, hoa kia xấu, hoa này có giá trị, hoa kia không có giá trị...
Chính những khái niệm đỏ, vàng, đẹp, xấu, có giá trị, không có giá
trị... đã phủ chụp, đã chồng chất lên cái hoa thực nên gọi là
sắc tập khởi. Cái phủ chụp, chồng chất ấy chính là uẩn, tạo
thành sắc uẩn.
- Khi tai nghe âm thanh, ta
không bao giờ nghe âm thanh như chỉ là âm thanh (sắc như
thực – âm thanh là vật chất, là sắc) mà luôn chất chồng lên
cái âm thanh ấy, nào cao, nào thấp, nào trầm, nào bổng, nào réo rắc,
nào thê lương... Chính những khái niệm chủ quan, do tình cảm
hay lý trí này chế biến, đẻ ra... đã phủ chụp, chồng chất lên
cái âm thanh thực nên được gọi là sắc tập khởi. Cái phủ
chụp, chồng chất ấy chính là uẩn, tạo thành sắc (thanh) uẩn.
- Mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân
xúc chạm... đều tương tự như trên; nghĩa là nếu ta không được thấy rõ
như thực mà để cho tình cảm, lý trí của mình xen vào thì
đều bị biến thành sắc uẩn – nói theo thuật ngữ Duy
Thức là do “biến kế sở chấp” mà
thành uẩn.
1.3- Sắc
uẩn có thể đoạn tận:
- Sắc uẩn ấy nó không có
trong thế giới tự nhiên, mà chỉ có trong tình cảm và lý
trí chủ quan của người mê, khởi sanh chấp trước mà thôi.
Ví dụ. Hôm qua tôi cãi nhau với một người nên đưa đến giận tức nhau. Sáng nay, người ấy muốn đến gặp tôi để xin lỗi. Nhưng vừa nhìn thấy người ấy thì hình ảnh, khuôn mặt của người ấy từ ngày hôm qua hiện ra – nên tôi đùng đùng nổi giận. Ồ, hóa ra, là mình đã lấy cái khuôn mặt (sắc) của anh ta từ ngày hôm qua để chồng lên khuôn mặt của anh ta sáng hôm nay (sắc uẩn) nên đâm ra giận ghét. Vậy thì rõ ràng mình giận ghét cái không thật có, vì hôm qua đã qua rồi, còn hôm nay, con người anh ta, khuôn mặt (sắc) anh ta đang mới mẻ hiện tiền thì mình không thấy! Như vậy, nếu hiện quán, minh sát, trở lại với “thực tại đang là” thì uẩn kia liền chấm dứt, chấm dứt luôn cả giận tức.
2. THỌ
(Vedanā)
Thọ là nhận lãnh, là thu nạp,
là cảm giác.
- Khi nói 2 thọ là thọ khổ, thọ
lạc.
- Khi nói 3 thọ là thọ khổ, thọ
lạc, thọ xả.
- Khi nói 5 thọ là thọ khổ, lạc, xả,
ưu, hỷ.
- Khi nói 6 thọ là 6 thọ đi ngang
qua 6 căn (nhãn thọ, nhĩ thọ...).
Tuy rất nhiều thọ nhưng chúng
ta chỉ cần khảo sát 3 thọ khổ, lạc, xả - vì ưu chỉ là khổ trong tâm, và hỷ
chính là lạc trong tâm, có tính chất tương tợ nhau.
2.1- Thọ
như thực thọ:
2.1.1- Khổ
thọ (dukkhavedanā).
Là những cảm giác thực xấy
ra nơi thân, được gọi là thọ bình thường, thuần túy; nghĩa
là cảm giác thực khi chịu sự tác động từ thế
giới ngoại trần sắc thanh hương vị xúc hay các định
luật của vạn hữu. Ta có thể quan sát:
- Khi nhìn ánh nắng chói
chang thì cảm thấy nhức mắt; khi nghe âm thanh quá lớn thì
lùng bùng lỗ tai; khi trời rét quá thì da nghe buốt lạnh... Bậc giải
thoát không phải là diệt cái khổ thọ bình thường, thuần
túy này. Đây chính là cảm giác thực. Những cảm thọ như
đau, nhức, ngứa, nóng, khó chịu, bực bội, điếc tai, tê, lạnh... đều
là cảm thọ bình thường, thuần túy, chưa qua sự chế biến
của sở thích, thói quen hoặc tình cảm chủ quan của ta
(paramattha chưa bị chế biến bởi paññatti) nên nó chỉ là thọ khổ như thực,
chưa biến thành thọ khổ uẩn.
2.1.2. Lạc
thọ (sukhavedanā).
Những cảm giác dễ
chịu, vừa lòng, thích thú, khoan khoái đều được gọi là lạc thọ,
đều là những cảm giác thực, bình thường, thuần túy. Ta
hãy quan sát.
- Ăn một món ăn hợp khẩu
vị, cảm thấy ngon. Ngửi mùi thơm của trầm cảm
thấy dễ chịu... Phàm phu hay thánh nhân đều có chung
một lạc thọ giống nhau như thế. Tuy nhiên, là phàm phu, là chúng
sanh thường không sống được với cảm thọ như thực ấy mà biến
chúng thành một loại đau khổ khác.
2.1.3- Xả
thọ (upekkhāvedanā).
Xả thọ là lúc không có khổ
thọ và lạc thọ; nó cũng là một cảm giác thực, bình
thường, thuần túy.
Trong đời sống thường nhật, ai
cũng có trạng thái tâm với xả thọ này. Đấy là lúc thân
không có cảm giác đau nhức, khó chịu hoặc thích thú, dễ
chịu. Tuy nhiên, lúc có xả thọ, ta không chịu đựng được
lâu, sẽ cảm thấy buồn chán, trống không, vô vị. Thế rồi, ta muốn
đi tìm cảm giác khác, chạy tìm các đối tượng sắc, thanh, hương, vị,
xúc khác; rồi lại rơi vào tròng khổ, lạc khác nữa.
Vậy, cả ba cảm thọ khổ,
lạc, xả trên, nếu chưa bị tình cảm hoặc lý trí chủ
quan của chúng ta xen vào thì nó chưa biến
thành uẩn.
2.2- Thọ
uẩn (khandhavedanā)
2.2.1- Khổ thọ uẩn
hay khổ khổ (dukkhadukkhavedanā).
Từ khổ thọ bình
thường, thuần túy ở trên, phát sanh tâm lý chủ
quan làm gia tăng cảm giác khổ thêm một tầng nữa gọi
là khổ khổ.
Chính tâm sân (phi hữu ái
- vibhavataṅhā) tác động (là do ta bực bội, không chịu
đựng nổi nên phát sanh tâm sân) nên khổ thọ thuần
túy bị biến đổi, bị tư và hành chi phối, phải nhận chịu cái khổ thâm
sâu hơn. Nói cách khác, khổ thuần túy chỉ ở nơi thân, khổ do
sân chi phối là khổ ở nơi tâm. Khổ ở nơi thân là do sự tác
động tự nhiên của căn trần thức. Khổ ở nơi tâm là do tư và hành chi phối. Nó chỉ
là ảo giác, không thực, nhưng có khả năng bóp méo toàn
bộ tâm sinh lý của con người. Đây chính là khổ khổ, là
thọ khổ uẩn.
2.2.2- Lạc thọ uẩn hay
lạc hoại khổ (vipariṇāma-dukkha)
Khi lạc thọ thuần
túy phát sanh như 2.1.2, do tâm tham (hữu ái – bhavataṅhā) xen
vào làm cho lạc thọ thuần túy bị biến đổi mà
thành uẩn:
- Khi lạc đang tồn tại thì
sợ lạc biến mất.
- Khi lạc tồn tại quá lâu
thì sinh chán nản, chán chường.
- Khi lạc biến mất thì sinh ra nuối
tiếc, sầu muộn.
Sợ hãi, nuối tiếc, chán chường…
chính là nỗi khổ mới, tức sự khổ do lạc biến đổi, đổi khác; đây mới chính
là hoại khổ hay lạc thọ uẩn.
2.2.3. Xả
thọ (upekkhāvedanā).
Lúc không có khổ thọ và lạc thọ tức là xả thọ, chúng ta thường không giữ nó được lâu, chạy đi tìm kiếm những đối tượng ưa thích khác... Chính trạng thái tâm lăng xăng tìm kiếm, lăng xăng tạo tác này tạo nên cái khổ gọi là hành khổ (saṅkhāradukkha). Sự thúc động ấy là do tâm si hay dục ái chi phối, chạy đi tìm kiếm những đối tượng ưa thích, rồi lại rơi vào trường hợp của khổ, lạc ở trên để tạo nên uẩn khác.
2.3- Thọ
uẩn có thể đoạn tận:
Quan sát tất cả các thọ khổ,
lạc, xả, hỷ, ưu ở trên, ta thấy chúng đều có những cảm thọ bình
thường, thuần túy – nhưng khi chúng có sự tham dự của bãn
ngã, ví như tôi đau, tôi nhức, tôi vui, tôi buồn... thì tất thảy
chúng đều biến thành thọ uẩn. Lấy tuệ minh sát nhìn ngắm
thì chúng vốn là không, không thực có, chỉ do ta tự chế biến đẻ ra mà thôi.
Khi ta thương một người thì vẻ
mặt hay tiếng nói, cười cả sự đi, đứng... gì của người ấy cũng dịu
dàng, thân thương cả. Trái lại, đấy là người mà ta ghét thì vẻ
mặt hay tiếng nói, cười, đi, đứng... gì của người ấy cũng khiến ta khó
chịu, bực bội cả. Như vậy, chính tình cảm chủ quan của ta,
đã biến cảm thọ như thực thành dịu dàng, thân thương (lạc) hay
khó chịu, bực bội (khổ).
Vậy, cái mà ta tự chồng lên cảm thọ thực ấy để biến chúng thành lạc hay khổ chính là uẩn, là thọ uẩn. Có câu ngạn ngữ: “Khi thương trái ấu cũng tròn, khi ghét trái bồ hòn cũng méo”; hoặc của cụ Tiên Điền: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” – giúp ta thấy rõ cái uẩn ấy, nó phủ chụp lên thực tại khách quan như thế nào!
3. TƯỞNG (saññā)
Saññā
được hiểu là tri giác, tức là nhận biết tổng quát hình
tướng, hình ảnh, âm thanh, mùi vị... (ngũ trần - sắc đối tượng)
và xác định được nó là cái gì (nhận thức ban đầu).
Ví
dụ:
- Đi
vào một khu vườn, nhìn thoáng qua là đã biết đây là cây cam,
cây mít; đây là lá ổi, lá chanh...
-
Thoáng mùi chiên, xào, kho từ nhà bếp bay ra; ta biết đó là tương kho, mùi dầu
cháy...
-
Vào khu rừng rất nhiều tiếng chim; ta phân biệt được đó là tiếng chim
sâu, kia là tiếng chim cà cưỡng...
Tuy
nhiên, không phải lúc nào tri giác ấy cũng đúng; chúng có thể bị ký
ức, hồi tưởng, tưởng tượng của chúng ta xen vào làm
cho tri giác ấy sai lệch đi.
3.1-Tưởng như thực, hiện tưởng
Nếu
saññā được lái bởi như lý tác ý (yoniso-manasikāra) thì tri
giác ấy là đúng, là hiện tưởng, tức là tưởng đúng đối tượng
như-nó-đang-là, đang xảy ra, đang vận hành, đang diễn tiến. Ví dụ:
Khi nghe tiếng chim, ta lắng nghe trọn vẹn tiếng chim ấy đừng để cho
bất cứ "tưởng" gì xen
vào cả. Đấy được gọi là hiện tưởng được dẫn dắt bởi như lý tác ý.
3.2- Tưởng uẩn (khandhasaññā)
Nếu
saññā được lái bởi phi như lý tác ý (ayoniso-manasikāra) thì tri
giác này bị biến đổi và trở nên sai lầm.
* Bị ký ức, hồi
tưởng xen vào, để cho hình ảnh, âm thanh, mùi
vị... quá khứ chồng lên hình ảnh, âm thanh, mùi
vị... hiện tại làm cho “tri giác đang là” bị biến đổi.
* Bị tưởng tượng xen
vào làm sai lạc đối tượng, biến đối tượng như thực thành đối
tượng khác. Ví dụ:
-
Thấy sợi dây tưởng là con rắn rồi sợ hãi con rắn do mình tưởng tượng
ra (tưởng uẩn ® hành uẩn ® thức uẩn).
-
Thấy bóng cây lay động tưởng là con ma, sợ hãi bỏ chạy (tưởng
uẩn ® hành uẩn ® thức uẩn).
-
Nghe tiếng súng nổ tưởng là tiếng pháo rồi nghĩ đến một đám cưới đông vui
(tưởng uẩn ® hành uẩn ® thức uẩn).
Như
vậy chỉ có hiện tưởng là đúng, là thực khi được lái bởi như lý tác ý. Còn
các tưởng (saññā) khác đều sai lạc, đều do ta chế biến, đẻ ra; các
tưởng chồng chất ấy mới gọi là tưởng uẩn.
3.3- Tưởng uẩn có thể đoạn tận:
Quan
sát những chồng chất (uẩn), những che đậy (ấm) ở trên,
ta thấy con rắn, bóng ma, tiếng pháo nổ... chúng đều không thực có
trong thế giới tự-nhiên-đang-là. Chúng vốn là không, không có, nhưng
chính uẩn đã biến chúng thành có... để sinh ra vui, buồn, khổ, lạc!
4. HÀNH
(saṅkhāra)
Có
ba nghĩa chính:
- Saṅkhāra (hành) được hiểu là tạo tác
các nghiệp thiện, nghiệp bất thiện và nghiệp bất động làm
nên thức tái sanh vào tứ ác đạo, người bất hạnh, người hữu
phúc, trời Dục giới, trời Sắc giới và trời Vô
sắc giới. Saṅkhāra này được dùng trong thập nhị duyên khởi: Vô
minh ® Hành ® Thức...
- Saṅkhāra được dịch là hữu vi,
hàm chỉ các pháp được kết hợp, được cấu tạo, được làm nên. Saṅkhāra
này cũng có nhiều dạng: Một, thế giới vật chất từ hạt
cát đến sơn hà nhật nguyệt, sum la vạn tượng... được kết
hợp bởi các yếu tố, đơn vị vật chất đều được gọi
là hữu vi. Hai, thế giới tinh thần được kết hợp bởi
các yếu tố tâm lý, các trạng thái tâm lý cũng được gọi
là hữu vi.
Cả
hai loại hữu vi trên đều bị chi phối bởi những định
luật tự nhiên của vũ trụ nên những hữu vi ấy
đều vô thường, vô ngã (không có khổ).
Có
một loại hữu vi thứ ba nữa, là loại hữu vi do mình chế
biến, đẻ ra; loại hữu vi do tâm lý, tình cảm, sở
thích, quan niệm chủ quan của mình tự tạo, hữu vi ấy
mới đưa đến khổ (dukkha). Hữu vi này thường được dịch là
hành, hành uẩn; và chính saṅkhāra này mới vô thường, mới khổ.
Nó biến đổi từ thương ra ghét, từ ghét ra hận rồi tạo ra các nghiệp.
Sabbe
saṅkhāra aniccāti (tất cả hành là vô thường).
Sabbe
saṅkhārādukkhāti (tất cả hành là khổ).
Còn:
Sabbe dhammāanattāti (tất cả pháp đều vô ngã). Pháp hữu vi, pháp
vô vi đều vô ngã. Pháp vô vi không phải là pháp cấu
tạo, kết hợp; cũng không phải là pháp do mình đẻ ra, chế biến ra -
nên pháp vô vi là vô ngã nhưng không vô thường và
không khổ. Ví dụ Niết-bàn là pháp vô vi.
4.1. Saṅkhāra là hành. Hành
này là gọi chung cả 50 tâm sở, là hành trong ngũ uẩn.
Sắc (rūpa) |
Thọ (vedanā) |
Tưởng (saññā) |
Hành (saṅkhāra) |
Thức (viññāṇa) |
1 tâm sở |
1 tâm sở |
50 tâm sở |
¯ |
|
52 tâm sở |
89 tâm |
Hành
này là gọi chung 50 trạng thái tâm lý do "tư" điều
động, dẫn dắt.
-
Nếu tâm thiện, tư quy tụ các tâm sở thiện: tín,
niệm, tàm, quý...
-
Nếu tâm bất thiện, tư quy tụ các tâm sở bất
thiện: si, vô tàm, vô quý, trạo cử...
-
Nếu ý nghiệp bất động, tư quy tụ các thiền chi:
tầm,tứ, hỷ, lạc, nhất tâm.
-
Đến 4 đạo, 4 quả, Niết-bàn, tư dần dần mất tác dụng,
được tuệ thay thế.
Do tư
tâm sở chi phối mà hành biến thành hành uẩn. Được tuệ
thay thế thì tất cả đều thanh lương, trong sáng; các trạng
thái tâm lý đều trở thành cái dụng của tâm và trí để sống
cao đẹp, thanh bình và giải thoát giữa cuộc đời. Ví
dụ: tín, niệm, từ, bi, hỷ, xả...
4.2- Hành
uẩn (khandhasaṅkhāra):
-
Nếu sắc, thọ, tưởng... đều nguyên sơ, trong sáng thì saṅkhāra chỉ
là định luật hữu vi cấu tạo, kết hợp tự
nhiên dù vật chất hay tinh thần; nhưng khi chúng
bị biến thành sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn thì hành
uẩn đồng thời khởi sanh do tư chi phối, điều động.
-
Nói cách khác, do tư chủ động điều hành, tập hợp các tâm
sở tương ưng để tạo tác nên nó được gọi là “tập hợp tạo tác” (saṅkhāra),
thiện hay ác, ba cõi sáu đường đều do nó cả.
4.3- Hành
uẩn có thể đoạn tận:
-
Khi hành uẩn biểu hiện ra ngoài qua thân, khẩu thì ta dùng
ngữ, nghiệp mạng để đối trị. Khi hành uẩn khởi động trong tâm
thì đối trị bằng tấn, niệm, định. Khi hành uẩn đã lắng
dịu, hoạt động vi tế hơn qua thân tâm, lúc đó cần
phải có trí tuệ (paññā) chánh kiến (sammā
diṭṭhi), chánh tư duy (sammā saṅkappa) mới hóa giải và đoạn tận
được sự tạo tác của hành uẩn .
5. THỨC
(viññāṇa)
Là nhận
thức, nhận biết đối tượng. Thức (viññāṇa) là tên gọi khác của tâm
(citta) hay ý (mana).
5.1-
Thức như thực:
-
Lúc sự nhận biết ấy còn trong sáng, chưa bị kinh
nghiệm, thành kiến, bản ngã xen vào thì thức ấy là thức như
thực. Nó nắm bắt đối tượng nguyên trạng do mắt, tai, mũi, lưỡi, thân trao qua
mà chưa xử lý.
-
Thức bao hàm tất cả tâm sở, nó đóng vai trò quán xuyến tất
cả tâm sở, chi phối sắc, thọ, tưởng, hành.
- Ngũ
căn tiêp nhận đối tượng là một biểu hiện đơn giản nhất của thức.
-
Thức còn thực hiện một chức năng vô cùng quan trọng đó
là sao chép kinh nghiệm để đưa vào lưu trữ ở kho tiềm
thức.
5.2- Thức
uẩn:
-
Nếu thức bị sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn chi
phối thì thức ấy sẽ biến thành thức uẩn.
5.3- Thức
uẩn có thể đoạn tận:
-
Thật ra chỉ cần trả thức lại cho thức là đoạn trừ được thức uẩn, nói
đúng hơn là đoạn tận uẩn của thức (rối ren, chất chồng của thức) chứ không
phải đoạn tận thức.
-
Nếu thức không bị các uẩn chi phối - nghĩa là do như lý tác
ý dẫn dắt thì thức ấy biến thành kiến, văn, giác, tri như thực;
là thành chánh tri kiến.
II- NGŨ
UẨN GIAI KHÔNG.
1- Từ bài kinh Bāhiya:
Đến
đây, chúng ta đã có cơ sở để xác định rằng, có sắc, thọ, tưởng, hành,
thức như thực, là thế giới đang còn trong sáng, Abhidhamma gọi
là paramatha (chân đế hay đệ nhất nghĩa), Duy Thức gọi
là Viên thành thực. Và có sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng
uẩn, hành uẩn, thức uẩn là do bị tham sân si chi
phối, lý trí, tình cảm chủ quan chen vào nên bóp
méo cái thực ở trên để biến chúng thành uẩn; Abhidhamma gọi thế
giới này là paññatti (khái niệm), còn Duy Thức gọi là biến kể sở
chấp.
Thời Phật, người nào thấy cái thực
nguyên sơ, trong sáng ban đầu ấy, chưa bị vấy nhiễm
bởi biến kế sở chấp – thì người ấy, ngay tại chỗ ấy liền được giải
thóat, đắc quả A-la-hán. Tiêu biểu nhất là bài
kinh trong Tiểu bộ kinh, Bāhiya sutta; tôi tóm tắt như sau:
Lúc ấy, đức Phật rời
khỏi tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana) đi trì bình khất
thực tại Xá Vệ (Sāvatthi) thì có một vị bà-la-môn đã già, tên là
Bāhiya Dāraciriva, đi tìm kiếm ngài để hỏi pháp. Khi ấy, đức
Phật đang ôm bát đi vào giữa các xóm nhà thì Bāhiya
Dāraciriva đến gần bên, cúi đầu xuống chân ngài:
- Bạch Thế Tôn! Thế
Tôn hãy thuyết pháp cho con, Thiện Thệ hãy thuyết
pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu
dài.
- Nay là không phải thời, này
Bāhiya! Ông không thấy là Như Lai đang đi trì bình khất
thực đó sao?
- Con thấy, bạch Thế Tôn! Nhưng mạng
sống của đức Thiện Thệ và mạng sống của chính con không biết là nó sẽ
xảy ra lúc nào. Bởi vậy, mong Thế Tôn thuyết pháp cho con nghe.
Như thế, đức Phật đã từ
chối lần thứ hai, lần thứ ba, sau đó, ngài đã thuyết ngắn gọn tinh yếu
của giáo lý thoát khổ như sau:
“- Vậy này Bāhiya! Ông cần
phải học tập như sau: Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe,
sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái
thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri.
Như vậy, này Bāhiya! Nếu trong cái
thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ
tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri –
thì không có ông ở trong ấy, ông không là chỗ ấy (ý nói không có bản
ngã của ông ở trong ấy, ví dụ khi một cảm thọ đau thì chỉ là
một cảm thọ đau chứ không có cái gọi là “tôi đau” ở trong đó)! Do vậy, này Bāhiya! Ông không là đời
này, ông không là đời sau, ông không là đời chặng giữa. Như vậy là
đoạn tận khổ đau”.
Nhờ lời thuyết pháp tóm
tắt này của Thế Tôn, tâm của Bāhiya Dāruciriya được giải
thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
Đức Phật rời chân
không bao lâu thì nghe tin có một con bò điên đã húc chết lão
bà-la-môn già, ngài bảo với chư vị tỳ-khưu:
- Này các thầy tỳ-khưu! Hãy đến đấy,
lấy thân xác Bāhiya Dāruciriya, đặt lên trên cái chõng, đem đi hỏa thiêu,
rồi xây tháp lên trên. Lão bà-la-môn kia là một vị đồng phạm hạnh với
các thầy đã qua đời!
Và thế là đức Phật tuyên
bố Bāhiya Dāruciriya đã nhập Niết-bàn!
Đọc
đoạn kinh văn trên, chúng ta thấy rằng:
-
Trong cái thấy, chỉ là cái thấy. Đây là cái thấy nguyên sơ, trong sáng...
(sắc như thực, paramattha), không có uẩn.
-
Trong cái nghe, chỉ là cái nghe. Đây là cái nghe nguyên sơ, trong
sáng (như trên).
Và
các cảm quan kia cũng đều như vậy... không có uẩn, năm
uẩn đều không, chúng là tên gọi khác của chánh kiến. Đây
là chánh kiến vô lậu, không có sanh y, tên gọi khác của chánh
trí, giải thoát, giác ngộ, Niết-bàn.
“Quán-Tự-Tại
Bồ-Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu
kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách...”.
Theo
tôi, bài bát-nhã tâm kinh quan trọng nhất là ở đoạn kinh văn ấy; còn
phần còn lại chỉ là sự phủ định triệt để của tánh không, phá bỏ
mọi chế định ước lệ của các phạm trù khái niệm.
Đầu
tiên là Quán Tự Tại Bồ Tát mà ai cũng hiểu là Bồ Tát Quán
Tự Tại (tên gọi khác của Bồ Tát Quán Thế Âm), nhưng tôi lại hiểu
khác. Bồ Tát, chữ Nam phạn là Bodhisatta; satta là hữu
tình, là chúng sanh; bodhi là giác hay trí tuệ. Vậy có thể
có hai nghĩa, một, “chúng sanh có trí tuệ, hai, là hữu
tình giác! (nếu dịch là giác hữu tình lại mang nghĩa khác,
là giác ngộ cho chúng sanh).
Quán
là nhìn ngắm, soi chiếu, quán chiếu. Tự tại là ở ngay bây giờ
đây, thân tâm của mình đây. Vậy, nghĩa cả nhóm từ “Quán tự tại bồ tát” có
nghĩa là: Chúng sanh có trí tuệ, soi chiếu trọn vẹn thân
tâm của mình ngay bây giờ đây.
Khảo
sát tiếp theo: Hành thâm bát-nhã ba-la-mật-đa thời.
Hành
thâm có nhiều người dịch là đi
sâu. Không phải vậy, hành là thực hành, còn chữ thâm, nguyên văn
chữ phạn là gaṃbhirā có nghĩa là sâu thẳm, sâu xa; vậy gaṃbhirā
paññāpāramitā (pāḷi) là thực hành trí tuệ sâu mầu của bờ kia.
Vậy
cả đoạn, như sau: Chúng sanh có trí tuệ, quán chiếu thân
tâm ngay bây giờ đây, lúc sử dụng trí tuệ sâu mầu của bờ
kia, soi thấy năm uẩn đều là không nên chấm dứt (vượt qua)
tất thảy mọi khổ ách.
Đến
đây, vấn đề tụ lại nơi “năm
uẩn đều là không” tương tự bài kinh Bāhiya ở trên.
Nếu
ai có cơ duyên, có thì giờ đọc thêm kinh Tiểu
Không, Đại Không, Đại Duyên của Nikāya thì còn thấy rõ thêm tánh
không rốt ráo, cuối cùng là giải thoát tham sân
si, phiền não, giác ngộ, giải thoát, Niết-bàn.
Hóa
ra, tất cả đều là tu quán minh sát tuệ (vipassanā) để thấy
rõ vô thường, vô ngã của tâm và pháp nhưng cách nói khác
nhau, diễn đạt khác nhau mà thôi.
Ghi chú:
(1) Sắc là sắc thân vật
lý; thọ là cảm giác; tưởng là tri giác, hành là các trạng
thái tâm lý; thức là ý thức, nhận thức – có chức
năng thu gom hoặc xử lý các tình huống, các đối tượng.
(2) Tuệ (paññā), tuệ
tri là cái biết của tuệ (pajānāti).
(3) Liễu tri ( ājānāti) là
cái thấy biết rốt ráo, bằng giác trí (bodhiñāṇa) hay bằng tuệ
giác của bậc đã giác ngộ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét