Thiền sư Ajahn Chah
Minh Vy dịch Việt ngữ
PHẦN 3
TRÍ HUỆ
CHƯƠNG 28
QUY ƯỚC VÀ GIẢI THOÁT.
Chúng ta đặt ra
những quy ước,
nhưng chúng ta không
nên bị chúng đánh lừa,
bởi vì chìm đắm
trong những thứ này sẽ dẫn đến đau khổ.
Những ai vượt lên những quy ước, sẽ vượt lên mọi khổ đau.
Sự việc trên thế gian chỉ là những quy ước do con người tạo ra. Chúng ta
đặt ra chúng, rồi chúng ta dính mắc vào đó, dính mắc vào quan điểm, ý kiến của
chính mình – và không muốn buông bỏ. Sự dính mắc này không bao giờ chấm dứt, nó
luân chuyển, trôi chảy mãi. Nó không có điểm dừng. Nếu chúng ta biết cái thực tại quy ước, chúng ta sẽ biết
sự giải thoát. Đây gọi là ngộ Đạo. Đây là điểm dừng lại, điểm hoàn tất.
Tôi quan sát những
người phương Tây khi họ ngồi thiền với nhau. Sau khi xả thiền, đứng dậy, đàn
ông và đàn bà đôi lúc sờ đầu nhau! Khi nhìn thấy vậy, tôi nghĩ, “Nếu chúng ta
dính mắc vào quy ước, phiền não sẽ phát sinh ngay tại đây”. Nếu chúng ta có thể
buông bỏ những quy ước, buông bỏ quan điểm của mình, chúng ta bình an.
Đôi lúc, vài đại tá,
đại tướng, hay những người có chức vị quan trọng đến gặp tôi, và nói, “Xin ngài
sờ đầu tôi”. Nếu họ nói như vậy, thì không có vấn đề gì với việc sờ đầu họ. Họ thích
được sờ đầu. Nhưng nếu khi không mà bạn vỗ vào đầu họ giữa công chúng, thì nó
lại là chuyện khác! Đó là vì có sự dính mắc. Cho nên tôi cảm thấy xả bỏ chính là con đường dẫn tới sự bình an.
Sờ đầu là một hành vi trái với tục lệ ở đây, nhưng sự thật thì không có gì quan
trọng cả. Khi người ta chấp thuận, điều đó không hề gì, giống nhự việc sờ vào
cái bắp cải hay một củ khoai.
Chấp nhận, xả bỏ - đây
là con đường thanh nhẹ. Nơi nào bạn dính mắc vào, nơi đó có sự tồn tại và sinh
khởi. Hiểm hoạn phát sinh ngay tại đây. Đức Phật nói về các quy ước và phương
pháp tháo gỡ chúng để đạt đến sự giải thoát.
Đây là sự tự do, không
dính mắc vào các quy ước. Tất cả mọi việc trên thế gian đều đã được quy ước. Chúng ta đặt ra những quy ước, nhưng chúng
ta không nên bị chúng đánh lừa, bởi vì chìm đắm trong những thứ này sẽ dẫn tới
khổ đau. Người nào có thể vượt lên những quy ước, sẽ vượt lên trên sự khổ đau.
Tuy nhiên, chúng là
tính chất của thế gian này. Lấy ví dụ, ông Boonmah, chẳng hạn. Ông từng là một
thường dân, nhưng bây giờ ông được bổ nhiệm làm thị trưởng. Nó chỉ là một quy
ước, nhưng nó là một quy ước mà chúng ta phải tôn trọng. Nó là một phần của thế
giới loài người. Nếu bạn nghĩ, “Ồ, chúng tôi là bạn mà. Lúc trước chúng tôi
cùng làm việc trong một tiệm may”, và rồi bạn đến vỗ vào đầu ông giữa công
chúng, ông ấy sẽ nổi giận. Hành động đó không đúng, ông ta chắc chắn sẽ tức
lắm. Cho nên, chúng ta nên tuân theo quy ước, sống trong thế gian là như thế.
Biết lúc, biết nơi, và biết người.
Tại sao đi ngược lại
quy ước là sai? Nó sai là do con người. Bạn
nên khôn khéo, biết sự quy ước và biết sự giải thoát. Biết được thời điểm nào
là cho thứ nào. Nếu chúng ta biết cách sử dụng những quy ước và luật lệ,
chúng ta là người khôn. Nếu chúng ta ứng xử ở một thực tại có mức nhận thức cao
hơn vào một thời điểm không thích hợp, đây là sai! Sai chỗ nào? Sai đối với
những phiền não của con người. Ai cũng có phiền não. Trong tình huống này,
chúng ta cư xử theo cách này, trong tình huống kia, chúng ta cư xử theo cách
kia. Chúng ta biết phải làm gì, bởi vì chúng ta tuân theo sự quy ước. Vấn đề
chỉ phát sinh khi con người dính mắc vào chúng. Nếu chúng ta cho rằng một thứ
gì đó là như thế nào, thì nó là vậy. Đó là bởi vì chúng ta cho nó là vậy. Nhưng
nếu bạn xem xét kỹ, những thứ này không thật sự tồn tại.
Chúng ta, những người
xuất gia, đã từng sống tại gia. Chúng ta tuân theo những quy ước của người tại
gia, và bây giờ, chúng ta tuân theo quy ước của người xuất gia. Chúng ta là
những nhà sư qua sự quy ước, không phải những nhà sư qua sự giải thoát. Một
người xuất gia, không có nghĩa là họ dứt sạch phiền não. Nếu chúng ta nắm một
mớ cát, và đồng ý gọi nó là muối trên danh tánh, không phải trên thực tế. Bạn
không thể nấu ăn với nó. Nó chỉ có giá trị trong phạm vi của sự đồng ý đó, bởi
vì ở đó chỉ có cát, chứ không thật sự có muối.
Ngày cả cái từ “giải
thoát” này cũng chỉ là một quy ước, nhưng nó nói về cái vượt lên trên sự quy
ước. Một khi đã tự do, một khi đã giải thoát, chúng ta gọi nó là “sự giải
thoát” theo quy ước. Nếu không có những quy ước, chúng ta không thể đối thoại,
cho nên quy ước có chỗ dụng của nó.
Ví dụ, con người có
tên khác nhau, nhưng họ đều là con người. Nếu chúng ta không có tên và chúng ta
muốn gọi một người bạn đang đứng trong đám đông, chúng ta phải la lên, “Ê, con
người, con người!” Điều này chẳng giúp được gì cả. Bạn không thể chỉ ra ai là
người bạn muốn gọi, bởi vì họ đều là người cả. Nhưng nếu bạn gọi, “Ê, Jonh!”
thì John sẽ đến. Danh tánh thỏa mãn nhu cầu này. Xuyên qua chúng, chúng ta có
thể đối thoại, chúng là cơ sở cho sự tương tác trong xã hội loài người.
Cho nên, bạn nên biết
cả hai: sự quy ước và sự giải thoát. Quy
ước cần thiết, nhưng trên thực tế thì không có gì ở đó cả. Chúng chỉ là những
nguyên tố, do nhân duyên mà sinh ra, phụ thuộc vào nhân duyên, tồn tại một thời
gian, và rồi tự động tan biến. Không ai có thể chống lại hay điều khiển
được tất cả những điều này. Nhưng không có quy ước, chúng ta sẽ không có gì để
nói, không có tên, không có sự tu hành, không có việc làm. Luật lệ và quy ước
được thiết lập để cho chúng ta có ngôn ngữ, tiện trao đổi, và chỉ vậy thôi.
Lấy ví dụ về tiền bạc.
Vào thời xưa, không có đồng xu hay giấy bạc. Người ta chỉ trao đổi với hàng
hóa, nhưng những thứ này khó giữ được lâu, cho nên họ chế ra tiền. Có lẽ trong
tương lai, một vị vua sẽ ra lệnh bãi bỏ tiền giấy. Thay vào đó chúng ta dùng
sáp thực vật, nấu tan rồi nắn thành những cục sáp, gọi nó là tiền rồi sử dụng
nó khắp nơi trong nước. Cũng có thể chúng ta sẽ quyết định dùng phân gà để làm
tiền – không có gì khác có thể là tiền, chỉ phân gà thôi! Rồi chúng ta sẽ đánh
nhau và giết nhau chỉ vì phân gà!
Đây là cái thực tại
quy ước. Nhưng để một người bình thường có thể hiểu được sự giải thoát là gì
không phải dễ. Tiền bạc, nhà cửa, địa vị, danh tiếng, gia đình, con cái, và
thân quyến chỉ là những quy ước mà chúng ta đặt ra. Nhưng dưới ánh sáng của Đạo
pháp, chúng thật sự không thuộc về chúng ta. Có thể khi nghe nói thế, chúng ta
không được vui, nhưng thực tế là vậy đó. Những thứ này chỉ có giá trị qua sự
quy ước. Nếu chúng ta quy định là nó không có giá trị, nó sẽ không có giá trị.
Nếu chúng ta quy định nó có giá trị, nó sẽ có giá trị. Sự việc là như thế đó.
Chúng ta mang quy ước vào trong thế gian để thỏa mãn nhu cầu của mình.
Ngay cả thân thể này
cũng không thật sự là của chúng ta. Chúng ta chỉ cho rằng nó là thế. Nó thật ra
chỉ là sự giả định từ phía chúng ta. Bạn không thể tìm thấy trong nó một tự ngã
nào có thực chất. Ở đó, chỉ có những nguyên tố sinh ra, tồn tại một thời gian,
và rồi hủy diệt. Nó không có thực chất, nhưng chúng ta có thể sử dụng nó. Nó
giống như một ly nước. Sớm muộn rồi ly nước cũng sẽ vỡ, nhưng trong khi nó còn nguyên
ở đó, bạn nên sử dụng và chăm sóc nó kỹ càng. Nó là một công cụ cho bạn dùng.
Nếu nó vỡ, bạn sẽ phiền, cho nên dầu biết rằng nó sẽ phải vỡ thôi. Bạn vẫn nên
cố sức gìn giữ nó.
Quy ước và sự giải
thoát tương quan với nhau như thế đó. Dầu
bạn có sử dụng cái thực tại quy ước, đừng đặt niềm tin vào nó như thể nó là
thật. Nếu bạn dính mắc vào nó, đau khổ sẽ phát sinh.
Lấy ví dụ về sự đúng
sai. Có người thấy điều sai là đúng, và điều đúng là sai, nhưng cuối cùng thì
ai là người thật sự biết điều gì đúng, điều gì sai? Chúng ta không biết. Con
người thiết lập những quy ước khác nhau về sự đúng và sự sai, nhưng Đức Phật
lấy sự khổ làm nguyên tắc. Về chân lý, chúng ta không thật sự biết, nhưng dựa
vào thực tiễn và hữu ích qua hành động mà chúng ta nói rằng, điều đúng là không
làm hại chính mình và người khác. Quy ước như thế này có mục đích khẳng định và
có thể thỏa mãn như cầu của chúng ta.
Nói cho cùng, thì sự
quy ước và sự giải thoát cũng đều là pháp. Cái này cao hơn cái kia, nhưng chúng
đi chung với nhau. Chúng ta không cách nào có thể bảo đảm một thứ gì đó là như
thế này hay là như thế kia, cho nên Đức Phật bảo chúng ta cứ để nó ở đó. Chỉ
biết là chúng không chắc chắn, dầu bạn có thích hay không thích đến bao nhiêu,
bạn cũng nên biết chúng là không chắc chắn.
Bất kể là lúc nào hay ở đâu, sự tu hành hoàn tất một nơi mà
không có gì cả. Đây là nơi chỉ có sự giao phó, sự rỗng không, sự trút gánh nặng
xuống.
Đây là dứt điểm. Không còn sự tranh cãi như câu đố: Cái gì đến trước, con gà
hay cái trứng? Không thể giải đáp được; thiên nhiên chỉ là vậy.
Tất cả những thứ này,
những thứ chúng ta vừa nói, đều chỉ là những quy ước. Chúng ta tạo ra chúng.
Nếu bạn biết những điều này với trí huệ, bạn sẽ biết sự vô thường, bất toại
nguyện và vô ngã. Đây là cái nhìn dẫn tới sự giác ngộ.
Huấn luyện và giảng
dạy những người có trình độ và hiểu biết khác nhau là một việc rất khó khăn. Họ
có định kiến của họ. Bạn bảo họ một điều gì đó, họ không tin bạn. Bạn nói với
họ sự thật nhưng họ nói là nó không phải thật. “Tôi mới đúng, bạn sai rồi…”.
Những chuyện như vậy không biết đến khi nào mới chấm dứt.
Nếu bạn không xã bỏ,
bạn sẽ đau khổ: Bốn người đàn ông đi vào rừng. Họ nghe tiếng gà gáy, âm thanh có
vẻ hơi lạ và một trong bốn người này bâng khuâng, “Đó là tiếng gà trống hay
tiếng gà mái vậy?” anh ta hỏi. Ba người kia trả lời, “Thì nó cũng có miệng
vậy!” Họ cứ tranh cãi rồi giận dỗi nhau, nhưng sự thật thì mọi người đều sai.
Dầu bạn nói là “gà mái” hay “gà trống”, đó chỉ là cái tên thôi. Chúng ta đặt ra
những quy ước này, nói rằng gà trống là phải như thế này, gà mái là phải như
thế kia, gà trống kêu kiểu này, gà mái kêu kiểu kia… và chúng ta bị kẹt trong
thế gian như thế đó! Hãy nhớ điều này! Chỉ cần bạn biết rằng trên thực tế,
không có thứ gì thật sự là gà trống và gà mái, vấn đề sẽ kết thúc!
Đức Phật bảo chúng ta
đừng dính mắc. Làm sao để thực tập không dính mắc? Bằng cách từ bỏ sự dính mắc.
Nhưng sự dính mắc này rất khó hiểu. Chúng ta cần có trí huệ sắt bén để khảo sát
và thấu suốt điều này, để thật sự đạt đến sự không dính mắc.
Thực ra, người ta vui
hay buồn, mãn nguyện hay không mãn nguyện, không phụ thuộc vào việc họ sở hữu
nhiều hay ít, mà phụ thuộc vào trí huệ. Chỉ xuyên qua trí huệ, xuyên qua sự
nhìn thấy chân lý của sự việc, họ mới có thể vượt lên trên mọi khổ đau.
Cho nên Đức Phật
khuyên chúng ta khảo sát, quán chiếu. Trong sự quán chiếu, chúng ta chỉ cố hiểu
những vấn đề này một cách đúng đắn. Đây là sự tu hành của chúng ta. Sinh, lão,
bệnh, tử là những hiện tượng tự nhiên và thông thường nhất. Đức Phật bảo chúng
ta quán chiếu những thứ này, nhưng một số người vẫn không hiểu. “Có gì ở đó đâu
mà quán chiếu?” họ nói. Họ sinh ra, nhưng họ không biết sự sinh; họ sẽ chết,
nhưng họ không biết sự chết.
Những ai khảo sát
những thứ này liên tục sẽ nhìn thấy bản chất của chúng. Khi đã nhìn thấy điều
này, họ sẽ dần dần tháo gỡ những vấn đề của mình. Dầu họ vẫn còn dính mắc nhưng
họ có trí huệ và nhận thấy rằng sinh, lão, bệnh, tử là bản chất tự nhiên, họ sẽ
bớt khổ. Chúng ta học Phật Pháp cũng chỉ vì điều này – để dứt khổ.
Phật Pháp cơ bản không
nói nhiều đến thế. Chỉ có tiến trình sinh diệt của sự khổ, và điều này Đức Phật
gọi là chân lý. Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ. Người ta
không nhìn thấy chân lý này. Nếu chúng ta biết chân lý, chúng ta biết sự khổ.
Những cuộc tranh cãi,
sự kiêu hãnh về những ý kiến cá nhân này, không có kết thúc. Để tâm có thể nghĩ
ngơi, để tìm thấy sự bình an, chúng ta nên quán chiếu quá khứ, hiện tại và
tương lai của chúng ta – như là vấn đề sinh, lão, bệnh, tử, chẳng hạn. Chúng ta
làm sao có thể tránh bị quấy rầy bởi những thứ này? Ngay bây giờ, chúng ta có
thể không lo lắng lắm, nhưng chúng ta vẫn nên tiếp tục khảo sát cho đến khi
chúng ta biết sự thật về chúng. Và rồi tất cả sự khổ đau của chúng ta sẽ giảm
thiểu, bởi vì chúng ta sẽ không còn dính mắc nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét