9 thg 3, 2021

ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG (Phần 11 - Chương 68)

Thích Nhất Hạnh

Chương 68

Ba cánh cửa nhiệm mầu.

Rời miền đất biển, Bụt trở về Pataliputta, ghé Vesali và đi lên hướng Tây Bắc, quê hương của Người. Khi tới Samagama, thuộc nội địa vương quốc Sakya. Bụt nghe nói vị giáo chủ của giáo phái Nigantha là Nathaputta đã qua đời, và giáo đoàn du sĩ Nigantha đã bị chia rẽ trầm trọng thành hai phái. Hai bên chống đối nhau rất kịch liệt về mặt giáo lý cũng như về mặt tổ chức khiến cho giới đệ tử của họ rất khổ sở, không biết nên theo bên nào.

Vị sa di Cunda, thị giả của đại đức Sariputta đã tới gặp đại đức Ananda và kể lại những chuyện trên, vì trong mùa an cư ở Pava, chú đã nghe hết mọi chi tiết. Thầy Ananda liền đem câu chuyện chia rẽ của giáo phái Nigantha bạch lên Bụt. Thầy nói, giọng rầu rỉ:

- Lạy Bụt, con mong sau khi Người diệt độ, sẽ không có sự chia rẽ trong hàng ngũ giáo đoàn khất sĩ như thế. Con không ưa sự chia rẽ và tranh chấp một chút nào hết.

Bụt nhìn Ananda hiền từ:

- Này Ananda, thầy có thấy các vị khất sĩ trong giáo đoàn ta tranh chấp và cãi vả nhau về nội dung của các pháp môn như Tứ niệm xứ, Chánh cần, Tứ diệu đế, Thất Bồ đề và Bát chánh đạo không?

- Lạy Bụt, con chưa thấy có vị khất sĩ nào tranh chấp về nội dung giáo lý, nhưng con nghĩ khi Bụt còn tại thế, nhờ tuệ đức sâu dày của Bụt, nên ai cũng nương tựa vào Người, nghe lời Người và tu học yên ổn không có vấn đề gì, nhưng một khi không còn Bụt nữa, họ có thể bắt đầu tranh chấp với nhau về đạo pháp, về giới luật và về cách thức sinh hoạt và hành hóa. Nếu điều này xảy ra thì nhiều người sẽ buồn lắm và sẽ mất niềm tin tưởng nơi chánh pháp.

Bụt an ủi Ananda:

- Đừng lo ngại, Ananda, chừng nào mà có sự tranh chấp trong giáo đoàn về nội dung giáo lý, về các pháp môn tu tập và cách truyền tải sai lệch về giáo pháp, thì lúc đó ta mới nên e ngại, còn những tranh chấp về tổ chức, về giới luật và về thói sinh hoạt, là điều có thể xảy ra, nhưng cũng không đáng ngại lắm đâu.

Tuy được Bụt trấn an, đại đức Ananda vẫn không tươi tỉnh lắm. Thầy mới nghe tin là tại Vesali, đại đức Sunakkhata, ngày xưa từng làm thị giả cho Bụt, nay đã rời bỏ giáo đoàn khất sĩ vì những bất mãn riêng tư. Thầy ấy đã bắt đầu tổ chức những cuộc diễn giảng cho tín chúng với nội dung chống lại Bụt và giáo đoàn. Đi tới đâu Sunakkhata cũng nói: sa môn Gotama cũng chỉ là người thường thôi, không có gì đặc biệt hơn ai và giáo pháp của sa môn Gotama chỉ đem tới sự giải thoát cá nhân, chẳng có ích lợi gì cho xã hội. Sunakkata đã bắt đầu gây hoang mang trong quần chúng. Điều này chính đại đức Sariputta cũng đã biết.

Đại đức còn biết rằng mầm mống chia rẽ đã lan tỏa trong giáo đoàn ở thủ đô Rajagaha. Một nhóm các vị khất sĩ tại Rajagaha, trong đó có cả khất sĩ Devadatta đang âm thầm tổ chức một giáo đoàn khất sĩ độc lập với giáo đoàn của Bụt. Cộng tác với thầy Devadatta có nhiều thầy cũng thuộc hạng giỏi như các đại đức Kokalita, Katamoraka Tissa, Khandadeviputta và Samuddadatta. Thầy Devadatta vốn là một trong những người đệ tử lớn, thông minh và tài giỏi nhất của Bụt. Chính sư huynh Sariputta đã từng khen ngợi đại đức Devadatta ngay giữa công chúng vùng Rajagaha. Đã có lúc đại đức Sariputta tiếp xử với đại đức Devadatta như là một người bạn tri kỷ. Vậy mà không biết vì lý do nào Devadatta gần đây đã nảy ý ganh ghét, ngay cả với Bụt. Thầy Ananda không biết là đã có ai đã trình lên Bụt các vụ việc này chưa. Riêng thầy, thầy rất ái ngại phải nói cho Bụt nghe những chuyện đau buồn như thế. Nhưng thầy cũng nghĩ là Bụt cũng đã biết mọi thứ, dù không ai báo lại với Người.

Mùa mưa năm sau, Bụt lại về Savatthi và an cư tại vườn Cấp Cô Độc. Đầu mùa an cư, Người giảng bài Pháp Ấn.

Hôm đó, tại giảng đường Kỳ Thọ, Bụt nói:

- Có các pháp ấn mầu nhiệm, quý vị có biết không? Hôm nay tôi muốn nói cho quý vị nghe về pháp ấn ấy. Quý vị hãy buông bỏ mọi tri kiến để tâm hồn được thanh tịnh thì quý vị mới nghe, hiểu và tiếp thu được.

Này các vị khất sĩ! Pháp ấn như là con dấu chứng thực tích cách chân thực của chánh pháp. Có ba con dấu tất cả. Bất cứ một giáo lý nào, một pháp môn nào mà không bao hàm ba pháp ấn ấy, thì không phải là giáo lý của giải thoát. Ba pháp ấn là Không, Vô tướng, và Vô nguyện. Ba pháp ấn này cũng là ba cánh cửa để đi vào thế giới của giải thoát. Vì vậy pháp ấn cũng được gọi là cánh cửa giải thoát.

Này các vị khất sĩ! Pháp ấn thứ nhất là Không (sunnata). Không ở đây có nghĩa là sự trống rỗng, không có tự ngã riêng biệt. Không ở đây không có nghĩa là không đối với có. Như các vị đã biết, chấp có và chấp không là hai kiến chấp sai lầm. Vậy Không ở đây có nghĩa là không có một tự ngã riêng biệt, không có một sự tồn tại riêng biệt. Vạn pháp nương vào nhau mà có mặt, không có pháp nào có thể phát sinh và tồn tại một cách độc lập. Các pháp sinh khởi và tồn tại trong quan hệ nhân duyên đan xen dày đặc, cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không, cái này sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt. Do đó, bản chất của Không là duyên khởi. Này các vị! Các vị phải tập nhìn vạn pháp trong liên hệ nhân duyên của chúng để thấy được rằng trong một pháp có mặt tất cả vạn pháp, để thấy rằng trong cái một có cái tất cả và ngoài cái một, cái tất cả không thể nào tồn tại. Quán chiếu mười tám giới là sáu căn, sáu trần và sáu thức, quán chiếu năm uẩn là sắc thọ tưởng, hành và thức, các vị sẽ thấy được rằng không có giới nào cũng như không có uẩn nào có tự thể riêng biệt, rằng tất cả đều nương vào nhau mà thành. Thấy được tính Không ấy rồi thì thấy được tính Không của vạn pháp. Thấy được tính Không của vạn pháp rồi thì quý vị không còn ước muốn theo đuổi hoặc trốn chạy bất cứ một pháp nào nữa và các vị sẽ đồng thời vượt thoát những tham đắm, phân biệt, kỳ thị đối với tất cả các pháp. Quán chiếu về tính Không tức là mở ra một cánh cửa để đi vào thế giới của tự do, không còn bị ràng buộc vào một pháp nào nữa. Vì vậy Không là cánh cửa giải thoát thứ nhất.

Này các vị khất sĩ! Pháp ấn thứ hai là Vô tướng (animita). Vô tướng tức là vượt thoát những khuôn khổ của tri giác và nhận thức phân biệt. Vì không thấy được tự tính duyên khởi của các pháp, vì không chứng đắc được tính Không của các pháp, cho nên người đời thường nhìn các pháp như những hiện tượng riêng biệt, độc lập, cái này nằm ngoài cái kia, cái này có mặt độc lập với tất cả cái kia. Nhìn các pháp như thế cũng giống như là lấy thanh gươm của nhận thức phân biệt để chặt đứt thực tại ra từng mảnh nhỏ rời rạc, và vì như thế mà người đời không thể thấy được tự thân của thực tại. Này quý vị! Vạn pháp tùy thuộc vào nhau, cái này có trong cái kia, cái này lồng trong cái kia, trong một cái có tất cả mọi cái. Đó là ý nghĩa tương nhập và tương tức. Cái này đi vào trong cái kia, cái kia đi vào trong cái này; cái này là cái kia, cái kia là cái này. Quán chiếu như thế các vị sẽ thấy rằng tri giác của chúng ta đầy dẫy sai lầm. Con mắt của cảm giác không thấy được vạn hữu rõ ràng và chính xác bằng con mắt quán chiếu bởi trí tuệ. Có khi nhìn sợi dây, con mắt của của tri giác có thể nhận lầm là con rắn, nhưng dưới con mắt của quán chiếu, tự thân của sợi dây được hiển lộ rõ ràng và hình bóng con rắn sẽ tự nhiên tiêu diệt.

Quý vị khất sĩ! Các tướng trạng như có, không, sinh, diệt, một, nhiều, còn, mất, tới, đi, dơ, sạch, thêm, bớt ... đều là những tướng trạng mà tri giác và nhận thức phân biệt bao trùm vào thực tại. Đối với đệ nhất nghĩa đế, thì tự thân thực tại không bị giam cầm trong những phạm trù phân biệt đó, không bị áp đặt vào khuôn khổ trong các tướng trạng đó của nhận thức phân biệt. Vì vậy cho nên vạn pháp được gọi là Vô tướng. Quán chiếu để làm tan rã những ý niệm có, không, sinh, diệt, một, nhiều, còn, mất, tới, đi, dơ, sạch, thêm, bớt ... các vị sẽ đạt tới giải thoát. Vô tướng vì vậy là cánh cửa mầu nhiệm thứ hai mở ra để ta đi vào thế giới của tự do, không còn bị ràng buộc vào một pháp nào nữa. Vô tướng là cánh cửa giải thoát thứ hai.

Này các vị khất sĩ! Pháp ấn thứ ba là Vô tác, hay là vô nguyện (appanithita). Vô nguyện là không đuổi theo bất cứ một cái gì. Tại sao thế! Thói thường người ta hay muốn trốn chạy khỏi một pháp này để đuổi theo một pháp khác. Người đời ưa trốn chạy sự nghèo khổ để đuổi theo sự giàu sang. Người tu đạo ưa trốn chạy sinh tử để đuổi theo vô sanh. Nhưng nếu các pháp có mặt trong nhau, nếu các pháp là đồng như nhau, thì ta còn cần trốn chạy pháp nào và đuổi theo pháp nào? Trong sinh tử đã có niết bàn, trong niết bàn đã có sinh tử, niết bàn và sinh tử không phải là hai thực thể riêng biệt. Vậy thì buông bỏ sinh tử để chạy theo niết bàn tức là chưa chứng nhập được thể tính duyên sinh của vạn pháp. Chưa chứng nhập tự tính Không và Vô tướng của vạn pháp. Quán chiếu Vô nguyện là để chấm dứt ngay sự tìm cầu và theo đuổi hư vọng.

Giải thoát và giác ngộ không phải là những pháp có mặt ở ngoài ta. Chỉ cần mở mắt để chiêm nghiệm, thì ta thấy được ta chính là bản thân của giải thoát và giác ngộ. Tất cả các pháp, tất cả chúng sinh đều có sẵn tự tính giác ngộ tròn đầy trong tự thân mình. Các vị đừng đi tìm tự tính ấy ở bên ngoài. Nếu biết soi ánh sáng quán chiếu vào tự thân, tự khắc các vị tìm thấy được giác ngộ. Các vị khất sĩ! Tất cả các pháp trong vũ trụ không pháp nào tồn tại độc lập ngoài nhận thức của các vị, trong đó kể cả niết bàn, trong đó kể cả giải thoát. Các vị không cần đi tìm cầu những thứ ấy ở đâu nữa. Các vị nên nhớ rằng đối tượng nhận thức không tồn tại độc lập với nhận thức. Không đuổi theo một pháp nào, kể cả Phạm Thiên, Niết Bàn và Giải Thoát, đó là ý nghĩa của Vô nguyện. Các vị đã là cái mà các vị đang đi tìm. Vô nguyện do đó, là cánh cửa mầu nhiệm thứ ba mở ra để ta đi vào thế giới của tự do, không còn bị ràng buộc vào một pháp nào nữa. Vô nguyện là cánh cửa giải thoát thứ ba vậy.

Này các vị khất sĩ! Đó là giáo lý Pháp ấn, đó là pháp môn ba cánh cửa giải thoát. Tam Giải Thoát Môn là pháp môn rất vi diệu, rất mầu nhiệm, các vị nên hết lòng học hỏi và thực tập. Tu tập theo pháp này quý vị sẽ đạt tới tri kiến thanh tịnh và giải thoát.

Bụt nói xong bài Pháp Ấn, đại đức Sariputta đứng dậy đảnh lễ Bụt. Đại chúng thấy thế đều đứng dậy và lạy xuống để tạ ơn Thế Tôn.

Đại đức Sariputta tuyên bố với đại chúng là ngày hôm sau sẽ có một buổi trùng tuyên và học hỏi về bài pháp này. Đại đức nói phải đem hết bổn lực và tâm ý ra mà học hỏi và thực tập mới mong có thể hiểu được. Đại đức Svastika thấy pháp này có liên hệ tới pháp Không mà Bụt dạy năm ngoái. Bụt đã hướng dẫn các đệ tử của Người từ những giáo lý đơn giản đến những giáo lý huyền diệu. Thầy thấy các vị trưởng thượng như Mahakassapa, Sariputta, Punna, Moggallana ... ai nấy đều tỏ vẻ sung sướng cực kỳ khi được nghe pháp này.

Tình thầy trò thật thắm thiết. 

Chiều ngày hôm sau, các đại đức Yamelu và Tekula đến tìm Bụt ở tịnh thất của Người. Hai đại đức này đều xuất thân từ dòng dõi Bà la môn. Đó là hai anh em ruột. Họ nổi tiếng là kinh thông văn chương, cú pháp và nhất là cổ ngữ. Giọng phúng tụng và xướng tán của họ rất thanh tao. Gặp Bụt, hai đại đức lạy xuống. Bụt mời họ ngồi:

Đại đức Yamelu nói:

- Bạch Thế Tôn, chúng con muốn xin phép Thế Tôn để trình bày về vấn đề chuyển ngữ trong công cuộc hoằng pháp. Thưa Thế Tôn, trong khi Thế Tôn thuyết pháp, Người thường dùng ngôn ngữ Magadhi ở Magadha hay ở Kosala cũng vậy. Nhưng trong giới khất sĩ có nhiều vị không sử dụng được tiếng Magadhi, và ở những miền họ hành đạo, dân chúng cũng không biết tiếng Magadhi. Vì vậy pháp âm của Người đã được chuyển dịch thành rất nhiều thứ tiếng của nhiều dân tộc khác nhau. Thời chưa xuất gia, chúng con đã may mắn học được nhiều sinh ngữ, và chúng con nhận xét rằng ở nhiều nơi người ta đã làm sai lệch và méo mó nghĩa pháp vi diệu của Người bằng cách diễn dịch thành nhiều nghĩa thổ ngữ. Chúng con xin Bụt cho phép chúng con đem tất cả các bài giáo pháp của Người viết thành ngôn ngữ Sanskrit cổ điển. Nếu các vị khất sĩ bốn phương đều học thuộc pháp âm của Người qua cổ ngữ ấy thì chắc chắn chúng ta tránh được cái nạn làm méo mó và sai lệch tiếng nói của Bụt.

Bụt im lặng một lát rồi ngửng lên nhìn hai vị đại đức:

- Các vị làm như thế không tiện, đạo pháp là một thực thể linh động, ngôn ngữ để chuyên chở giáo pháp phải là những ngôn ngữ đang được sử dụng. Tôi không muốn giáo lý của chúng ta được trình bày bằng một cổ ngữ, trừ những người trí thức, còn lại ít ai hiểu và cảm thụ được giáo lý qua một cổ ngữ. Các thầy Yamalu và Tekula, tôi muốn nói rõ với quý vị là giới môn đệ của tôi, xuất gia cũng như tại gia, đều phải học hỏi và thực tập giáo pháp bằng chính tiếng mẹ đẻ của mình. Như vậy giáo pháp mới linh động và dễ hiểu. Giáo pháp phải được thích ứng với đời sống hiện tại và phải được trình bày như thế nào để thích hợp và dễ hiểu với văn hóa địa phương.

Hiểu được ý Bụt, hai đại đức Yamalu và Tekula đảnh lễ Người và cáo lui.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài Quan Tâm

NHỮNG CÂU NÓI Ý NGHĨA TRONG ĐẠO PHẬT

*** Đừng lãng phí cuộc đời mình tại những nơi mà nhất định bạn sẽ hối hận. ***