Thích Nhất Hạnh
Phương Pháp Thực Tập Hạnh Phúc
Phần II.
CHUYỂN HÓA VÀ TRỊ LIỆU
(Từ 1 đến 8)
1. Dòng sông cảm thọ
Cảm
thọ đóng một vai trò rất quan trọng trong việc điều khiển mọi tư
tưởng hoạt động của ta.
Cảm
thọ như một dòng sông, trong đó mỗi một cảm thọ là một giọt nước,
giọt nước này nương vào giọt nước kia để tạo ra một dòng sông. Chúng
ta có thể ngồi trên bờ sông để quan sát và nhận diện từng cảm
thọ một khi chúng xuất hiện, trôi nổi rồi mất hút.
Có
ba loại cảm thọ: Cảm thọ dễ chịu, cảm thọ khó chịu
và cảm thọ trung tĩnh. Khi có một cảm thọ khó chịu, ta
có khuynh hướng muốn xua đuổi nó. Tốt hơn hết, ta
nên trở về với hơi thở chánh niệm và quan
sát một cách lặng lẽ để thấy rõ nó hơn: "Thở vào, tôi biết
có một cảm thọ khó chịu trong tôi. Thở ra, tôi biết có một cảm
thọ khó chịu trong tôi. Gọi đúng tên bản chất và nguyên
do của một cảm thọ, như giận, buồn, vui, hay hạnh phúc, giúp
ta nhận diện nó một cách rõ ràng và sâu sắc."
Ta
có thể dùng hơi thở để tiếp xúc vời những cảm thọ và chấp
nhận sự hiện diện của chúng. Nếu hơi thở ta nhẹ
nhàng, êm ái, kết quả của sự thực tập hơi thở ý thức, thân
tâm nhờ đó cũng trở nên nhẹ nhàng, trong sáng, tĩnh lặng và cảm
thọ ta cũng vậy. Ta phải biết quan sát những cảm thọ với
óc không phân biệt: Ta biết là cảm thọ không phải ở ngoài ta
mà cảm thọ chính là ta, ta chính là cảm thọ. Ta không để cảm
thọ làm ta chìm đắm hay hốt hoảng, mà ta cũng không hất hủi nó.
Không hất hủi hay bám víu là thái độ buông xã của
người hành thiền.
Nếu biết săn sóc một cách nhẹ nhàng và ưu ái những cảm thọ khó chịu, ta có thể chuyển hóa chúng thành những năng lượng lành mạnh, có khả năng nuôi dưỡng chúng ta. Bằng phương pháp quan sát và nhận diện, ta có thể được soi sáng bởi những cảm thọ khó chịu, chúng sẽ giúp ta hiểu nhiều về chính chúng ta và về xã hội ta đang sống.
2. Không cắt bỏ
Y
học Âu Tây quá chú trọng về khoa giải phẩu. Bác sĩ muốn cắt bỏ những
gì họ cho là không còn dùng được nữa. Khi có một cái gì không ổn
trong thân thể, họ thường khuyên chúng ta nên cắt bỏ. Trong ngành tâm
lý trị liệu cũng vậy. Những nhà trị liệu tâm lý cũng
muốn ta vứt bỏ những gì ta không thích và chỉ giữ lại những gì ta
thích. Mà cái được giữ lại, thường thường chẳng là bao. Cho
nên nếu cần vứt bỏ cái ta không thích, thì thường thường chúng
ta phải vứt bỏ phần lớn con người của ta.
Cho nên thay vì cắt xén, ta học cách chuyển hóa. Ví dụ, ta chuyển hóa cái giận, làm cho cái giận trở thành một cái gì lành mạnh, như sự hiểu biết. Ta không cần đến khoa giải phẩu để cắt bỏ cái giận của ta. Nếu ta giận cái giận của ta, ta sẽ có hai cái giận cùng một lúc. Ta chỉ cần quan sát nó một cách chăm chú và từ hòa. Nhờ vậy nó sẽ được chuyển hóa và ta không cần phải chạy trốn nó. Đó là cách làm hòa với nó. Nếu ta có đủ an lạc, ta sẽ làm hòa rất dể dàng với cái giận. Với buồn lo, chán nản, sợ hãi hay với bất cứ trạng thái khó chịu nào cũng vậy.
3. Chuyển hóa những cảm thọ
Bước
đầu tiên là biết nhận diện một cảm thọ khi cảm
thọ ấy xuất hiện. Muốn vậy thì phải có chánh niệm.
Khi có một nổi lo sợ chẳng hạn, ta phải dùng chánh niệm để nhìn rõ nó
và nhận diện đó là một nổi lo sợ. Bạn đã biết là sự sợ
hãi phát xuất từ tâm thức bạn thì chánh niệm cũng vậy,
cũng phát xuất từ tâm thức bạn. Chúng đều từ bạn mà ra, cho nên chẳng
phải đánh nhau làm gì mà phải chăm sóc cho nhau.
Bước
thứ hai là trở thành một với cảm thọ. Không nên nói:
"Sợ hãi, hãy cút đi. Ta không ưa nhà ngươi. Nhà ngươi không phải là
ta." Tốt hơn nên nói: "Sợ hãi ơi, xin chào ngươi. Ngươi là
một bạn cũ lâu đời". Bạn có thể mời cả chánh niệm và sự sợ
hãi ra bắt tay nhau và làm một với nhau. Làm như vậy cũng hơi thấy e
ngại thật, nhưng bạn biết bạn là một thực thế lớn lao bao trùm cả sự sợ
hãi nên bạn chẳng cần phải e sợ nữa. Khi chánh niệm có
mặt, chánh niệm sẽ trông chừng sự sợ hãi của bạn.
Điều căn bản là phải nuôi dưỡng chánh niệm bằng hơi
thở ý thức, luôn luôn giữ gìn chánh niệm cho mạnh mẽ.
Lúc
đầu, chánh niệm của bạn có thể yếu nhưng nếu bạn biết nuôi dưỡng nó,
nó sẽ trỡ thành mạnh. Bao lâu chánh niệm còn có mặt, bạn sẽ không bị chết
chìm trong sự sợ hãi. Thực vậy, ngay khi bạn nhận diện được
sự có mặt của sợ hãi là nó đã bắt đầu chuyển hóa.
Bước
thứ ba là làm êm dịu cảm thọ. Nhờ có chánh niệm trông chừng nỗi sợ
hãi của bạn nên bạn thấy lòng dịu lại. "Thở vào, tôi làm êm dịu những
tâm hành". Bạn làm êm dịu những tâm hành nhờ bạn có mặt với
chúng, như một bà mẹ ôm đứa con đang khóc vào lòng. Cảm nhận được sự săn
sóc của bà mẹ, đứa bé nín khóc ngay. Bà Mẹ chính là Chánh niệm của
bạn, phát xuất từ nơi sâu thẳm của tâm thức bạn và chánh niệm sẽ
chăm sóc cho nổi đau của bạn. Khi ôm đứa con vào lòng, thì bà mẹ trở
thành một với đứa con. Nếu bà mẹ nghĩ đến điều gì khác, đứa bé sẽ không
nín khóc. Bà Mẹ phải dẹp qua một bên tất cả những thứ khác, chỉ ôm đứa con mà
thôi. Cho nên đừng trốn tránh những cảm xúc của mình. Đừng
nói rằng: "Nhà ngươi không quan trọng. Nhà ngươi chỉ là một cảm xúc".
Hãy là một với nó. Hãy tự bão rằng: "Thở vào, tôi làm dịu nỗi sợ
hãi".
Bước
thứ tư là buông bỏ cảm thọ, để cảm thọ trôi đi. Nhờ sự
trầm tỉnh, dù giữa cơn sợ hãi. Bạn vẩn cảm thấy dễ chịu bởi
vì bạn biết rằng nỗi sợ sẽ không lớn hơn thêm và sẽ không đến nỗi làm bạn hốt
hoảng. Khi bạn biết rằng bạn đủ khả năng chăm sóc nỗi sợ của mình, Bạn
đã giảm thiểu nỗi sợ đến mức tối thiểu, nó đã trở nên không khó
chịu lắm. Bây giờ bạn có thể cười với nó và buông bỏ nó, nhưng
hãy khoan dừng lại ở đây. Sự làm dịu và sự buông bỏ chỉ mới đối
trị được những triệu chứng. Bây giờ là cơ hội để bạn đi sâu hơn
và làm chuyển hoá cội nguồn của cơn sợ.
Bước
thứ năm là nhìn sâu, để thấy rõ nguyên nhân nào đã tạo ra sự bất
an trong em bé hay đã tạo ra nỗi sợ hãi trong bạn, dù nỗi sợ
hãi đã tan biến hay dù em bé đã nín khóc. Bởi vì không phải lúc nào ta
cũng có thể ôm ấp em bé vào lòng cũng như ta không thể để cho sự sợ
hãi kéo dài hoặc tái diễn. Ta phải tập nhìn sâu tận gốc rể mới có thể khám
phá những nguyên nhân làm em bé khóc, nguyên nhân nội
tại hay ngoại tại. Có thể là em bé đói, lạnh, sốt hay đau bụng. Biết được nguyên
do rồi, ta chăm sóc cho em bé. Em bé sẽ nín khóc và tươi tĩnh ngay. Cũng vậy,
nhìn sâu vào nỗi sợ hãi, ta mới có thể thấy rõ ta cần làm gì và không cần
làm gì để chuyển hóa tận gốc rể của nỗi sợ hãi. Lúc đó ta mới
có an lạc thật sự.
Nhà tâm
lý trị liệu cũng theo tiến trình này để chữa trị bệnh nhân. Ông ta mời
bệnh nhân nhìn sâu vào bản chất của cơn đau. Thông thường người bệnh đau
khổ là do cách nhìn của họ đối với sự vật và do những tri kiến sẵn
có của họ.
Ông
ta mời người bệnh cùng ông mổ xẻ những cái nhìn này và dần dần giúp họ tháo
gỡ được cái nhà tù mà họ tự giam vào. Nhưng điều quan trọng vẫn là sự nổ lực
của chính người bệnh. Ông thầy chỉ là người khai mở cho học trò mình thấy được
ông thầy ở trong tự thân họ, cũng như nhà tâm lý trị liệu phải
chỉ cho người bệnh thấy chính họ là người chữa trị.
Có
như vậy người bệnh mới biết tự mình chữa trị ngày đêm và kết quả mới xãy đến nhanh
chóng được. Cho nên nhà tâm lý trị liệu không gieo thêm những tín
điều cho bệnh nhân. Ông chỉ giúp họ nhận diện được những nguyên
nhân đưa tới sự đau khổ của họ, thông thường là do những tri
giác sai lầm của họ. Cũng vậy, dưới ánh sáng chánh niệm, ta có
thể chuyển hóa những cảm thọ của ta không mấy khó
khăn.
Một khi ta thấy được gốc rễ của những cảm thọ, tự chúng sẽ bắt đầu chuyển hóa.
4. Ý thức về giận
Giận
là một cảm thọ khó chịu. Nó như một ngọn lửa cháy phừng phựt trong
lòng và làm tiêu ma cả sự tự chủ của ta. Nó khiến ta
nói và làm những điều mà sau này có thể ta sẽ hối tiếc. Khi một người nổi
giận, ta thấy rõ ràng là người ấy đang ở trong hỏa ngục.
Mà hỏa ngục là do sân hận tạo ra.
Một
người không biết giận là một người tươi mát, thánh thiện. Nơi nào
không có sân hận, nơi đó có hạnh phúc chân thật, có từ và có
bi.
Khi
ta dùng ánh sáng chánh niệm soi vào cơn giận, cơn giận mất
dần năng lực. Ta tự bảo: "Thở vào, tôi biết tôi đang giận. Thở
ra tôi biết tôi đang là cơn giận của tôi". Nếu ta biết theo
dõi hơi thở trong khi nhận diện và quan sát cơn
giận, cơn giận sẽ không còn dám tác oai tác quái trên tâm thức của
ta nữa.
Cho
nên, chánh niệm là một người bạn có thể giúp ta khi cơn giận bộc
phát. Chánh niệm đến không phải để đàn áp hay xua đuổi cơn
giận. Chánh niệm không phải là ông quan tòa. Chánh niệm đến
như một người chị đến săn sóc, an ủi và vổ về đứa em. Ta có thể chú
tâm vào hơi thở để duy trì chánh niệm và để hiểu
chính ta rõ hơn.
Khi
giận, ta thường có khuynh hướng nghĩ nhiều về người làm ta giận, hơn
là trở về để quan sát chính mình. Ta chỉ nghĩ đến những
cái đáng ghét nơi người ấy, sự cộc cằn, sự thiếu chân thật,
sự tàn bạo, sự ranh mãnh v.v.... Càng nghĩ đến người ấy, càng
nhìn thấy người ấy, càng nghe người ấy nói, lửa giận trong ta cháy phừng.
Có
thể người ấy có nhiều cái đáng ghét thật, cũng có thể do ta tưởng tượng
và phóng đại lên, nhưng cái chính yếu làm cho ta đau khổ vẫn
là cơn giận của ta. Cho nên điều trươc tiên là ta quay trở về với
chính ta để quản lý cơn giận của ta. Và tốt nhất là đừng nhìn, đừng
nghe người mà ta cho là nguyên nhân của cơn giận. Cũng như người
đi chửa lửa, phải tìm cách tưới nước lên đám lửa cháy chứ không
phí thì giờ đi tìm người gây ra đám cháy. "Thở vào là tôi biết
tôi đang giận. Thở ra, tôi phải để hết tâm ý chăm sóc cơn giận của
tôi". Tuyệt đối đừng nghĩ gì về người kia, và nhất là đừng làm,
đừng nói gì hết trong khi đang giận. Nếu ta để hết tâm ý quan sát cơn
giận, ta sẽ tránh được nhiều lầm lỗi mà sau này ta có thể hối tiếc.
Khi
giận, ta chính là cơn giận. Nếu ta đàn áp hay xua đuổi nó,
tức là ta đàn áp và xua đuổi chính ta.
Khi
vui ta là niềm vui. Do đó, khi cơn giận xuất hiện, ta nên nhớ rằng
giận là một nguồn năng lực có công năng phá hoại mà ta
có thể chuyển hóa thành một nguồn năng lực khác có lợi hơn.
Khi ta có một thùng rác hữu hiệu đang bốc mùi, ta biết rằng ta có thể
biến nó thành phân đất và những bông hoa thơm. Lúc đầu, ta có thể thấy
rác và hoa là hai cái trái chống nhau, nhưng khi nhìn kỹ và sâu, ta thấy hoa đã
có sẵn trong rác và rác đã có sẵn trong hoa. Chỉ cần một hai tuần là hoa
đã biến thành rác. Một nhà làm vườn giỏi, nhìn vào rác là đã thấy
ngay điều đó. Bà ta không cảm thấy buồn chán hay ghê tởm
rác. Trái lại, bà ta thấy được giá trị của rác. Chỉ cần một vài
tháng là rác sẽ biến thành hoa. Ta hãy là người làm vườn giỏi, ta
nhìn vào cơn giận và không còn thấy sợ hãi và muốn xua
đuổi nó. Cái giận cũng như rác có thể biến thành một cái gì khác
đẹp hơn.
Ta cần nó như nhà làm vườn cần phân. Khi ta biết chấp nhận nó, ta đã bắt đầu có chút nào an lạc rồi. Từ đó ta dần dần chuyển hóa nó thành hiểu biết và thương yêu.
5. Đập gối để trút cơn giận
Biểu
lộ cái giận không phải luôn luôn là một điều tốt. Khi để nó phát hiện
và duy trì nó là ta càng làm cho hạt giống giận mạnh hơn
trong tiềm thức ta. Biểu lộ sự gận dữ với người làm ta giận
có thể gây nhiều đổ vỡ.
Có
những người chọn cách đập gối để trút cái giận ra ngoài. Họ vào phòng, đóng kín
cửa lại và trút tất cả cơn giận dữ vào cái gối bằng cách đập nó túi bụi.
Có người cho rằng làm như vậy là tiếp xúc với cái giận. Tôi thì không
nghĩ như vậy. Làm như vậy cũng không phải là tiếp xúc với cái gối.
Nếu mình hiểu cái gối là gì, mình sẽ không đánh đập nó túi bụi như vậy. Có điều
sau khi đập gối một lúc thì ta mệt đừ và cảm thấy đỡ tức tối
hơn. Nhưng thật ra căn nguyên cái giận vẫn còn nằm y nguyên trong ta.
Sau khi ăn uống no nê, sức lực ta trở lại, và lúc đó nếu
có ai tưới tầm hạt giống giận ấy trong ta, cơn giận sẽ bộc
phát lại ngay và ta lại phải đi tìm cái gối để cho đỡ khổ.
Cho
nên cách đập gối cho đỡ giận chỉ làm ta nguôi ngoai trong chốc lát chứ không
làm ta hết giận thật sự. Ta phải nhìn sâu vào cơn giận, tìm hiểu nó
tận gốc rễ, nếu không, hạt giống của cái giận sẽ mọc trở lại rất
nhanh.
Trong
đời sống hằng ngày, nếu ta chuyên tâm gieo trồng cho thật
nhiều hạt giống tốt lành, những hạt giống này sẽ chăm sóc
cho hạt giống giận của ta và dần dần chuyển hóa nó mà
ta không cần phải cố gắng nhiều.
Chánh
niệm của ta như mặt trời rọi ánh sáng lên mọi thứ. Mặt trời có
vẻ không làm gì nhiều, thế mà khi cây cối được ánh sáng mặt trời chiếu
soi là chuyển đổi không ngừng. Hoa phù dung thường khép cánh lại khi
trời xụp tối, thế mà chỉ cần có ánh mặt trời chiếu xuyên
qua nó trong vài giờ là nó lại hé mở, không cưỡng lại được.
Chánh niệm của ta cũng vậy, nếu được nuôi dưỡng thường xuyên, sẽ soi thấu vào lòng cái giận khiến nó phải mở tung ra để ta thấy rõ bản chất của nó. Khi ta thấy rõ được bộ mặt thật của cái giận, ta sẽ không còn bị nó khống chế nữa, ta sẽ được giải thóat.
6. Đi thiền hành khi đang giận
Khi
giận ai, ta nên đi thiền hành ngoài trời. Không khí trong lành,
cây cối xanh tươi, có thể giúp ta lấy lại sự bình thản. Ta có thể thực
tập như sau:
Thở vào, tôi biết tôi đang giận
Thở ra, tôi biết cái giận là tôi
Thở vào, tôi biết cái giận làm tôi khó chịu
Thở ra, tôi biết cái giận rồi sẽ qua
Thở vào, tôi thấy tâm đã tĩnh lặng
Thở ra, tôi thấy tôi đủ mạnh để chăm sóc cái giận
Vừa đi, ta vừa đọc thầm bài kệ trên, tâm ta theo dõi từng bước chân và từng hơi thở, ý thức được bàn chân ta chạm trên mặt đất. Thở sâu, bước chậm, vừa ngắm nhìn cảnh đẹp chung quanh. Tâm ta dần dần lắng lại. Ta thấy ta vững chãi trở lại, lúc ấy ta sẽ nhìn sâu vào cái giận để thấy rõ nó hơn.
7. Luột khoai
Nhờ
dùng ánh sáng chánh niệm chiếu soi vào cái giận, ta bắt đầu thấy được
gốc rễ của nó. Cái giận có nhiều nguyên do, vì hiểu lầm,
vì vụng về, vì sự bất công hoặc vì tâm ta chứa nhiều hạt giống sân
hận.
Những nguyên
nhân này có thể đã có mặt trong ta và trong người làm ta giận. Ta phải
dùng chánh niệm để quán chiếu mới có thể nhận diện được
chúng và hiểu được bản chất của chúng. Phải thấy và hiểu, ta mới có
thể có từ và bi.
Ta
không ăn được khoai sống, nhưng không phải vì vậy mà ta vứt nó đi. Ta
có thể luộc cho khoai chín. Ta bỏ khoai vào nồi nước và ta đậy nắp lại, bắt lên
lửa. Lửa là chánh niệm, là hơi thở ý thức, là sự
quán chiếu cái giận. Cái nắp là định lực, là sự tập trung vì nó ngăn
không cho hơi nóng bay ra ngoài. Khi ta theo dõi hơi thở và thực
tập quán chiếu cái giận, ta cần phải tập trung
tâm ý để giữ vững chánh niệm. Do đó ta không để tâm chạy tán
loạn. Nếu ta đi thiền hành ngoài trời, giữa cỏ cây hoa lá; sự thực
tập càng dễ dàng hơn.
Ngay khi ta đặt nồi khoai lên lò lửa, sự chuyển đổi đã bắt đầu. Nước bắt đầu nóng. Mười phút sau thì nước sôi. Nhưng ta không tắt lửa vì ta phải đợi cho khoai chín. Cũng như vậy, khi ta theo dõi hơi thở và quán chiếu cái giận, sự chuyển hóa đã bắt đầu. Sau nửa giờ đồng hồ, ta mở nắp ra và ta ngửi thấy mùi khoai thơm. Bây giờ là lúc ta có thể ăn khoai. Cái giận đã biến thành một năng lực khác, năng lực hiểu biết và thương yêu.
8. Nguồn gốc của cái giận
Cái
giận bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết về chính con người ta
và về những nguyên nhân xa và gần đưa tới tình trạng nóng
bức hiện tại. Ta giận có thể cũng vì một ham muốn nào đó, vì tự
kiêu, vì nghi ngờ hay bực bội. Do đó nguyên nhân chính
của cái giận nằm ở trong ta; hoàn cảnh bên ngoài và những người chung
quanh chỉ đóng vai trò phụ.
Khi
một trận động đất hay lụt lội xảy ra, ta có thể chấp nhận dễ dàng những thiệt
hại to lớn đó. Nhưng khi có sự đỗ vỡ do một người gây ra, ta lại không đủ
kiên nhẩn để chịu đựng. Ta hiểu vì đâu mà có lụt lội hay động đất. Thế mà
ta lại không chịu khó tìm hiểu do đâu mà người đó đã gây ra cơn
dữ của ta.
Ví
dụ có ngươi vừa nói với ta một câu rất khó chịu. Có thể vì anh ta cũng vừa bị
ai đó nói với anh ta như vậy. Cũng có thể khi anh ta còn nhỏ, người cha nghiện
ngập của anh ta đã từng nói với anh ta bằng cái giọng gây gắt đó. Khi thấy rõ
những nguyên nhân này, không thể nào mà ta còn giận cho được. Nói như
vậy là ta không có nghĩa là ta dung dưỡng những con người độc
ác luôn tìm cách hại ta. Điều quan trọng tôi muốn nói là ta phải
lo chăm sóc những hạt giống giận trong con người ta trước
nhất. Sau đó, nếu người đó quả là một con người quá quắt cần phải sửa
trị thì ta sẽ sửa trị nhưng vì lòng thương hơn là vì cái sợ
hay ý chí trả thù.
Khi
ta thực sự hiểu được những đau khổ của người khác, ta sẽ tìm
cách giúp họ vượt thoát những đau khổ, và bằng cách giúp họ vượt thoát
những đau khổ đó; và bằng cách ấy ta cũng giúp chính ta. Ta làm
cho tâm ta nhẹ nhàng, an lạc, thấm nhuần chất liệu của thương
yêu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét