Thích Nhất Hạnh
Chương 68
Ba cánh cửa nhiệm mầu.
Rời
miền đất biển, Bụt trở về Pataliputta, ghé Vesali và đi
lên hướng Tây Bắc, quê hương của Người. Khi tới Samagama, thuộc
nội địa vương quốc Sakya. Bụt nghe nói vị giáo chủ của giáo
phái Nigantha là Nathaputta đã qua đời, và giáo đoàn du sĩ
Nigantha đã bị chia rẽ trầm trọng thành hai phái. Hai bên chống đối
nhau rất kịch liệt về mặt giáo lý cũng như về mặt tổ chức khiến cho
giới đệ tử của họ rất khổ sở, không biết nên theo bên nào.
Vị sa
di Cunda, thị giả của đại đức Sariputta đã tới
gặp đại đức Ananda và kể lại những chuyện trên, vì trong mùa an
cư ở Pava, chú đã nghe hết mọi chi tiết. Thầy Ananda liền
đem câu chuyện chia rẽ của giáo phái Nigantha bạch lên Bụt.
Thầy nói, giọng rầu rỉ:
-
Lạy Bụt, con mong sau khi Người diệt độ, sẽ không có sự chia rẽ trong
hàng ngũ giáo đoàn khất sĩ như thế. Con không ưa sự chia rẽ
và tranh chấp một chút nào hết.
Bụt nhìn
Ananda hiền từ:
-
Này Ananda, thầy có thấy các vị khất sĩ trong giáo
đoàn ta tranh chấp và cãi vả nhau về nội dung của các pháp
môn như Tứ niệm xứ, Chánh cần, Tứ diệu đế, Thất Bồ
đề và Bát chánh đạo không?
-
Lạy Bụt, con chưa thấy có vị khất sĩ nào tranh chấp về nội
dung giáo lý, nhưng con nghĩ khi Bụt còn tại thế, nhờ tuệ đức sâu dày
của Bụt, nên ai cũng nương tựa vào Người, nghe lời Người và tu
học yên ổn không có vấn đề gì, nhưng một khi không còn Bụt
nữa, họ có thể bắt đầu tranh chấp với nhau về đạo pháp, về giới
luật và về cách thức sinh hoạt và hành hóa. Nếu điều này xảy ra
thì nhiều người sẽ buồn lắm và sẽ mất niềm tin tưởng nơi chánh pháp.
Bụt an
ủi Ananda:
-
Đừng lo ngại, Ananda, chừng nào mà có sự tranh chấp
trong giáo đoàn về nội dung giáo lý, về các pháp
môn tu tập và cách truyền tải sai lệch về giáo pháp, thì lúc đó ta mới nên
e ngại, còn những tranh chấp về tổ chức, về giới luật và
về thói sinh hoạt, là điều có thể xảy ra, nhưng cũng không đáng ngại
lắm đâu.
Tuy
được Bụt trấn an, đại đức Ananda vẫn không tươi tỉnh lắm. Thầy
mới nghe tin là tại Vesali, đại đức Sunakkhata, ngày
xưa từng làm thị giả cho Bụt, nay đã rời bỏ giáo
đoàn khất sĩ vì những bất mãn riêng tư. Thầy ấy đã bắt đầu
tổ chức những cuộc diễn giảng cho tín chúng với nội dung chống
lại Bụt và giáo đoàn. Đi tới đâu Sunakkhata cũng nói: sa
môn Gotama cũng chỉ là người thường thôi, không có gì đặc
biệt hơn ai và giáo pháp của sa môn Gotama chỉ đem tới sự
giải thoát cá nhân, chẳng có ích lợi gì cho xã hội.
Sunakkata đã bắt đầu gây hoang mang trong quần chúng. Điều này chính
đại đức Sariputta cũng đã biết.
Đại
đức còn biết rằng mầm mống chia rẽ đã lan tỏa trong giáo đoàn ở
thủ đô Rajagaha. Một nhóm các vị khất sĩ tại Rajagaha, trong đó
có cả khất sĩ Devadatta đang âm thầm tổ chức một giáo
đoàn khất sĩ độc lập với giáo đoàn của Bụt. Cộng
tác với thầy Devadatta có nhiều thầy cũng thuộc hạng giỏi như các đại
đức Kokalita, Katamoraka Tissa, Khandadeviputta và Samuddadatta. Thầy
Devadatta vốn là một trong những người đệ tử lớn, thông
minh và tài giỏi nhất của Bụt. Chính sư huynh Sariputta đã từng
khen ngợi đại đức Devadatta ngay giữa công chúng vùng Rajagaha. Đã có
lúc đại đức Sariputta tiếp xử với đại đức Devadatta như là
một người bạn tri kỷ. Vậy mà không biết vì lý do nào
Devadatta gần đây đã nảy ý ganh ghét, ngay cả với Bụt. Thầy
Ananda không biết là đã có ai đã trình lên Bụt các vụ việc này chưa. Riêng
thầy, thầy rất ái ngại phải nói cho Bụt nghe những chuyện đau buồn
như thế. Nhưng thầy cũng nghĩ là Bụt cũng đã biết mọi thứ, dù không ai báo lại
với Người.
Mùa
mưa năm sau, Bụt lại về Savatthi và an cư tại vườn Cấp Cô Độc.
Đầu mùa an cư, Người giảng bài Pháp Ấn.
Hôm
đó, tại giảng đường Kỳ Thọ, Bụt nói:
-
Có các pháp ấn mầu nhiệm, quý vị có biết không? Hôm nay tôi muốn nói
cho quý vị nghe về pháp ấn ấy. Quý vị hãy buông bỏ mọi tri
kiến để tâm hồn được thanh tịnh thì quý vị mới nghe, hiểu và
tiếp thu được.
Này
các vị khất sĩ! Pháp ấn như là con dấu chứng thực tích cách
chân thực của chánh pháp. Có ba con dấu tất cả. Bất cứ
một giáo lý nào, một pháp môn nào mà không bao hàm ba pháp
ấn ấy, thì không phải là giáo lý của giải thoát. Ba pháp
ấn là Không, Vô tướng, và Vô nguyện. Ba pháp ấn này cũng là
ba cánh cửa để đi vào thế giới của giải thoát. Vì
vậy pháp ấn cũng được gọi là cánh cửa giải thoát.
Này
các vị khất sĩ! Pháp ấn thứ nhất là Không (sunnata). Không ở đây có
nghĩa là sự trống rỗng, không có tự ngã riêng biệt. Không ở đây không có nghĩa
là không đối với có. Như các vị đã biết, chấp có và chấp
không là hai kiến chấp sai lầm. Vậy Không ở đây có nghĩa là
không có một tự ngã riêng biệt, không có một sự tồn tại riêng
biệt. Vạn pháp nương vào nhau mà có mặt, không có pháp nào có thể
phát sinh và tồn tại một cách độc lập. Các pháp sinh
khởi và tồn tại trong quan hệ nhân duyên đan xen
dày đặc, cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không, cái này sinh
vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt. Do đó, bản chất của Không
là duyên khởi. Này các vị! Các vị phải tập nhìn vạn
pháp trong liên hệ nhân duyên của chúng để thấy được rằng
trong một pháp có mặt tất cả vạn pháp, để thấy rằng trong cái một có cái
tất cả và ngoài cái một, cái tất cả không thể nào tồn tại. Quán
chiếu mười tám giới là sáu căn, sáu trần và sáu
thức, quán chiếu năm uẩn là sắc thọ tưởng, hành và thức, các vị
sẽ thấy được rằng không có giới nào cũng như không có uẩn nào có tự
thể riêng biệt, rằng tất cả đều nương vào nhau mà thành. Thấy được tính
Không ấy rồi thì thấy được tính Không của vạn pháp. Thấy
được tính Không của vạn pháp rồi thì quý vị không còn ước
muốn theo đuổi hoặc trốn chạy bất cứ một pháp nào nữa và các vị
sẽ đồng thời vượt thoát những tham đắm, phân biệt, kỳ thị đối
với tất cả các pháp. Quán chiếu về tính Không tức là mở ra
một cánh cửa để đi vào thế giới của tự do, không còn bị
ràng buộc vào một pháp nào nữa. Vì vậy Không là cánh cửa giải
thoát thứ nhất.
Này
các vị khất sĩ! Pháp ấn thứ hai là Vô
tướng (animita). Vô tướng tức là vượt thoát những khuôn khổ
của tri giác và nhận thức phân biệt. Vì không thấy
được tự tính duyên khởi của các pháp, vì không chứng
đắc được tính Không của các pháp, cho nên người đời thường nhìn
các pháp như những hiện tượng riêng biệt, độc lập, cái
này nằm ngoài cái kia, cái này có mặt độc lập với tất cả
cái kia. Nhìn các pháp như thế cũng giống như là lấy thanh gươm
của nhận thức phân biệt để chặt đứt thực tại ra từng
mảnh nhỏ rời rạc, và vì như thế mà người đời không thể thấy được tự thân
của thực tại. Này quý vị! Vạn pháp tùy thuộc vào nhau, cái
này có trong cái kia, cái này lồng trong cái kia, trong một cái có tất cả mọi
cái. Đó là ý nghĩa tương nhập và tương tức. Cái
này đi vào trong cái kia, cái kia đi vào trong cái này; cái
này là cái kia, cái kia là cái này. Quán chiếu như thế các vị sẽ thấy
rằng tri giác của chúng ta đầy dẫy sai lầm. Con mắt
của cảm giác không thấy được vạn hữu rõ
ràng và chính xác bằng con mắt quán chiếu bởi trí
tuệ. Có khi nhìn sợi dây, con mắt của của tri giác có
thể nhận lầm là con rắn, nhưng dưới con mắt của quán chiếu, tự thân
của sợi dây được hiển lộ rõ ràng và hình bóng con rắn sẽ tự
nhiên tiêu diệt.
Quý
vị khất sĩ! Các tướng trạng như có, không, sinh, diệt, một, nhiều, còn, mất,
tới, đi, dơ, sạch, thêm, bớt ... đều là những tướng trạng mà tri
giác và nhận thức phân biệt bao trùm vào thực tại. Đối
với đệ nhất nghĩa đế, thì tự thân thực tại không bị
giam cầm trong những phạm trù phân biệt đó, không bị áp đặt
vào khuôn khổ trong các tướng trạng đó của nhận thức phân biệt. Vì
vậy cho nên vạn pháp được gọi là Vô tướng. Quán chiếu để
làm tan rã những ý niệm có, không, sinh, diệt, một, nhiều, còn, mất,
tới, đi, dơ, sạch, thêm, bớt ... các vị sẽ đạt tới giải thoát. Vô
tướng vì vậy là cánh cửa mầu nhiệm thứ hai mở ra để
ta đi vào thế giới của tự do, không còn bị ràng buộc
vào một pháp nào nữa. Vô tướng là cánh cửa giải thoát thứ
hai.
Này
các vị khất sĩ! Pháp ấn thứ ba là Vô tác, hay là vô
nguyện (appanithita). Vô nguyện là không đuổi theo bất cứ một
cái gì. Tại sao thế! Thói thường người ta hay muốn trốn chạy khỏi một pháp này để
đuổi theo một pháp khác. Người đời ưa trốn chạy sự nghèo khổ để đuổi
theo sự giàu sang. Người tu đạo ưa trốn chạy sinh
tử để đuổi theo vô sanh. Nhưng nếu các pháp có mặt trong nhau, nếu
các pháp là đồng như nhau, thì ta còn cần trốn chạy pháp nào và đuổi theo pháp
nào? Trong sinh tử đã có niết bàn, trong niết bàn đã
có sinh tử, niết bàn và sinh tử không phải là
hai thực thể riêng biệt. Vậy thì buông bỏ sinh
tử để chạy theo niết bàn tức là chưa chứng
nhập được thể tính duyên sinh của vạn pháp.
Chưa chứng nhập tự tính Không và Vô tướng của vạn
pháp. Quán chiếu Vô nguyện là để chấm dứt ngay sự tìm
cầu và theo đuổi hư vọng.
Giải
thoát và giác ngộ không phải là những pháp có mặt ở ngoài ta.
Chỉ cần mở mắt để chiêm nghiệm, thì ta thấy được ta chính
là bản thân của giải thoát và giác ngộ. Tất cả các
pháp, tất cả chúng sinh đều có sẵn tự tính giác
ngộ tròn đầy trong tự thân mình. Các vị đừng đi tìm tự tính ấy ở
bên ngoài. Nếu biết soi ánh sáng quán chiếu vào tự thân, tự khắc các
vị tìm thấy được giác ngộ. Các vị khất sĩ! Tất cả các pháp
trong vũ trụ không pháp nào tồn tại độc
lập ngoài nhận thức của các vị, trong đó kể cả niết bàn,
trong đó kể cả giải thoát. Các vị không cần đi tìm cầu những thứ ấy ở đâu
nữa. Các vị nên nhớ rằng đối tượng nhận thức không tồn tại độc
lập với nhận thức. Không đuổi theo một pháp nào, kể cả Phạm
Thiên, Niết Bàn và Giải Thoát, đó là ý
nghĩa của Vô nguyện. Các vị đã là cái mà các vị đang đi tìm. Vô
nguyện do đó, là cánh cửa mầu nhiệm thứ ba mở ra để ta đi
vào thế giới của tự do, không còn bị ràng buộc vào một pháp nào
nữa. Vô nguyện là cánh cửa giải thoát thứ ba vậy.
Này
các vị khất sĩ! Đó là giáo lý Pháp ấn, đó là pháp môn ba
cánh cửa giải thoát. Tam Giải Thoát Môn là pháp
môn rất vi diệu, rất mầu nhiệm, các vị nên hết
lòng học hỏi và thực tập. Tu tập theo pháp
này quý vị sẽ đạt tới tri kiến thanh tịnh và giải thoát.
Bụt
nói xong bài Pháp Ấn, đại đức Sariputta đứng
dậy đảnh lễ Bụt. Đại chúng thấy thế đều đứng
dậy và lạy xuống để tạ ơn Thế Tôn.
Đại
đức Sariputta tuyên bố với đại chúng là ngày hôm sau
sẽ có một buổi trùng tuyên và học hỏi về bài pháp này. Đại
đức nói phải đem hết bổn lực và tâm ý ra mà học
hỏi và thực tập mới mong có thể hiểu được. Đại
đức Svastika thấy pháp này có liên hệ tới pháp Không mà Bụt
dạy năm ngoái. Bụt đã hướng dẫn các đệ tử của Người từ
những giáo lý đơn giản đến những giáo lý huyền diệu.
Thầy thấy các vị trưởng thượng như Mahakassapa, Sariputta, Punna,
Moggallana ... ai nấy đều tỏ vẻ sung sướng cực kỳ khi được
nghe pháp này.
Tình
thầy trò thật thắm thiết.
Chiều
ngày hôm sau, các đại đức Yamelu và Tekula đến tìm Bụt ở tịnh
thất của Người. Hai đại đức này đều xuất
thân từ dòng dõi Bà la môn. Đó là hai anh em ruột.
Họ nổi tiếng là kinh thông văn chương, cú pháp và nhất
là cổ ngữ. Giọng phúng tụng và xướng tán của họ rất thanh
tao. Gặp Bụt, hai đại đức lạy xuống. Bụt mời họ ngồi:
Đại
đức Yamelu nói:
-
Bạch Thế Tôn, chúng con muốn xin phép Thế Tôn để trình bày
về vấn đề chuyển ngữ trong công cuộc hoằng pháp. Thưa Thế
Tôn, trong khi Thế Tôn thuyết pháp, Người thường dùng ngôn
ngữ Magadhi ở Magadha hay ở Kosala cũng vậy. Nhưng trong giới khất
sĩ có nhiều vị không sử dụng được tiếng Magadhi, và ở những miền
họ hành đạo, dân chúng cũng không biết tiếng Magadhi. Vì
vậy pháp âm của Người đã được chuyển dịch thành rất nhiều thứ tiếng
của nhiều dân tộc khác nhau. Thời chưa xuất gia, chúng con đã may
mắn học được nhiều sinh ngữ, và chúng con nhận xét rằng ở nhiều
nơi người ta đã làm sai lệch và méo mó nghĩa pháp vi diệu của Người
bằng cách diễn dịch thành nhiều nghĩa thổ ngữ. Chúng con xin
Bụt cho phép chúng con đem tất cả các bài giáo pháp của Người
viết thành ngôn ngữ Sanskrit cổ điển. Nếu các vị khất
sĩ bốn phương đều học thuộc pháp âm của Người qua cổ
ngữ ấy thì chắc chắn chúng ta tránh được cái nạn làm méo mó
và sai lệch tiếng nói của Bụt.
Bụt im
lặng một lát rồi ngửng lên nhìn hai vị đại đức:
-
Các vị làm như thế không tiện, đạo pháp là một thực
thể linh động, ngôn ngữ để chuyên chở giáo pháp phải
là những ngôn ngữ đang được sử dụng. Tôi không muốn giáo
lý của chúng ta được trình bày bằng một cổ ngữ, trừ những
người trí thức, còn lại ít ai hiểu và cảm thụ được giáo lý qua
một cổ ngữ. Các thầy Yamalu và Tekula, tôi muốn nói rõ với quý vị
là giới môn đệ của tôi, xuất gia cũng như tại gia, đều
phải học hỏi và thực tập giáo pháp bằng chính tiếng mẹ
đẻ của mình. Như vậy giáo pháp mới linh động và dễ
hiểu. Giáo pháp phải được thích ứng với đời
sống hiện tại và phải được trình bày như thế nào để thích
hợp và dễ hiểu với văn hóa địa phương.
Hiểu
được ý Bụt, hai đại đức Yamalu và Tekula đảnh lễ Người và cáo
lui.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét