9 thg 7, 2022

SUỐI NGUỒN TÂM LINH - PHẦN 3 - CHƯƠNG 33

Thiền sư Ajahn Chah

Minh Vy dịch Việt ngữ

PHẦN 3

TRÍ HUỆ

CHƯƠNG 33

KINH ĐIỂN RỖNG TUẾCH.

Nếu không thật sự tu hành,

bạn sẽ không bao giờ hiểu,

dầu bạn có đọc hết tam tạng kinh điển.

Có hai cách hộ trì Phật Pháp. Một cách bằng sự cúng dường vật chất, bao gồm vật thực, y phục, chỗ ở, và thuốc men. Cúng dường vật chất là giúp tăng chúng sống an ổn đủ để tu hành. Điều này trực tiếp khích lệ sự học hỏi giáo pháp, và từ đó mang đến sự hưng thịnh lâu dài của Phật giáo.

Phật Pháp có thể ví như một cội cây. Cây có rễ, thân, cành, và lá. Lá và cành cây lệ thuộc vào rễ cây để hấp thụ dinh dưỡng từ đất. Tư tưởng của chúng ta cũng ví như cành cây và lá cây, chúng phụ thuộc vào rễ cây, tức cái tâm, để hấp thụ dinh dưỡng và gởi đến chúng. Và rồi, những cành cây này sẽ kết trái, tức là lời nói, hành động của chúng ta. Bất kể trạng thái tâm là gì, khôn khéo hay không khôn khéo đều thể hiện ra ngoài xuyên qua hành động và lời nói của chúng ta.

Cho nên, sự hộ trì Phật Pháp xuyên qua sự áp dụng thực tiễn những lời giảng dạy mới là sự hộ trì quan trọng. Ví dụ, trong buỗi lễ truyền giới, vị thầy miêu tả những hành động không khôn ngoan mà chúng ta cần xa lánh. Nhưng nếu bạn chỉ thọ giới, mà không suy ngẫm về ý nghĩa của giới luật, thì ắt khó tiến bộ. Bạn không thật sự tu hành. Sự hộ trì Phật Pháp, do đó, phải xuất phát từ sự quyết tâm tu hành, từ sự kiềm thúc thân và tâm, từ chánh niệm và trí huệ. Rồi bạn sẽ biết Phật Pháp là gì. Nếu không thật sự tu hành, bạn sẽ không bao giờ hiểu, dầu bạn có đọc hết tam tạng kinh điển.

Vào thời của Đức Phật, có một vị tỳ kheo tên là Tuccho Pothila. Pothila nổi tiếng là người thông làu kinh điển. Ông có đến mười tám ngôi chùa, và là một pháp sư lỗi lạc, được mọi người kính trọng. Nghe đến danh “Pothila”, ai cũng nể và không ai dám thẩm vấn sự giảng dạy của ông.

Ngày nọ, ông đến gặp Đức Phật. Khi ông bước vào, Phật nói, “Chào Đại Đức Kinh Điển Rỗng Tuếch”. Khi ông bái từ, Phật nói, “Đại Đức Kinh Điển Rỗng Tuếch đi về à?” Đức Phật chỉ nói bấy nhiêu thôi. Đại đức Pothila rất hoang mang, “Tại sao Đức Phật nói thế? Ý ông ấy là gì?” Ông cứ suy nghĩ mãi, và nghiền ngẫm những điều ông học hỏi từ trước đến nay, cho đến khi ông nhận ra, “À, thì ra Đại Đức Kinh Điển Rỗng Tuếch chính là ta, một nhà sư học mà không hành”. Khi xem xét tâm của chính mình, ông mới thấy mình không khác gì một người tại gia chút nào. Bất cứ thứ gì họ khát vọng, đó cũng là khát vọng của ông; bất cứ thứ gì họ thích thú, đó cũng là điều ông thích thú. Ông không có phẩm chất của một sa môn(1) chân chánh, không có cái phẩm chất sâu sắc nào đáng để đặt ông vào hàng Thánh Nhân Cao Thượng và mang đến sự bình an thật sự.

Do đó, ông quyết định tu hành. Nhưng ông không biết đi đâu. Tất cả những vị thầy quanh đây đều từng là học trò của ông. Không ai dám thâu nhận ông. Thông thường, khi gặp lại thầy củ, người ta rụt rè e ngại và trịnh trọng tôn kính, và vì thế không ai dám làm thầy của ông.

Cuối cùng, ông đến gặp một vị sa di trẻ khai ngộ, và xin được thọ giáo. Thầy sa di bảo, “Được, ông có thể tu hành với tôi, nếu ông thành tâm. Nếu ông không thành tâm, tôi sẽ không nhận ông”. Đại đức liền phát thệ làm đệ tử của vị thầy sa di đó.

Sau đó, vị sa di bảo ông mặc hết y vào – những cái y rất đắt tiền – thì vị sa di chỉ một cái vũng bùn gần đó và nói, “Được, bây giờ ông hãy chạy xuống vũng bùn đó. Nếu tôi chưa bảo dừng thì ông chớ nên dừng. Nếu tôi chưa bảo lên thì chớ nên lên. Rồi… chạy đi!”

Lúc bấy giờ, Pothila trong bộ tam y tươm tất, chạy tới vũng bùn đó và nhảy vào, cho đến khi toàn thân lấm đầy bùn, thầy sa di mới nói, “Ông có thể ra khỏi đó được rồi”. Pothila chạy ra khỏi vũng bùn.

Pothila rõ ràng đã giũ bỏ hết lòng kiêu hãnh của mình, và sẳn sàng tiếp nhận sự giáo huấn. Nếu chưa sẳn sàng học, thì một vị thầy nổi tiếng như ông đã chẳng nhảy vào vũng bùn dơ đó. Thấy thế, thầy sa di biết là Pothila thật sự quyết tâm tu hành. Cho nên thầy cho ông một bài pháp, dạy ông quan sát các đối tượng của lục căn, qua một ví dụ về người bắt rắn mối. Con rắn mối chạy trốn dưới một gò mối, và nếu cái gò mối có sáu lỗ, người đó phải làm sao. Ông phải lấp kín năm lỗ, chỉ chừa một lỗ, rồi ông chỉ việc ngồi trước cái lỗ đó mà canh chừng. Khi con rắn mối chạy ra, ông có thể lập tức bắt nó.

Chúng ta quán sát tâm như thế đó. Đóng tất cả năm căn – tai, mắt, mũi, lưỡi, và thân, chỉ chừa cái tâm. “Đóng” các căn nghĩa là kiềm thúc và trấn tĩnh chúng. Thiền cũng giống như việc bắt rắn mối. Chúng ta dùng sati để ghi nhận hơi thở. Sati là sự tỉnh giác, đó là khi bạn tự hỏi, “Tôi đang làm gì đây?” Sampajanna là sự nhận biết rằng “lúc này tôi đang làm việc đó, việc khác”. Chúng ta quan sát hơi thở vào và ra với sati và sampajanna.

Phẩm chất tỉnh giác này chỉ phát sinh từ sự tu hành, không phải từ sự nghiên cứu kinh điển. Hãy nhận biết mọi cảm xúc. Tâm có thể yên lặng một hồi và rồi các cảm xúc lại đến. Sati làm việc cùng với những cảm xúc này, ghi nhận chúng. Có sati tức có sự tỉnh thức rõ ràng là “Tôi sẽ nói”, “Tôi sẽ đi”, “Tôi sẽ ngồi”, v.v… - và rồi có sampajanna tức có sự nhận biết rằng “Lúc này tôi đang đi”, “Tôi đang nằm xuống”, “Tôi đang kinh nghiệm một tâm trạng như thế đó”. Với sati và sampajanna, chúng ta nhận biết tâm của mình qua từng phút giây. Chúng ta biết tâm ứng xử với cảm xúc như thế nào.

Cái nhận biết lục trần gọi là tâm. Lục trần lẻn nhẹ vào tâm. Ví dụ, một tiếng động đi tới tai và thẳng vào tâm, rồi tâm biết đó là tiếng chim hay tiếng xe chạy, hay tiếng gì đó. Cái tâm biết tiếng động này vẫn còn rất thô thiển. Nó chỉ là cái tâm bình thường. Sự quấy nhiễu có thể phát sinh bên trong “người biết” này. Chúng ta phải huấn luyện “người biết” thêm nữa để trở thành “người biết đúng với chân lý” hay Buddho. Nếu chúng ta không biết đúng với chân lý, chúng ta sẽ bị quấy rầy bởi tiếng người, tiếng xe cộ, tiếng động, v.v… Cái tâm bình thường chưa được huấn luyện, xem tiếng động như sự quấy nhiễu. Nó biết phù hợp với sự ưa ghét của nó, không hẳn phù hợp với chân lý. Chúng ta phải huấn luyện nó thêm, để nó biết với tuệ giác rằng tiếng động chỉ là tiếng động. Nếu chúng ta không dính mắc vào tiếng động, thì không có sự quấy nhiễu. Tiếng động phát sinh và chúng ta chỉ việc ghi nhận nó. Đây gọi là cái biết thật về sự phát sinh của lục trần. Nếu chúng ta phát triển Buddho – sự hiểu biết rõ ràng rằng tiếng động chỉ là tiếng động – thì tiếng động sẽ không quấy nhiễu chúng ta. Tiếng động phát sinh dựa vào luật nhân duyên, nó không là một tự ngã, không có tự tính, không phải là “chúng ta” hay “chúng nó”. Nó chỉ là tiếng động thôi. Và rồi tâm xả bỏ.

Sự hiểu biết rõ ràng này gọi là Buddho. Với nó, chúng ta có thể cho phép tiếng động là tiếng động, rồi nó không thể quấy nhiễu chúng ta nữa trừ khi chúng ta quấy nhiễu nó với sự suy nghĩ. “Tôi không muốn nghe tiếng động đó, ồn ào quá”. Đau khổ phát sinh từ thái độ này. Ngay nơi đây là nguyên nhân của khổ: chúng ta không biết chân lý của sự việc, chúng ta chưa phát triển Buddho. Chúng ta chưa thấu hiểu, chưa tỉnh thức, chưa nhận biết. Đó là cái tâm tự nhiên, chưa được huấn luyện, một cái tâm chưa thật sự hữu ích.

Chúng ta phải phát triển tâm, như cách chúng ta phát triển thân thể. Để phát triển thân thể, chúng ta phải tập thể dục, chạy bộ mỗi buổi sáng, chẳng hạn.  Không bao lâu, thân thể sẽ trở nên dẻo dai, mạnh khỏe. Tập thể dục tâm thì khác. Thay vì vận động nó, chúng ta dừng nó lại.

Chẳng hạn, khi tu thiền, chúng ta lấy hơi thở ra vào làm đối tượng tập trung và quán chiếu. Chúng ta ghi nhận hơi thở, có nghĩa là chúng ta đi theo hơi thở với sự tỉnh thức, ghi nhận nhịp độ của nó, sự ra vào của nó, và buông bỏ những thứ khác. Sự chú tâm vào một đối tượng như thế lâu dần sẽ khiến tâm lắng dịu. Nếu chúng ta cứ để tâm lang thang mãi, nó sẽ không bao giờ dừng nghỉ.

Tâm “dừng nghỉ” là tâm không còn chạy lăng xăng nữa. Nó giống như một con dao bén. Nếu chúng ta sử dụng con dao một cách bừa bãi, đụng thứ gì cũng cắt – đá, gạch, v.v…, con dao đó sẽ cùn rất nhanh. Chúng ta chỉ nên dùng nó để cắt những thứ đã định cho nó. Cùng thế ấy, nếu chúng ta để tâm đuổi theo tư tưởng và cảm xúc vô nghĩa, tâm sẽ mệt mỏi và suy yếu. Nếu tâm mệt mỏi, trí huệ sẽ không phát sinh, bởi vì một cái tâm mệt mỏi, không có năng lượng là cái tâm không an định.

Nếu tâm không dừng nghỉ, bạn sẽ không thể thấy bản chất của lục trần. Cái biết rằng tâm là tâm, trần cảnh là trần cảnh, là nền tảng mà từ đó Phật Giáo nảy sinh và phát triển. Đây là cốt tủy của Phật Pháp. Khi chúng ta xem xét chính mình và cách cư xử của mình, chúng ta sẽ thấy mình giống như những đứa trẻ. Một đứa trẻ không biết gì cả. Đối với một người lớn, thì cách chơi đùa, nhảy nhót của một đứa trẻ thấy dường như không có mục đích gì. Nếu tâm của bạn chưa được huấn luyện, nó giống như một đứa trẻ. Chúng ta nói chuyện mà không nhận biết rõ ràng là mình đang nói gì, và chúng ta hành động một cách thiếu trí huệ. Chúng ta có thể khiến cho mình lụn bại hay gây ra thiệt hại nặng nề mà có thể vẫn không biết.

Cho nên chúng ta cần huấn luyện cái tâm này. Đức Phật bảo chúng ta huấn luyện tâm, dạy dỗ tâm. Dầu chúng ta có hộ trì Phật Pháp với bốn món vật dụng, sự hộ trì đó chỉ ở trên mặt mà thôi, nó chỉ vào phần vỏ cây chứ không vào đến lõi cây. Sự hộ trì chân chánh, cái lõi cây, đến từ sự tu hành, từ sự trau dồi thân, khẩu, ý của chúng ta cho phù hợp với sự giảng dạy. Điều này mới hữu ích hơn. Nếu chúng ta thành thật, có sự kiềm thúc và trí huệ, sự tu hành của chúng ta sẽ chấn hưng Phật Giáo. Không còn nguyên nhân cho sự thù địch và công kích. Đây là chủ trương của tôn giáo chúng ta.

Nếu chúng ta xem thường Giới Luật, thì dầu cho vị thầy có rao giảng chân lý, sự tu hành của chúng ta cũng sẽ bất toàn. Chúng ta có thể nghiên cứu giáo lý và có thể thuộc nó nằm lòng, nhưng nếu thật sự muốn hiểu biết nó, chúng ta phải tu hành. Nếu không, chúng ta có thể gây chướng ngại cho sự tầm Đạo của mình trong những kiếp vị lai.

Cho nên, sự tu hành cũng giống như chiếc chìa khóa mở tủ sắt. Nếu chúng ta có đúng cái chìa khóa trong tay, chìa khóa của sự hành thiền, thì bất kể cái tủ sắt bị khóa chặt cách mấy, chỉ cần chúng ta đút chìa khóa vào vặn là khóa mở ra ngay. Nếu không có chìa khóa, chúng ta không thể mở khóa. Chúng ta sẽ không bao giờ biết trong tủ có những gì.

Thật ra có hai loại kiến thức. Một người đắc Đạo không nói từ trí nhớ, mà nói từ chân lý. Người thế gian thường nói chuyện từ trí nhớ, không những thế, họ còn thêu dệt thêm, họ nói với sự kiêu hãnh. Ví dụ, giả sử có hai người không thấy mặt nhau đã lâu. Một hôm, họ gặp nhau trên một chuyến xe lửa. “Hay quá”, một người nói. “Tôi mới vừa nghĩ tới anh!” Thật ra họ chẳng hề nhớ tới nhau, nhưng khi họ phấn khởi, họ chỉ buộc miệng nói thế. Và rồi trở thành một sự dối gạt. Đúng thế, đó là sự dối gạt xuất phát từ sự buông thả lục căn, bất cẩn với chúng. Đây là sự dối gạt mà không có ý thức. Nó là một thứ phiền não vi tế, và nó xảy ra rất thường.

Trở lại với việc huấn luyện tâm của Toccho Pothila. Pothila làm theo sự hướng dẫn của vị thầy sa di: hít vào, thở ra, nhận biết một cách tỉnh thức mỗi hơi thở vào ra, cho đến khi ông nhìn thấy cái gã bịp bợm bên trong ông, giống như con rắn mối chạy ra khỏi gò mối. Ông nhìn thấy chúng, và nhận thức bản chất thật của chúng ngay lúc chúng phát sinh. Ông nhìn thấy cách tâm liên tục bày ra chuyện này, dựng lên chuyện kia.

Sự suy nghĩ là một pháp hữu vi, một thứ được cấu tạo nên từ những điều kiện hỗ trợ. Nó không phải là một pháp vô vi, một thứ tự nó hiện hữu, không phải được tạo nên. Cái tâm được huấn luyện thành thục, với sự nhận biết rõ ràng, sẽ không tạo dựng nên các tâm thái. Cái tâm này hiểu thấu Chân Lý Cao Thượng và không còn lệ thuộc vào những thứ bên ngoài. Biết Chân Lý Cao Thượng là biết sự thật. Cái tâm chế tạo trốn tránh sự thật này, nói rằng, “Cái đó đẹp” hay “Cái này xinh quá”. Nhưng nếu có Buddho trong tâm, nó không còn có thể lừa gạt chúng ta, bởi vì chúng ta biết đường lối của tâm. Tâm không còn có thể tạo nên những ấn tượng ảo, bởi vì có sự nhận biết rõ ràng rằng mọi ấn tượng trong tâm đều không ổn định, không hoàn mỹ, và là nguyên nhân của khổ đau đối với kẻ nắm giữ nó.

Bất kể đi tới đâu, “người biết” luôn ở trong tâm Pothila. Ông quan sát những chế tạo khác nhau của tâm với sự hiểu biết rõ ràng. Ông nhìn thấy cách tâm phỉnh gạt ông trong nhiều cách khác nhau, và thấu hiểu điều cốt tủy của sự tu hành: cái tâm  lừa đảo này dẫn chúng ta tới hạnh phúc và khổ đau tột cùng và khiến chúng ta xoay chuyển mãi trong vòng luân hồi, với những sự buồn vui, tốt xấu của nó”. Tuccho Pothila chứng ngộ chân lý, và nhận ra điều cốt tủy của sự tu hành, giống như người đàn ông nắm được cái đuôi của con rắn mối.

Đối với chúng ta cũng vậy. Chỉ có cái tâm này là quan trọng. Đó là tại sao chúng ta huấn luyện tâm. Bây giờ, chúng ta tính huấn luyện nó với cái gì đây? Bằng cách duy trì sự chánh niệm và nhận biết liên tục, chúng ta có thể biết được tâm. Cái “người biết” này là vượt lên trên tâm; nó là cái biết trạng thái của tâm. Cái biết rằng tâm chỉ là tâm, chính là “người biết”. “Người biết” ngồi ở đó trên tâm và đó là lý do nó có thể quan sát tâm, dạy dỗ tâm để biết điều gì là đúng, điều gì là sai. Cuối cùng mọi thứ đều quay về cái tâm này. Nếu tâm kẹt trong những chế biến liên tục của nó, sự nhận biết không hiện diện và sự tu hành sẽ không có kết quả.

Cho nên, chúng ta phải huấn luyện cái tâm này để lắng nghe Giáo Pháp, để phát triển Buddho, sự nhận biết rõ ràng, cái tồn tại ở bên trên cái tâm bình thường và biết tất cả những gì xảy ra bên trong đó. Đó là tại sao chúng ta quán chiếu chữ Buddho , để chúng ta có thể biết cái tâm vượt lên trên cái tâm. Chỉ việc quan sát tất cả những động thái của tâm, bất kể là tốt hay xấu, cho đến khi “người biết” nhận ra rằng tâm chỉ là tâm, không có một tự ngã. Đây gọi là quán chiếu tâm. Nhìn thấy được như thế, chúng ta sẽ hiểu rằng tâm là một thứ tạm bợ, bất toàn và vô chủ.

Chúng ta có thể tổng kết như sau: Tâm là cái nhận biết lục trần, tức sáu đối tượng của tâm. Lục trần khác với tâm. “Người biết” biết bản chất của tâm và lục trần. Chúng ta phải dùng sati để liên tục tẩy rửa tâm. Ai cũng có sati, ngay cả mèo cũng có sati, đó là khi nó rình bắt một con mồi. Cả chó cũng có sati, đó là khi nó sủa người nào đó. Đây là một hình thức sati, nhưng nó chưa phù hợp với Chánh Pháp. Ai cũng có sati, nhưng ở những mức độ khác nhau, giống như cách nhìn khác nhau đối với sự việc. Chẳng hạn, khi tôi bảo người ta quán chiếu thân thể, có người nói, “Có gì ở đó mà quán chiếu? Ai cũng có thể nhìn thấy nó – răng, tóc, móng tay, và da, chúng tôi đã thấy hết rồi”.

Con người là vậy đó. Đúng là họ có thể nhìn thấy thân thể, nhưng cái nhìn của họ bị lệch lạc. Họ không nhìn với Buddho, “người biết”, người giác ngộ. Họ chỉ nhìn thấy thân thể theo cách thường chứ không thể nhìn thấy bằng con mắt trí huệ. Chỉ nhìn thấy thân thể thôi thì không đủ đâu. Bạn phải nhìn thấy cái thân thể bên trong thân thể, và rồi sự việc trở nên rõ ràng hơn rất nhiều. Chỉ nhìn thấy thân thể thôi, bạn sẽ bị nó phỉnh gạt, bị bề ngoài của nó mê hoặc. Không nhìn thấy tính chất tạm bợ, bất toàn và vô chủ, sự ham muốn dục lạc.

Bạn bị cuốn hút bởi hình dáng, âm thanh, mùi vị, và cảm giác. Nhìn thân thể như thế là nhìn với cặp mắt trần tục, dẫn đến sự yêu, ghét và phân biệt giữa thích và không thích. Phiền não sẽ phát sinh.

Đức Phật dạy rằng chúng ta phải nhìn với “con mắt trí huệ”. Nhìn thấy cái thân thể bên trong cái thân thể. Nếu bạn thật sự nhìn vào trong thân thể… ối! Thật là gớm guốc. Có những thứ hôm nay và ngày hôm qua trộn lẫn trong đó, bạn không biết thứ gì là thứ gì. Cái nhìn theo cách này thì rõ ràng hơn nhiều so với cái nhìn với con mắt trần tục, với con mắt điên loạn chỉ muốn nhìn những thứ nó thích. Hãy quán chiếu với con mắt của tâm, với con mắt huệ.

Đây là sự tu hành có thể nhổ bỏ tận gốc sự bám víu vào ngũ uẩn – sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Dứt trừ tận gốc sự bám víu là dứt trừ tận gốc của sự khổ. Nếu đau khổ phát sinh, nó phát sinh tại đây, nơi có sự bám víu vào ngũ uẩn. Không phải ngũ uẩn tự nó là khổ, nhưng sự bám giữ chúng như thể chúng là của riêng – đó là khổ.

Nếu bạn thấy rõ sự thật về những thứ này qua sự hành thiền, đau khổ sẽ được tháo gỡ, giống như bạn tháo mở một con ốc hay cái bù-lon. Tâm cũng tháo gỡ theo cách ấy; nó xả bỏ, lùi khỏi sự dính mắc vào cái tốt, cái xấu, vào của cải, lời khen chê, hạnh phúc và khổ đau.

Nếu chúng ta không biết sự thật về những điều này, nó cũng giống như con ốc bị vặn chặt. Con ốc siết chặt dần cho đến khi nó đè bẹp bạn và bạn đau khổ đủ phía. Khi bạn biết bản chất của sự việc, bạn tháo mở con ốc. Sự chán ngán phát sinh. Bạn thấy mệt mỏi đối với các pháp thế gian và bạn không còn lưu luyến chúng nữa. Nếu bạn tháo gỡ tâm theo cách này, bạn sẽ tìm thấy sự bình an.

Con người chỉ có một vấn đề - đó là sự bám giữ. Chỉ vì điều này thôi mà họ thù ghét và giết hại lẫn nhau. Tất cả mọi vấn đề - cá nhân, gia đình, xã hội – đều nảy sinh từ một gốc rễ này. Không ai thắng cả. Họ giết hại lẫn nhau, nhưng cuối cùng chẳng ai giành được điều gì. Được mất, khen chê, vui buồn – đều là những pháp thế gian. Những pháp này nhấn chìm thế nhân. Chúng là những kẻ phá rối. Nếu bạn không suy ngẫm về bản chất thật của chúng, bạn sẽ đau khổ. Người ta sẳn sàng giết người vì danh lợi. Tại sao vậy? Bởi vì họ quá coi trọng chúng. Họ được bổ nhiệm vào một địa vị nào đó và rồi họ say sưa với quyền lực của họ. Họ trở nên kiêu hãnh.

Chúng ta nên hiểu bản chất của tài sản, danh dự, lời khen, và niềm hạnh phúc thế gian. Đừng để chúng đi vào đầu của bạn. Nếu bạn không thực sự hiểu biết những thứ này bạn sẽ bị lừa gạt bởi thế lực, bởi con cái và thân quyến của bạn… bởi đủ thứ hết! Nếu bạn hiểu rõ, bạn sẽ biết rằng chúng đều là những điều kiện vô thường. Nếu bạn dính mắc vào chúng, chúng sẽ ô nhiễm bạn.

Khi người ta mới sinh ra, họ chỉ là thân và tâm, chỉ vậy thôi. Sau này, họ có thêm cái tên “John”, hay “Smith”, hay bất cứ gì. Đây là quy ước, và rồi nhiều năm về sau, cái tên của họ lại gắn thêm chữ “Bác sĩ”, hay “Đạ tá”, hay gì đó. Nếu chúng ta không thật sự hiểu những điều này, chúng ta cho rằng chúng là thật và mang theo chúng với mình suốt ngày. Chúng ta mang theo của cải, chức vị, và tên tuổi theo với mình. Nếu bạn có thế lực, bạn có thể làm đủ thứ chuyện. “Nhốt tên đó vào ngục. Xử tử tên kia”. Chức vị đi đôi với thế lực. Chúng ta bám chặt vào địa vị  của mình. Vừa có chức vị, người ta chuẩn bị ra lệnh. Không cần biết là đúng hay sai, và ngày càng rời xa Đạo. Một người hiểu Đạo sẽ không cư xử như vậy.  Nếu tài sản và địa vị đến với bạn, cứ để nó giản dị là tài sản và địa vị. Đừng đồng hóa chúng với bạn. Cứ sử dụng chúng để làm tròn trách nhiệm của bạn và chỉ vậy thôi. Bạn vẫn là bạn, không biến thành một thứ khác, không có gì khác cả.

Sống như thế là chúng ta không bị ảo tưởng thế gian lừa gạt. Bất kỳ thứ gì đến với bạn, nó chỉ là những điều kiện. Không có thứ gì có thể cám dỗ tâm để nó bày trò, dựng chuyện; không có gì quyến rũ tâm vào ba thứ độc – tham, sân, si.

Đây mới là người hộ trì Phật Pháp thật sự. Dầu là bạn nằm trong số người được hộ trì (chư Tăng), hay những người hộ trì (người thế tục), hãy xem xét điều này cho kỹ. Hãy trau dồi giới luật bên trong bạn. Đây là cách chắc chắn nhất để hộ trì Phật Pháp. Hộ trì Phật Pháp bằng sự cống hiến vật thực, chỗ ở, thuốc men cũng tốt, nhưng sự cống hiến đó chỉ đi được tới phần gỗ dác của Phật Pháp. Một cội cây có vỏ cây, gỗ dác, và lõi cây. Cả ba phụ thuộc lẫn nhau để tồn tại, giống như giới, định, huệ. Giới luật chỉnh đốn lời nói và hành động của bạn. Thiền định tập trung tâm ý. Trí huệ hiểu biết hoàn toàn bản chất của tất cả điều kiện. Nghiên cứu như thế, tu hành như thế, và rồi bạn sẽ biết Phật Pháp rốt ráo.

Nếu bạn không nhận ra điều này, bạn sẽ bị phỉnh gạt bởi tài sản, bởi địa vị, bởi bất cứ thứ gì bạn tiếp xúc. Chúng ta phải xem xét cuộc sống của mình và làm cho chúng phù hợp với sự giảng dạy. Chúng ta nên suy ngẫm rằng tất cả chúng sinh trên thế giới đều là một phần trong cái toàn thể. Chúng ta giống như chúng, chúng giống như chúng ta. Chúng cũng biết vui buồn như chúng ta. Như nhau cả. Nếu chúng ta suy ngẫm như thế, sự bình an và hiểu biết sẽ phát sinh. Đây là nền tảng của Phật Pháp.

 ------------------------------------------------------

(1) Sa môn (samana), có nghĩa là người xuất gia, người đã khước từ mọi thú vui trần tục, và chỉ thực hành cầu sự bình an nội tâm.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài Quan Tâm

NHỮNG CÂU NÓI Ý NGHĨA TRONG ĐẠO PHẬT

*** Đừng lãng phí cuộc đời mình tại những nơi mà nhất định bạn sẽ hối hận. ***