Thích Nhất Hạnh
Chương 63
Đường về biển cả.
Trên đường đi, Bụt ghé vào thị trấn Alavi, tại đây Người được dân chúng đón tiếp và cúng dường trai tịnh tại một trú sở công cộng. Đi theo Bụt có tám vị khất sĩ, trong đó có thị giả của Người là khất sĩ Ananda. Sau khi Bụt và các vị khất sĩ đã thọ trai, mọi người đều ngồi lại ăn uống. Hôm ấy đến dự có khoảng ba trăm người. Cơm nước đã xong, đại đức Ananda thỉnh Bụt nói pháp cho quần chúng. Trong khi mọi người đã ngồi yên sẵn sàng nghe Bụt thuyết pháp, thì một bác nông dân bước vào. Bác đã đến trễ, vì sáng hôm nay bác phải đi tìm một con trâu lạc. Tìm được trâu rồi, bác đóng cửa chuồng trâu và vội vã tìm tới gặp Bụt, chưa kịp ăn một hạt cơm nào vào bụng.
Biết
bác nông dân đang đói, Bụt không thuyết pháp vội. Người bảo
đem cơm ra để bác nông dân ăn trước. Có người sốt ruột, bảo rằng ba
trăm người mà phải chờ một người thì quá đáng, nhưng Bụt nhất định chờ.
Người chờ cho bác nông dân ăn cơm và uống nước xong mới bắt
đầu thuyết pháp. Người nói:
-
Thưa quý vị, nếu tôi thuyết pháp trong khi bác nông dân này
đang đói bụng, thì bác sẽ không theo dõi được pháp thoại và như thế
là sẽ thiệt hại cho bác. Đại chúng nên biết không có gì khổ
bằng đói. Cái đói nó hành hạ ta và làm cho ta mất hết thanh
tịnh và an lạc. Chúng ta phải nghĩ tới những kẻ bị đói,
người lớn cũng như trẻ em. Đói vì ăn cơm trễ đã là khổ rồi, huống hồ không ăn
trong nhiều ngày nhiều tháng. Ta phải làm sao để đừng có ai bị đói.
Ngược
dòng sông Hằng, Bụt hướng về Kosambi phía Tây Bắc. Đứng bên dòng sông, Bụt
nhìn thấy một khúc gỗ lớn đang theo dòng chảy về phương Đông. Người gọi các
vị khất sĩ cùng đi, chỉ cho họ thấy khúc gỗ đang trôi và nói:
-
Này các vị khất sĩ! Hãy nhìn khúc gỗ đang trôi kia. Khúc gỗ ấy nếu
không bị trôi dạt vào hai bờ, nếu không chìm
đắm nửa chừng, nếu không vướng vào một cồn cát, nếu không
dính mắc vào rong rêu rác rưởi, nếu không bị người ta vớt lên, nếu
không bị cuốn theo dòng nước xoáy và nếu không bị mục
nát từ bên trong, thì nó sẽ cứ trôi như thế cho đến ngày được ra
biển cả. Các vị cũng thế, trên con đường tu đạo, nếu quý vị
không bị trôi dạt vào hai bờ, nếu quý vị không bị chìm
đắm nửa chừng, nếu không vướng vào một cồn cát, nếu không
dính mắc vào rong rêu rác rưởi, nếu không bị người ta vớt lên, nếu
không bị cuốn theo dòng nước xoáy và nếu không bị mục
nát từ bên trong, thì chắc chắn các vị cũng sẽ trở về với đại
dương bao la của sự giải thoát và giác ngộ hoàn toàn.
Các
vị khất sĩ hỏi Bụt:
-
Bạch Thế Tôn, xin Người chỉ dạy rõ hơn cho chúng con hiểu, thế nào
là vướng mắc vào hai bờ? Thế nào là không bị chìm đắm nửa
chừng? Thế nào là không bị cuốn trôi theo dòng nước xoáy?
Bụt
giảng bày cho các vị khất sĩ:
-
Bị vướng mắc vào hai bờ tức là bị vướng mắc vào sáu
giác quan và sáu loại đối tượng. Sống tinh cần và tỉnh
thức thì quý vị sẽ không đánh mất chánh niệm và sẽ không bị mắc kẹt
vào những cảm thọ hay nhận thức do sự xúc tiếp giữa sáu giác
quan và sáu loại đối tượng của chúng gây ra. Khi tỉnh thức và tu tập
trên con đường trung đạo, quý vị sẽ không bị vướng mắc vào nhận thức sai lầm là
lựa chọn nghiêng về bên này hoặc bên kia của một vấn đề hay một truyền thống tư
tưởng.
Chìm
đắm nửa chừng, tức là bị những sợi dây tham dục và mê đắm trói buộc
lại và không còn đủ sức để thoát ra, và rốt cuộc phải bỏ
lỡ sự nghiệp tu học nửa chừng của mình.
Vướng
vào một cồn cát tức là vướng vào sự cố chấp cho cái bản ngã của
mình, suốt đời chỉ nhắm tới chuyện quyền lợi và hư danh mà
quên đi mục đích tối hậu là giải thoát.
Bị
người ta vớt lên nghĩa là bị lôi kéo vào cái thú vui phàm tục, chỉ mãi mê la
cà suốt ngày suốt buổi rong chơi với bạn bè mà bỏ nhãng công
việc tu hành.
Cuốn
theo dòng nước xoáy có nghĩa là chìm đắm vào trong ngục tù của năm
thứ dục lạc: ăn ngon, mặc đẹp, dâm dục, danh lợi, và lười biếng
mê ngủ.
Mục
nát từ bên trong là sống giả tạo, đạo đức giả dối, lường
gạt quần chúng, lợi dụng đạo pháp để thỏa mãn lợi
ích cá nhân.
Này
các vị khất sĩ! Các vị nên tinh tấn tu học, giữ gìn giới thể,
đừng vướng mắc vào một trong sáu trở ngại đó. Như thế các
vị chắc chắn sẽ đạt quả giác ngộ, như khúc gỗ kia nếu
không bị vướng mắc vào bất cứ trở ngại gì trên sông thì chắc
chắn sẽ tới biển cả.
Trong
lúc Bụt giảng dạy cho các vị khất sĩ, thì có một thiếu
niên chăn trâu khoảng mười sáu tuổi đứng gần đó. Thanh niên này tên
là Nanda, trùng với tên vị khất sĩ Nanda. Chàng Nanda này nghe Bụt
giảng, thích lắm, chàng đến gần Bụt xin Bụt cho chàng đi
theo làm học trò của Người. Chàng nói:
- Bạch
sa môn, con cũng muốn được như các vị khất sĩ có dung
mạo trang nghiêm kia. Con cũng muốn được tu học như các vị.
Con sẽ đem hết sức mình tu học, để không bị vướng vào hai bờ, để
đừng bị chìm đắm, để đừng bị vướng vào một cồn cát, để đừng bị người ta
vớt lên, để đừng bị cuốn theo dòng nước xoáy và để đừng bị mục nát từ
bên trong. Xin sa môn hãy nhận con làm học trò của Người...
Thấy chàng
thiếu niên tuy còn nhỏ mà thông minh, Bụt gật đầu. Người hỏi:
-
Con bao nhiêu tuổi?
-
Bạch sa môn, con mười sáu tuổi.
-
Con có cha mẹ ở nhà không?
-
Thưa, cha mẹ con đều đã mất. Con không có anh em và họ hàng nào
hết. Con chỉ ở giữ trâu cho một người giàu có trong làng mà thôi.
Bụt
hỏi tiếp:
-
Con có thể ăn một ngày một bữa không?
-
Thưa, con đã quen ăn như thế rồi.
Bụt
nói:
-
Đáng ra, con phải đủ hai mươi tuổi mới được chấp nhận vào giáo
đoàn. Chưa đủ tuổi thì chưa đủ sức chịu đựng được cuộc
sống khất sĩ tha phương, nhưng con là một thiếu niên đặc biệt,
ta sẽ cho con được vào giáo đoàn, miễn điều kiện tuổi tác. Con sẽ tập
sự bốn năm với tư cách là một vị sa di trước khi thọ
giới khất sĩ. Bây giờ con đi lùa trâu về trả cho chủ con đi, và con xin
phép chủ con cho nghỉ việc. Xong xuôi, con hãy đến tìm ta.
Thiêu
niên thưa:
-
Bạch sa môn, con không cần làm như thế, những con trâu này khôn lắm, chúng
có thể đi về chuồng một mình mà không cần con lùa.
-
Nhưng con phải lùa chúng về, giao lại cho chủ đàng hoàng và xin phép chủ cho
con được ngừng công việc chăn trâu thì con mới được chấp nhận theo
ta.
-
Nếu lỡ con lùa trâu về giao cho chủ và xin phép chủ được rồi, nhưng
khi trở lại Bụt và các thầy đã đi hết rồi thì sao?
Bụt
cười hiền từ:
-
Con đừng lo, ta đã hứa thì chúng ta sẽ ở đây chờ con.
Nanda sung
sướng đi lùa trâu về chuồng. Bụt gọi khất sĩ Svastika. Người
nói:
-
Svastika, thầy giao cho con hướng dẫn em thiếu niên chăn
trâu này. Thầy tin rằng con biết cách giúp nó.
Svastika chắp
tay phụng mệnh. Thầy khất sĩ Svastika năm nay đã ba mươi chín tuổi. Thầy
biết tại sao Bụt giao trách nhiệm hướng dẫn em thiếu
niên chăn trâu này. Được gặp Bụt hồi còn mười một tuổi, Svastika đã được
Bụt cho xuất gia năm thầy lên hai mươi mốt. Chính vì Svastika mà Bụt
đã giảng pháp Phong Ngưu. Thầy Svastika vẫn thuộc lòng. Thầy đã trùng tuyên bài
pháp này rất nhiều lần cho các bạn đồng tu. Cậu bé này sẽ được tập
sự xuất gia, và bốn năm sau sẽ được thọ giới khất sĩ. Thầy
Svastika tin tưởng là mình đủ sức để hướng dẫn chú bé Nanda
này. Đã đến lúc Bụt giao cho thầy phụ trách tiếp độ những người trẻ
tuổi. Bạn thân nhất của thầy là đại đức Rahula năm nay cũng
đã ba mươi sáu.
Tất
cả mấy đứa em của thầy Svastika đến nay đã có vợ và có chồng. Ai cũng
có gia đình riêng. Ngôi nhà ngày xưa của gia
đình Svastika bây giờ đã xiêu vẹo và đổ nát. Trong một
chuyến du hành ngang qua thôn Uruveka, Svastika đã ghé thăm lại chốn
cũ năm xưa, khi thầy còn mười một tuổi, một mình phải đi chăn
trâu nuôi bốn đứa em. Năm ấy Rupak mới bảy tuổi, Bala mới năm tuổi, Bhima
mới hai tuổi. Năm nay Bhima đã ba mươi tuổi rồi. Cũng như chị nó là Bala, Bhima
đã có chồng có con, em trai của Svastika sau khi cưới vợ đã đi lập nghiệp ở
một nơi khác. Svastika đã có gần hai mươi đứa cháu, và trong số đó cũng có
những đứa đang đi chăn trâu cho người khác như Svastika và
Rupak ngày xưa. Svastika nhớ có lần thầy đã mời thầy Rahula ghé
lại quê nhà.
Lúc
đó Rupak đã cưới vợ và đi sinh sống nơi khác. Hai đứa em gái còn
ở với nhau, sinh sống dựa vào nghề làm bánh. Svastika đã cùng đi với
Rahula ra bờ sông. Nhớ lời hứa với bạn, Svastika đã đi tìm
bọn chăn trâu đang thả trâu cho ăn bên bờ cỏ cạnh dòng sông Ni Liên
Thuyền và bảo chúng để cho Rahula thử cưỡi lên mình trâu. Lúc đó Rahula
đã thọ giới khất sĩ, nên hơi ngần ngại, nhưng cuối cùng,
Rahula đã cởi áo sanghati cho Svastika cầm. Một em bé mục đồng chỉ
cho Rahula cách leo và ngồi trên mình trâu. Thấy con trâu to lớn nhưng
quá hiền lành, Rahula làm đúng theo lời em bé. Ngồi trên mình trâu, để
trâu thong thả bước đi, Rahula cho Svastika biết cái cảm
giác là lạ của thầy. Rahula ý thức về cảm giác ấy, rồi
Rahula nói không biết nếu thấy cảnh này Bụt sẽ nghĩ gì, Svastika biết nếu
không đi tu, nếu ở lại hoàng cung để sau này làm vua, chắc rằng
Rahula sẽ không bao giờ có dịp cỡi lên mình trâu mà đi như hôm nay.
Chú
bé Nanda đã trở lại, đại đức Svastika đã trở về phút giây hiện
tại. Thầy bảo Nanda tới gần thầy, và cho chú biết thầy sẽ là người mà
chú nương tựa. Ngay tối hôm ấy, Nanda được xuống tóc làm một vị sa
di. Chú tiểu mới này được dạy cách mặc áo, mang bát và
những cách đi, đứng, nằm, ngồi theo chánh pháp.
Nanda
đã mười sáu tuổi và có vẻ chín chắn; thầy Svastika nghĩ rằng hướng dẫn
chú sa di này không phải là việc khó. Thầy nhớ năm xưa ở tu
viện Trúc Lâm, có một nhóm mười bảy em bé được các thầy trong tu
viện chấp nhận vào giáo đoàn để tu học, em lớn nhất
mười bảy tuổi và em bé nhất chỉ mới có mười hai. Tất cả đều là con
nhà khá giả, đứa lớn nhất tên là Upali. Mười sáu em kia đều là bạn chơi thân
của Upali.
Khi
Upali xin đi xuất gia, cả bọn mười sáu đứa kia đều đòi cha
mẹ cho đi tu theo. Sau khi được chấp nhận, bọn trẻ được phép vào kỷ
luật của tu viện. Luật của tăng đoàn là không thể ăn quá ngọ.
Đêm đầu, mấy em nhỏ đói quá nên khóc. Các thầy bảo phải đợi tới ngày mai mới
được ăn cơm. Buổi sáng, Bụt hỏi các thầy tại sao ban đêm lại có tiếng trẻ em
khóc. Các thầy trình bày lại tự sự. Bụt bảo:
-
Từ nay về sau, các thầy không nên nhận vào giáo đoàn những người dưới
hai mươi tuổi. Các em chưa đủ sức để chịu đựng nếp
sống của người khất sĩ.
Tuy
nhiên, vì lỡ chập nhận các em rồi nên vẫn được giữ lại. Bụt dạy các thầy
nên cho phép các em từ mười lăm trở xuống được ăn thức
ăn nhẹ vào buổi chiều, cũng như Rahula hồi còn tám tuổi. Em bé nhỏ nhất
năm ấy, năm nay cũng đã được thọ giới khất sĩ rồi vì đã đến tuổi
hai mươi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét