Thích Nữ Hằng Như
I. DẪN NHẬP
Phật sử ghi lại rằng, vào
canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát
khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân
hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn
diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ
đời này sang đời khác, và đời này con người ta
vẫn tiếp tục huân
tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu
hoặc” hay “nghiệp” là nguyên
tố nhận chìm con người trong luân
hồi sanh tử, là nguyên nhân của
khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì
phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con
đường nào khác!
Cũng trong canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã chứng ngộ bốn chân
lý, đó là Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Qua bốn đế này, chúng
ta tạm hiểu là con người sinh
ra đời không ai hoàn toàn vui vẻ hạnh phúc.
Trong cuộc sống, chúng ta thường gặp
những điều bất như ý khiến chúng ta buồn khổ nhiều hơn là an vui, nên gọi
là Khổ đế. Nhưng khổ không phải tự nó có, mà khổ do nhiều nguyên nhân gây nên. Muốn diệt khổ phải tìm cho ra những nguyên nhân gây khổ để từ bỏ. Những nguyên nhân này
gọi là Tập đế. Khi không còn Tập đế nữa thì con
người sẽ được giải thoát hết
khổ, gọi là Diệt đế. Nhưng làm sao để diệt
các nguyên nhân gây ra khổ, nghĩa là
làm sao đoạn diệt “lậu hoặc”, đức Phật đưa ra phương
pháp tu tập gọi là Đạo đế. Đạo đế là “Con đường chân
chánh” gồm tám nhánh. Trong kinh gọi là “Bát Chánh Đạo” hay “Bát Thánh Đạo” là con đường tu tập đưa đến giải thoát giác ngộ của
các bậc Thánh gồm: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh
niệm và Chánh định. (Xem
“Tương Ưng Giữa Giới-Định-Huệ và Bát-Chánh-Đạo” trong quyển “Trên Đường Về Nhà”
cùng tác giả).
Bài toán khó đã được đức Phật tìm ra phương trình giải đáp, phần còn lại, chúng sanh muốn đạt
được cứu cánh, phải tự mình áp dụng tu tập,
trải nghiệm trên thân tâm của mình.
Tất cả mọi
người, mọi loài sinh ra ở thế gian này,
đều trải qua chu kỳ “Sinh,
Già, Bệnh, Chết”. Đức Phật nói “Sinh
(sống), Già, Bệnh, Chết” là bốn cái khổ to lớn đè nặng trên mỗi con
người. Trong bài viết này chúng ta chỉ
đề cập đến nỗi khổ cuối cùng của đời người đó là cái chết. Nói về chết, thì ai
cũng phải chết. Ngay cả đức Phật hay
các vị Thánh Tăng đệ tử của Ngài cũng không thoát khỏi cái chết. Đúng rồi, ai cũng chết!
Nhưng không phải mọi cái chết đều giống nhau. Có cái chết nhẹ
nhàng thảnh thơi như kiểu chết của một
số thiền sư bỏ thân phàm một cách nhẹ
tênh như cởi bỏ chiếc áo bông cũ rách mùa đông để
thay chiếc áo mới, hay cái chết quằn quại đau đớn sợ hãi của những con
người phàm tục tham sống sợ
chết?
Là người phàm
phu, đương nhiên chúng ta khó
tránh được sự sợ hãi khi nghĩ đến cái
chết. Chết là một nỗi thống khổ trong
bốn cái khổ to lớn và vô số cái khổ
khác mà con người phải chịu đựng trong cuộc sống ở thế gian này. Đối
diện với cái chết con người thường lo lắng không biết lúc ra đi, mình sẽ đi như thế
nào cho được an lành thanh thản? Và
sau đó thì đi về đâu trong ba cõi sáu
đường? Đương nhiên kinh nghiệm này chúng ta chưa trải
qua nên không biết được cái chết sẽ đến với chúng ta ra sao? Nhưng là người Phật tử, chúng ta có niềm tin vào những lời dạy của đức Phật. Đức Phật dạy
rằng con người sống bằng thực dưỡng
và hơi thở. Chỉ cần một niệm thở ra và không hít vô nữa, thì người đó sẽ chết.
Ngay khi đó thần thức lập tức tái sanh qua đời sống khác. Còn tấm thân tứ đại sẽ tan rã theo thời gian. Nhưng mà trước khi chấm dứt hơi thở thì
tâm trạng của người sắp chết như thế nào?
Chúng ta, không ít thì nhiều
cũng đã từng chứng kiến sự ra đi của
người thân quen. Hoặc đã từng nghe nói có những vị tu hành lâu năm, mà khi ra đi rất vất vả, ngược lại có những người cả đời không biết một câu kinh tiếng kệ, mà ra đi
một cách an ổn nhẹ nhàng. Tại sao thế?
Người hiểu Phật pháp sẽ trả lời rằng: “Đó là do nghiệp nặng hay nhẹ của mỗi người”. Trong
bài chia sẻ này chúng ta cùng
nhau tìm hiểu khái quát về ảnh hưởng của nghiệp tác động vào cái chết của mỗi người, nhất
là tìm hiểu thế nào là nghiệp nặng, thế nào là nghiệp nhẹ?
II. NGHIỆP LÀ GÌ?
Nghiệp là những ý nghĩ, tư duy, lời nói và hành động được cất giữ trong ký ức
của con người. Những ý nghĩ tốt hay xấu, những việc làm thiện lành hay ác độc, những lời nói êm ái hay xỉa xói kết hợp với những đam
mê ghiền nghiện từ nhiều đời trước, theo ta sang tới đời này
cùng với những tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến... mang đến hạnh phúc hay phiền não cho chính mình, hay cho những
người xung quanh mình. Đó là nghiệp cũ
đã đeo theo mình, cộng thêm nghiệp mới
tạo ra trong đời này. Nghiệp là
những nguyên tố đóng góp làm ô nhiễm tâm, trong nhà Phật gọi chung là “lậu hoặc”. Hễ còn “lậu hoặc” là
còn sinh tử!
Nghiệp gây ra dù cố tình hay vô tình, dù quên hay nhớ, tất cả đều
được cất giữ trong ký ức của người gây ra nghiệp. Đức Phật dạy rằng: “Con
người tạo ra nghiệp và thừa tự nghiệp mình đã gây ra”. Nghiệp
cất giữ trong ký ức lâu ngày sẽ có năng lực ảnh hưởng tới đời
sống của con người gọi là
“Nghiệp lực”.
Người mang nghiệp
nặng là người đã từng có những hành động xấu ác, trong tâm người đó
luôn nặng nề vẩn đục, luôn nóng nảy bất an,
có khi buồn khổ vì bứt rứt hối hận điều gì đó còn ẩn chứa trong tâm không thể nói ra trước khi chết. Lại có những
dạng người trong giờ phút lâm chung phải
chịu nhiều đau đớn, muốn chết ngay cũng
không chết được. Đó là những người khi sống hành
nghề đồ tể, giết bò, giết heo hay hại người đến chết. Những tiếng
thét la đau đớn hằng ngày của những con
người hay con vật bị ép tử đó, lúc này vây quanh ám ảnh, khiến tâm thức người
sắp chết vô cùng hỗn loạn sợ hãi.
Khi chết, cái tâm nặng nề đó bị nghiệp lực xấu
cuốn hút sanh về đường dữ mà thuật ngữ trong
kinh gọi là “ác thú”. Người mang nghiệp nhẹ là những người khi sống
tạo ra nghiệp tốt nhiều hơn nghiệp xấu. Tóm lại, tùy theo nghiệp nặng hay
nhẹ mà sự ra đi của người đó được nhẹ nhàng an
nhiên hay khó khăn, chật vật,
đau khổ?
III. CÁC LOẠI NGHIỆP QUYẾT
ĐỊNH SỰ TÁI SANH
Trong Phật giáo có bốn loại nghiệp quyết định sự tái
sanh của người sắp chết. Đó là Thường
nghiệp, Tích lũy nghiệp, Cực trọng nghiệp và Cận
tử nghiệp.
A. THƯỜNG NGHIỆP
Thời nay, khoa học nói rằng một người có bộ
não bình thường, ký ức tế bào não sẽ ghi nhận tất cả những gì con người làm hằng
ngày qua tác ý, lời nói và hành động. Ngày xưa, đức Phật giảng
rằng Thường nghiệp là những gì chúng ta làm hằng
ngày qua ý, lời và hành động thành thói
quen, được cất giữ trong tàng thức. Con người gây ra nghiệp gì thì sẽ thừa hưởng hậu quả của
nghiệp ấy! Thường nghiệp có hai loại: Thiện
và ác.
1.Thường nghiệp thiện: Còn gọi là “Tập
quán nghiệp”. Tập quán nghiệp là những việc
thiện hay ác mà người ta làm hằng ngày theo thói quen không từ
bỏ được. Thường nghiệp thiện
có thể nói là cuộc sống hằng ngày của con người, là việc làm thiện
lành đóng góp vào sự phát triển của đời sống cộng đồng xã hội như
những vị Bác sĩ cứu người, như những
vị hành nghề giáo
dục, truyền dạy văn hóa giúp học sinh mở mang kiến
thức giúp đời, hay các nhà nghiên cứu tìm tòi phát minh trên nhiều mặt y học, khoa học, thiên văn, vật lý,
kỹ thuật v.v... giúp cải thiện cuộc
sống nhân loại trên hành tinh này.
Chẳng hạn như mới đây trong một thời gian ngắn các nhà bác học đã nỗ lực phát
minh ra các loại thuốc chích ngừa
giúp xoa dịu sự kinh hoàng của nhân
loại trước căn bệnh lây lan Covid-19 đã lấy đi mạng sống của gần 2 triệu người trên toàn
cầu… Về đạo đức, như những người sống
trong gia đình là những người
con hiếu thảo thuận
hòa, chăm sóc ông bà, cha mẹ già
yếu với lòng trân trọng biết ơn người sanh ra và dưỡng dục mình. Là người chồng, người vợ chung
thủy. Là bậc cha mẹ biết hy sinh vì con cái. Ra ngoài xã hội, là người hay làm việc
thiện, đóng góp ít nhiều công sức vào những công tác thiện nguyện giúp người cơ nhỡ đói
nghèo bất hạnh. Về tâm linh là người hay đến chùa nghe kinh nghe
kệ, tham dự những khóa học Phật pháp hay nhập
thất chuyên tu nhằm chuyển đổi nhận thức, chừa bỏ tật xấu, siêng làm việc lành tránh việc ác. Những việc phước báu như
thế lâu ngày sẽ tạo nên sức mạnh gọi
là “Nghiệp lực” thúc đẩy người
đó khi lâm chung được sanh trở lại Cõi Người hay
lên Cõi Trời.
2. Thường nghiệp ác: Ngược lại
với Thường nghiệp thiện là Thường nghiệp ác. Những người chuyên sống bằng
các nghề mang lại sự đau khổ, chết chốc như
thọc huyết trâu, bò, heo, chó, hành nghề buôn
lậu, buôn bán người, buôn bán trẻ em, buôn bán sì-ke ma túy, độc dược,
hay làm việc trong các kỷ nghệ chế tạo sản xuất súng đạn là những vũ khí giết
người v.v... Những Thường nghiệp ác
này kết tựu thành lực, và lực này đặc biệt sẽ tác động vào con
người khi lâm chung tái sanh vào cõi xấu.
B. TÍCH LŨY NGHIỆP
Có sách ghi là “Bảo lưu
nghiệp”, tích lũy hay bảo lưu là
giữ lại. Tích lũy nghiệp là
những việc làm nhỏ nhặt, tốt hay xấu,
làm rồi mà không để tâm nhớ đến, nhưng
nó vẫn được cất giữ trong tàng thức. Tích lũy nghiệp tuy không có công năng mạnh mẽ như Thường nghiệp, nhưng khi đủ lực, nó cũng ảnh hưởng đến cuộc sống của con người, bởi hễ gây nghiệp thì phải thọ quả nghiệp
mình gây ra.
1. Tích lũy nghiệp lành:
Chẳng hạn như một người đi đường thấy cây
đinh liền lượm lên mang về nhà cho vào thùng rác.
Người lượm đinh lúc đó không nghĩ là mình đang tạo nghiệp tốt, chỉ là không
muốn mình dẫm lên cây đinh. Nhưng hành động này vô tình giúp cho những người
khác không bị thương khi vô ý dẫm phải. Đây chính là hành động thiện lành.
Hành động này đã được cất giữ trong tàng thức của
người đó, mặc dù sau một thời gian người
đó không còn nhớ tới và cũng không có cơ hội thường lượm đinh nữa! Một thí dụ khác, như giúp một cụ già băng qua đường,
hay tặng cho người ăn xin vài đồng, hoặc thấy con mèo sắp vồ chú chim, người đó
nhanh chân xua đuổi mèo giúp con
chim thoát chết. Những việc làm này khác thời điểm, khác không gian, người làm không mấy chú ý quan tâm, nên sau một thời
gian thì quên bẵng đi. Tuy vậy, những việc
làm thiện nho nhỏ, tích lũy lâu
ngày sẽ thành lớn, gọi là “tích lũy nghiệp thiện”, như nước rỉ từng
giọt trong lu chứa, lâu ngày nước sẽ đầy lu.
2. Tích lũy nghiệp xấu:
Là những việc
làm ác ý hay không ác ý, khiến tổn thương những sinh linh khác, như trong nhà có mấy con
gián cảm thấy bực
mình đập chết. Ngoài sân có mấy ổ kiến mình rải thuốc hoặc xịt nước
cho nó đi chỗ khác. Vô ý dẫm đạp côn
trùng nhỏ dưới chân v.v... Trong cuộc mưu sinh hằng
ngày thỉnh thoảng có
những va chạm, nói năng xúc phạm người này, đụng chạm người khác, hay
trong sở làm mình đối xử không công bằng,
bênh vực người này, ép bức người kia, khiến người này vui, người kia tổn thương v.v… Lâu ngày quên mất!
Tất cả những việc nhỏ, lớn, dù thiện dù ác,
dù cố ý hay tình cờ, nhớ hay không nhớ... đều tích lũy trong tàng
thức của mình tạo thành nghiệp. Khi năng
lực Tích lũy thiện mạnh tự dưng
một ngày đẹp trời gặp người tốt giúp đỡ mình vô vụ lợi, hoặc gặp may mắn trong công ăn việc làm, hay xui khiến đang
đứng chỗ này bỗng dưng dời sang chỗ khác không lý
do, lại tránh được tai nạn.
Khi nghiệp ác tích
lũy nhiều, đủ năng lực, nó
sẽ xuất hiện hỗ trợ Thường nghiệp ác, khiến cho người gây nghiệp trở
tay không kịp, gặp chuyện xui rủi hay tai nạn bất
ngờ. Nói chung, những may rủi họa phước xảy ra bất chợt giống như tình cờ đó, một phần có thể do Tích lũy nghiệp thiện hay ác thúc đẩy.
Tích lũy nghiệp không
có sức mạnh lộ
diện rõ ràng như Thường nghiệp, nhưng nó có sức mạnh giúp đỡ hỗ trợ hay ngăn cản những Thường
nghiệp. Biết như vậy, chúng ta chớ xem thường những Tích
lũy nghiệp này.
C. CỰC TRỌNG NGHIỆP
Cực trọng nghiệp là nghiệp có năng lực mạnh mẽ, cho Quả vượt trội hơn các nghiệp khác. Có hai loại: Cực trọng nghiệp thiện và Cực trọng nghiệp ác.
1. Cực trọng nghiệp ác:
Trong Kinh văn, đức Phật dạy có năm cực
trọng nghiệp ác là: Giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, làm Phật bị thương và
chia rẽ hòa hợp Tăng. Ngày nay chỉ còn
ba Cực trọng nghiệp, vì đời này không có vị
A-la-hán, không có Phật. Người nào giết Cha, hay giết Mẹ hoặc gây chia rẽ Tăng đoàn thì cho dù người ấy làm nhiều việc tốt
như đóng góp tiền tài vật chất xây cất
chùa chiền, như góp công góp của đúc chuông, đúc tượng Phật, tượng Bồ-tát, sửa đường, xây cầu,
đào giếng, giúp nuôi trẻ mồ côi, giúp
nuôi người già neo đơn v.v... nhưng lỡ phạm một trong ba cực ác này thì khi
chết bị đọa liền địa ngục không ai cứu
nổi.
2. Cực trọng nghiệp thiện:
Có hai quả Cực trọng nghiệp thiện.
a) Thứ nhất là người nào cả đời thường làm những
việc phước đức lớn lao. Khi thân hoại mạng chung sẽ được
sanh lên cõi Trời ngay tức khắc.
b) Quả thiện cực trọng thứ hai là đắc các tầng Thiền. Nếu trong
giây phút lâm chung, người đó đắc thiền Định, thì Cực trọng
nghiệp thiện này đưa người đó lên cõi Phạm Thiên liền. Còn
những tội lỗi trước lúc chưa đắc Định hay những Thường
nghiệp khác nếu có, không kịp trổ Quả trong lúc này.
D. CẬN TỬ NGHIỆP
Là nghiệp tạo ra ngay trước lúc chết, có năng lực vô
cùng mạnh mẽ, ưu tiên trả Quả trước cả “Thường
nghiệp” và “Tích lũy nghiệp”. Thí dụ như một
sát-na trước khi lâm chung mình đang nghĩ đến điều tốt đẹp,
chẳng hạn như tưởng nghĩ đến hình ảnh đức Phật, đến một cảnh
chùa quen thuộc, hoặc đang nghe một bài kinh, hay đang niệm
Phật, hoặc đang trong thiền Định... Nếu ngay lúc đó chấm dứt hơi
thở, thức cuối cùng do nghiệp lành thúc đẩy sanh về
cõi lành ngay tức khắc.
Nếu tâm người sắp chết xuất hiện những sân
hận thù ghét, những bực tức khó chịu, thì thức cuối
cùng này đưa thần thức tái sanh đến những đường dữ, bởi
những Thường nghiệp lành chưa đủ mạnh để vượt qua Cận tử
nghiệp.
Nếu có nhiều phước báu gặp Cận tử nghiệp tốt, thì
người sắp lâm chung ra đi nhẹ nhàng. Tuy nhiên cũng
có trường hợp “Thường nghiệp ác” quá mạnh với sự hợp
tác của “Tích lũy nghiệp ác” sẽ trồi lên đẩy Cận tử
nghiệp tốt yếu ớt qua một bên, và dẫn tâm
thức đi tái sanh vào cõi xấu ngay tức khắc, hoặc
vả Thường nghiệp thiện gặp duyên may trồi lên tác động tử
thức tái sanh vào cõi lành. Nên thật khó biết được Cận tử
nghiệp của mình ra sao, vì thế lúc sinh thời nên tu tập tạo nghiệp
lành tránh nghiệp dữ, để mình có tư lương thiện lành
mạnh mẽ chuẩn bị cho lúc cuối đời.
Đời nay, chúng ta thấy có nhiều gia đình khi
có thân nhân sắp qua đời đã mời quý Thầy đến khai thị, tụng
kinh, niệm Phật hộ niệm. Việc làm này có giá
trị là giúp cho người sắp qua đời nghĩ nhớ đến những điều lành, hướng tâm
đến Phật, buông bỏ tất cả những tình cảm luyến ái của
cải trần gian để nhẹ nhàng ra đi. Trong giây phút Cận tử
nghiệp mà tâm thần được an ổn, ý thiện xuất
hiện ngay lúc đó sẽ được tái sanh về cõi lành. Đó là tự mình cứu
lấy mình, chứ những người hộ niệm xung quanh chỉ hỗ trợ giúp
mình mà thôi!
IV. BA GIAI ĐOẠN XUẤT HIỆN TRONG TÂM NGƯỜI
SẮP LÂM CHUNG
Theo lời dạy của các bậc tôn túc, thì khi người
sắp lâm chung thường có ba giai đoạn hiện ra trong tâm
người sắp tắt thở. Thứ nhất là Thường Nghiệp; thứ hai là Nghiệp
tướng; thứ ba là Thú tướng.
1. Thường nghiệp:
Thường nghiệp nào mạnh nhất sẽ xuất hiện trong
giờ phút lâm chung. Nghiệp này thúc đẩy thức đi tái sanh.
2. Nghiệp tướng:
Tướng là hình ảnh. Nghiệp tướng là
những hình ảnh liên hệ đến Thường nghiệp. Nếu Thường
nghiệp thiện thì những hình ảnh thiện lành hiện
ra trong tâm người sắp làm chung. Chẳng hạn như người ấy thấy mình đang
dạo chơi trong một rừng hoa, đang tụng kinh niệm Phật, đang đọc quyển
sách hay, đang lắng nghe tiếng chuông chùa v.v... Nếu Thường
nghiệp ác xuất hiện thì trong tâm người sắp mất sẽ thấy
những hình tượng ghê gớm dữ dằn chẳng hạn như thấy một hồ máu chận
trước đường đi, thấy mình lạc vào khu rừng âm u, tối tăm không
biết lối ra, hay thấy những con thú dữ đang gầm gừ muốn xé xác mình
v.v...
Đó là những hình ảnh xấu hay tốt hiện
ra trong tâm người sắp mất tùy theo sự thúc
đẩy của Thường nghiệp.
3. Thú tướng:
Khi Nghiệp tướng phát sanh thì tâm thức tái
sanh nắm bắt cảnh giới tái sanh tương
ưng ngay trước mắt tức khắc. Thú tướng là nơi tử thức
sẽ tái sanh.
Thí dụ như “Thường nghiệp lành” xuất hiện,
thì “Nghiệp tướng lành” hiện ra trong tâm người
sắp lâm chung, toàn những cảnh thanh nhàn u nhã, tâm người đó
nhẹ nhàng, hoan hỷ, thì “Thú tướng” nắm bắt
ngay chỗ tương ưng, hiện ra cảnh giới mà người đó
sẽ tái sanh, có thể sanh lên làm Người hay được thăng
thiên lên cõi Trời.
Nếu như sống trên đời, mình phạm quá nhiều tội ác, giết
người hại vật. Khi sắp chết, năng lực “Thường nghiệp ác” xuất
hiện, “Nghiệp tướng xấu” hiện ra những cảnh ghê rợn,
khiến người sắp chết hoang mang sợ hãi. Ngay lúc đó, “Thú tướng” xuất
hiện một trong bốn ác đạo mà người đó sẽ tái sanh vào
đời kế tiếp.
Gặp “Nghiệp tướng” này, người sắp lâm
chung rất cần sự hộ niệm của mọi người để nhắc
nhở tâm thức người này nương tựa vào lời niệm Phật, lấy
lại sự bình tỉnh sáng suốt mà ra đi.
Làm sao biết được hình ảnh nào xảy ra trong tâm người
sắp mất? Tạm trả lời là nếu hình ảnh ghê rợn xuất
hiện trong tâm thì khuôn mặt người sắp mất lộ nét sợ hãi, chừng
như cưỡng lại không muốn chết. Nếu hình ảnh an vui nhẹ
nhàng xuất hiện trong tâm, thì nét mặt của người sắp chết lộ
nét thanh thản tươi tắn, ra đi nhẹ nhàng.
V. KHI NÀO “NGHIỆP” TRỔ “QUẢ” ?
Chúng ta biết tất cả những suy nghĩ, nói năng hay hành
động dù tốt hay xấu đều được cất giữ trong ký ức tạo thành Nghiệp. Tất cả
những hành vi tạo tác qua thân, miệng, ý ấy chính là Nghiệp, là Nhân.
Khi đủ duyên thì Nhân trổ Quả. Trong cuộc sống của chúng ta Quả trổ
ra rất nhiều lần, có khi nhẹ, có khi nặng, có khi trổ ngay trong
đời này hoặc trổ ở đời sau… Nghiệp được phân biệt theo thời
gian trả Quả có bốn loại:
1. Nghiệp trả Quả tức khắc, còn gọi là Hiện
nghiệp:
Là Nghiệp gây ra trong đời này, trước sau gì cũng phải
trả ngay trong đời này.
2. Nghiệp trả Quả tiếp theo:
Sau khi lìa bỏ kiếp sống hiện tại, tái
sanh vào kiếp tới, mới trả Nghiệp gây ra trong kiếp này.
3. Nghiệp Vô Tận:
Là Nghiệp trả Quả sau kiếp tái sanh, cho
đến khi chấm dứt vòng luân hồi sinh tử.
4. Nghiệp Vô Hiệu:
Nếu “Nghiệp Tức Khắc” không đủ duyên trổ Quả
trong kiếp này thì trở thành Vô hiệu. Nếu “Nghiệp cho
Quả trong kiếp sau” không đủ điều kiện thuận
lợi để trả thì trở thành Vô Hiệu. Nhưng “Nghiệp Vô Tận” thì
không thể Vô Hiệu được. Nghiệp này tồn tại mãi cho
đến khi chấm dứt vòng luân hồi mới ngưng.
Tóm lại, khi “Nghiệp trả Quả tức khắc” và “Nghiệp trả
Quả trong kiếp tới” không đủ duyên thì chúng trở nên Vô
Hiệu. Riêng “Nghiệp Vô Tận” sẽ theo chúng sanh từ
đời này sang đời khác. Khi thì làm Người, khi thì làm Trời hoặc sinh ra trong
các cảnh Khổ để trả nghiệp cho tới khi nào chấm dứt luân hồi. Tất
cả chúng sanh đều có kho chứa Nghiệp Vô Tận này.
Gặp hoàn cảnh hay cơ hội thuận tiện Nghiệp sẽ trồi lên
khiến ta nhận Quả tốt hay xấu do chính ta gây ra từ nhiều đời nhiều kiếp.
VI. THẾ NÀO LÀ NGHIỆP BẤT THIỆN VÀ NGHIỆP THIỆN ?
Sống ở đời thật khó mà giữ không tạo Nghiệp. Nếu
không tạo Nghiệp thì chúng ta đã không sanh làm Người trong
đời này. Mà cho dù sanh ở đâu? Cõi lành hay cõi dữ, thì đó cũng là
cách chúng ta chết đi rồi tái sanh vào một trong các cõi đó
để thọ nghiệp. Sanh cõi lành là nhờ chúng ta đã tạo nhiều điều
lành. Còn sanh vào đường dữ là do chúng ta đã tạo nhiều nghiệp dữ qua
thân, khẩu, ý. Có mười loại Nghiệp dữ hay Nghiệp bất thiện như sau:
- Ba nghiệp bất thiện về Thân:
1) Nghiệp sát sanh: Là giết người, súc vật và ngay cả những côn
trùng bé nhỏ. Người nào giết hại một hay nhiều chúng sanh là người đó
đã tạo Nghiệp ác.
2) Nghiệp trộm cắp: Là lấy bất cứ vật gì mà chủ nhân không đồng ý.
Lường gạt giờ làm việc, làm ít khai nhiều để ăn lương cũng là hành
động trộm cắp.
3) Nghiệp tà hạnh: Là thông dâm với người không phải là vợ hay
chồng của mình, hãm hại hiếp dâm người khác hay có những hành động bất
chánh tà vạy đối với mọi người và ngay cả với
chính bản thân mình. Ngoài ra, đánh đập người hay súc
vật để thỏa mãn thú tính của mình cũng thuộc về tà hạnh.
- Bốn nghiệp bất thiện về Khẩu:
1) Nghiệp nói dối: Chủ tâm nói không đúng sự thật gây tai hại, làm
mất nhân phẩm hay khiến người khác lâm vào tình trạng hiểm
nguy.
2) Nói lời đâm thọc: Với mục đích gây chia rẽ người khác.
3) Nói lời hung dữ: Dùng lời hung dữ, cộc cằn, thô lỗ thóa
mạ khiến người khác bị tổn thương.
4) Nói lời vô ích: Dùng lời hoa mỹ để tự tôn vinh mình, hoặc nói
chuyện trên trời dưới đất không giúp ích gì cho việc tu
tập thoát khổ giác ngộ.
- Ba nghiệp về Ý:
1) Tham (lam): Có tâm muốn chiếm đoạt vật sở hữu của người khác
làm của mình.
2) Sân (hận): Tâm giận dữ, thù ghét… cầu mong kẻ thù bị
hãm hại, bị thương vong.
3) Si (tà kiến, xử dụng chất say): Xử dụng chất say
khiến tâm không còn tỉnh táo dễ gây ra những hành động hại
mình hại người tạo Nghiệp ác. Chấp tà kiến không tin Nhân
Quả, cho rằng không có Nghiệp nên tự do tạo Nghiệp ác.
Ba nghiệp này chưa phải là hành vi thực
hiện qua thân và lời mà chỉ là ý nghĩ xuất hiện trong Tâm.
Do đó tham, sân, si được gọi là ba Nghiệp về Ý.
Trên đây là mười Nghiệp bất thiện. Ngược lại với bất
thiện là mười Nghiệp lành. Đó là: 1) Không sát sanh,
2) Không trộm
cắp,
3) Không tà hạnh,
4) Không nói dối,
5) Không nói lời
đâm thọc,
6) Không nói lời hung
dữ,
7) Không nói
lời vô ích,
8) Không tham,
9) Không sân,
10) Không Tà
kiến (Si).
VII. KẾT LUẬN
Chúng ta biết rằng từ vô thủy vô chung đến nay,
không một người nào sanh ra đời sống mãi với thời gian. Con
người là một hiện hữu nhỏ nhoi và ngắn hạn trong vũ trụ. Tuổi
thọ lâu nhất của đời người dài lắm cũng chỉ hơn trăm năm đôi
chút. Trong đời sống trầm luân vui buồn đau
khổ này, có ai không tạo nghiệp? Tạo nghiệp thì phải chịu luân
hồi tái sanh để thọ nghiệp đã gây.
Muốn thoát khỏi luân hồi sinh tử, đức
Phật dạy là phải tu tập làm sạch lậu hoặc tức sạch
nghiệp. Mà nghiệp đã gây ra từ nhiều đời nhiều kiếp, đến đời này nghiệp quá sâu
dày làm sao xóa được? Theo đạo Phật thì chúng sanh có
thể tu tập để sạch nghiệp. Đức Phật chỉ cho chúng
sanh 37 phương thức tu tập để hỗ trợ cho việc đoạn trừ lậu
hoặc cũng có nghĩa là làm sạch nghiệp mà chúng sanh đã gây ra,
trong đó phải kể đến Bát Thánh Đạo. Tùy theo căn cơ chúng
sanh chọn cho mình pháp thích hợp để tu tập.
Phương thức tu hành nào của Phật dạy cũng đều thông
qua Giới-Định-Huệ.
Giới là sống đàng hoàng không gây ra những lỗi lầm hại
người, mà hại người cũng chính là tự hại mình. Đó là tránh hành “Mười Nghiệp
Bất Thiện” nêu trên. Cơ bản: “Siêng làm việc lành, tránh làm việc
ác” tức là siêng tạo Thường Nghiệp thiện lành, tránh
gây Thường Nghiệp bất thiện.
Ngoài ra Phật cũng dạy “nên giữ Ý trong sạch”
nghĩa là trong tâm không khởi ý phân biệt tốt xấu hại người
mà nên phát huy tâm từ bi hỷ xả đối với tất cả
mọi chúng sanh với tâm tôn trọng bình đẳng.
Muốn đạt cứu cánh rốt ráo hành giả chọn tu
theo con đường đức Thế Tôn dạy là thực hành “Bát
Thánh Đạo”. Muốn tu đúng, mình cần có Chánh kiến, Chánh tư
duy để phân biệt chánh, tà, tức phân biệt điều thiện
thì làm, điều ác thì tránh. Mình hành thiện bằng cách thực
hành đúng theo Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh
mạng nghĩa là mình giữ Giới, tránh gây những Thường
nghiệp ác qua thân, khẩu, ý. Bên cạnh đó mình giữ Chánh niệm, khi sáu
căn tiếp xúc với sáu trần, giữ niệm Biết không lời
về sáu trần, không để vọng niệm hiện tại xen vào khen chê,
hoặc ký ức quá khứ gây phiền não, hay trí năng rượt
đuổi chuyện chưa xảy ra ở tương lai. Tất cả những hành này đều là nguyên
nhân gây nên Nghiệp xấu.
Ngoài việc giữ Giới trong sạch, hành giả cần
tu thiền Định. Trong trạng thái Định sâu (giới thể trong
sạch) các lậu hoặc sẽ bị cô lập không trồi lên.
Trong trạng thái tâm trong sạch, yên lặng, định tĩnh đó… bất
chợt vọng tưởng khởi lên, hành giả lặng lẽ ghi
nhận các pháp tự đến tự đi, tự sinh tự diệt, mà không phản
ứng gì. Hành giả nhận thức như thật các pháp này
đều vô thường, vô ngã, trống rỗng, hành giả yểm ly không
dính mắc, ngay lúc đó hành giả ở trong trạng
thái Định-Huệ đồng thời, tuệ tri mình thoát khổ giải
thoát.
Nếu ở trong trạng thái này (Cực trọng thiện
nghiệp) khi thân hoại mạng chung hành giả không còn bị ảnh
hưởng của nghiệp, sẽ sanh về các cõi Trời (Dục, Sắc hay Vô
Sắc) hay cõi Người theo nguyện lực, để tiếp tục đời
sống tu tập tiến hóa trên con đường tâm linh. Còn như
lúc sinh thời hành giả sống theo lời Phật dạy chỉ làm
những việc thiện lành tránh làm việc ác, thì Thường
nghiệp lành xuất hiện thúc đẩy hành giả tái
sanh đến cõi lành.
Hiện tại, chúng ta đang sống ở cõi đời tạm bợ này, tuy
là người phàm phu, nhưng trộm nghĩ chúng ta cũng đã tạo
nhiều phước lành ở đời trước nên đời này mới được làm người. Từ mấy ngàn năm
qua, chư Tổ đã kết tập lại lời dạy của đức Phật, kinh
điển ghi rõ lại những chân lý, phơi bày trọn vẹn con
đường Giới-Định-Huệ để hướng dẫn chúng sanh tu tập. Con đường Giới-Định-Huệ
không từ chối bất cứ một ai. Muốn bước lên con đường này để đi
đến giải thoát giác ngộ hay không, là do quyết
định của mỗi người, không ai ép buộc.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
THÍCH NỮ HẰNG NHƯ
Bài giảng trong mùa An Cư tháng 04-2021 tại
Thiền Viện Chân Như, Navasota, Texas, Hoa Kỳ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét