Thích Nhất Hạnh
Phần 11
Nghĩa nặng ân sâu.
Chương 66
Bốn núi bao quanh.
Một
buổi sáng tinh sương, đại đức Moggallana tìm đến Bụt và thưa:
- Bạch đức Thế
Tôn, trong giờ thiền tọa đầu hôm qua, con đã nhớ nghĩ đến mẹ của con,
và con đã dùng định lực để quán chiếu về nỗi nhớ ấy của
con đối với mẹ. Con biết là trong thời niên thiếu đã có đôi lần con làm
cho mẹ con buồn, nhưng con cũng biết đó không phải là nguyên
do mà hôm qua con buồn. Nỗi buồn thấm thía nhất của con phát
sinh từ ý nghĩ là con không làm được gì để giúp mẹ lúc bà
còn sống, và con cũng không làm được gì để giúp mẹ sau khi bà đã mệnh
chung. Bạch Thế Tôn, nghiệp chướng của mẹ con rất
nặng. Hồi sinh tiền, bà đã từng tạo ra nhiều ác nghiệp. Con biết
rằng bây giờ những ác nghiệp ấy vẫn còn theo
đuổi và tiếp tục hành hạ khổ đau. Trong thiền định, con
thấy hình ảnh này: con thấy mình đi thăm mẹ ở một nơi
thật tối tăm, ẩm thấp. Mẹ con than đói, bà gầy ốm như một bộ
xương. Con lấy cơm trong bình bát dâng lên, mẹ lấy tay che lại
vì sợ người khác thấy, rồi mẹ bốc cơm ăn, nhưng khi vừa đưa cơm
vào tới miệng thì cơm ấy biến thành than hồng, mẹ con không
thể nuốt được, phải nhả ra. Thế Tôn, hình ảnh đó con không thể
nào quên được. Con không biết làm cách gì để cho nghiệp
chướng của mẹ con được tiêu trừ và làm cho mẹ
con được an ổn mà siêu thoát.
Bụt
hỏi:
- Hồi
sinh tiền, mẹ của thầy đã tạo những nghiệp ác nào?
-
Bạch Thế Tôn, hồi sinh tiền, mẹ con đã không chịu sống
theo chánh mạng. Nghề nghiệp của bà buộc bà phải sát hại rất
nhiều sinh mạng của các loài hữu tình. Mẹ con lại là người không
biết biết tu theo chánh ngữ. Bà đã gây nhiều khổ đau cho kẻ khác vì
những lời nói của bà. Bà bứng cây sống, tàn hại hoa cỏ. Con không dám
kể hết chi tiết về những ác nghiệp của bà cho Thế
Tôn nghe, nhưng quả thật mẹ con đã sống ngược lại với tất
cả năm giới điều mà Thế Tôn đã dạy. Thưa Thế Tôn,
nếu con có thể chịu khổ đau thay thế cho nghiệp quả của mẹ, thì
con sẵn sàng chấp nhận. Xin Thế Tôn, đem lòng
từ bi xót thương mẹ con mà chỉ bảo cho con.
Bụt
nói:
-
Này Moggallana, tôi rất cảm động về tấm lòng hiếu thảo của
thầy đối với mẹ. Công ơn cha mẹ như trời biển: làm con phải luôn
luôn nhớ tới công ơn ấy, ngày cũng như đêm. Gặp thời không có Bụt và
không có các bậc thánh hiền, phụng sự cha mẹ tức
là phụng sự Bụt và các bậc thánh hiền. Moggallana, thầy
đã cố gắng để chuyển hóa mẹ thầy khi bà còn sống, thầy lại còn lo
lắng để chuyển nghiệp cho mẹ thầy khi bà đã chết, điều đó chứng
tỏ thầy là một người rất có hiếu đối với cha mẹ. Tôi rất mừng vì điều
đó.
Moggallana!
Điều căn bản nhất mà mình có thể làm để báo hiếu cha
mẹ là sống một đời sống tốt đẹp, hạnh
phúc và đức hạnh. Như vậy là vừa đền đáp được công ơn sinh thành
vừa đền đáp lại kỳ vọng của cha mẹ nơi con cái. Trường
hợp của thầy là một trường hợp thành công. Đời
sống của thầy là một đời sống có an lạc, có hạnh
phúc, có đạo hạnh; đời sống của thầy là một đời sống gương
mẫu, thầy đã và đang hóa độ được bao nhiêu người, giúp họ đi
về chánh đạo. Nếu đem đời sống và công đức ấy
mà hồi hướng và chú nguyện cho mẹ thì chắc chắn ác
nghiệp của mẹ thầy sẽ được chuyển biến một cách đáng kể.
Moggallana!
Tôi sẽ chỉ cho thầy một phương pháp mầu nhiệm và hữu hiệu để
giúp mẹ. Đến ngày tự tứ mãn khóa mùa an cư, thầy nên thỉnh
cầu toàn thể đại chúng họp lực chú nguyện hồi hướng cho
mẹ thầy. Nên biết trong đại chúng có nhiều vị khất sĩ đạo
pháp và đức hạnh rất lớn. Nếu thầy phối hợp đạo
lực và đức hạnh của thầy với đạo lực và đức
hạnh của tất cả các vị ấy thì sức chú nguyện hồi hướng sẽ mạnh
mẽ vô cùng và nhờ nhân duyên đó, nghiệp
chướng của mẹ thầy sẽ dần dần tiêu tan và bà sẽ có cơ hội đi
vào con đường chánh pháp.
Tôi
nghĩ là trong đại chúng có thể cũng có những vị có tâm trạng như
thầy, vì vậy ta tuyên truyền điều này trong đại chúng. Thầy
hãy bàn với thầy Sariputta, để từ nay cứ đến ngày tự tứ thì ta có thể
tổ chức một lễ chú nguyện, hồi hướng công đức lành đến các
bậc cha mẹ đã mất và cả những người làm cha mẹ còn sống.
Như vậy cũng là đồng thời để giáo dục người trẻ về đạo hiếu đối
với cha mẹ và tổ tiên.
Này
Moggallana! Người đời thường chỉ biết tiếc thương cha mẹ khi cha
mẹ đã qua đời. Trong ánh sáng của đạo tỉnh thức, có cha có mẹ là
một hạnh phúc lớn. Cha mẹ là những nguồn vui lớn cho con
cái. Con cái phải biết trân quý thời gian sống với cha mẹ, được
thấy cha mẹ hàng ngày, được đem niềm vui hàng ngày cho cha mẹ.
Ngay
trong khi cha mẹ còn sống và sau khi cha mẹ quá vãng, những
hành động từ ái cần được thể hiện để gây niềm vui
cho cha mẹ và hồi hướng công đức cho cha mẹ. Giúp
người nghèo khổ và bệnh tật, thăm viếng và an ủi những
người cô đơn, phóng thích tù nhân và những loài vật sắp bị sát
hại, cung cấp lương thực thuốc men, trồng cây ... đều là những hành động
xuất phát từ tâm từ bi có thể chuyển
hóa được tình trạng hiện tại và đem niềm vui cho cha
mẹ và mọi người. Trong ngày tự tứ của tăng đoàn khất
sĩ, chúng ta nên khuyến khích mọi người làm những việc như
thế.
Đại
đức Moggallana vui mừng lạy tạ Bụt.
Chiều
hôm ấy, đi thiền hành tới cổng tu viện Trúc Lâm, Bụt thấy
xa giá của vua Pasenadi cũng vừa dừng lại trước cổng. Vua đi thăm Bụt. Hai
người còn đang đứng ở cổng tu viện để chuyện trò thì có bảy vị du sĩ
phái Nigantha đi ngang qua. Họ là những người tu khổ hạnh, lõa hình, tóc
và râu không cạo, móng tay móng chân để dài không cắt. Trông thấy họ, vua
Pasenadi xin phép Bụt và đi ra chào đón các vị du sĩ. Vua lạy
xuống cung kính trước bảy vị du sĩ, và nói:
-
Thưa các vị cao đức, trẫm là Pasenadi, vua nước Kosala.
Vua
lạy và nói ba lần như thế, rồi chào họ và trở lại với Bụt. Đợi
họ đi khuất, vua hỏi:
-
Bạch Thế Tôn, theo Thế Tôn thì trong bảy vị du sĩ đó có vị nào chứng
quả A la hán chưa? Trong số họ có vị nào đang đi trên con đường
đạt đến quả vị ấy?
Bụt
đáp:
- Đại
vương, ngài sống đời sống vương giả và thân cận với giới chính trị nhiều
hơn giới đạo sĩ nên ngài khó mà biết được ai là người đã giải
thoát và ai chưa giải thoát. Đại vương, gặp gỡ đôi ba lần và nhìn
vào bề ngoài của một vị đạo sĩ thì khó mà biết được họ
có giác ngộ hay không. Chỉ khi nào ta sống bên họ và có thì
giờ quán xét ta mới biết được họ có giải thoát hay không
có giải thoát. Đi lâu mới biết đường dài; thân cận lâu ngày với một người,
sống cùng với người ấy trong những hoàn cảnh khó khăn, nghe người ấy
nói năng đàm luận ... ta mới thấy được mức độ trí tuệ, đức
hạnh và sự chứng đắc của người ấy.
Vua biểu
đạt đồng tình với Bụt:
-
Bạch Thế Tôn, con cũng thấy như thế. Mỗi khi con gửi các thám tử đi do
thám tình hình các nơi, những người này thường phải hóa
trang để cho người ta không nhận ra được họ. Con nhớ là khi
những thám tử này về cung trình diện, chính con cũng không nhận
ra được họ. Con tưởng họ là những người không quen. Chỉ khi nào họ lột bỏ
những đồ hóa trang, đi tắm, rửa mặt và mặc áo quần của chính họ vào thì
con mới nhận ra được họ. Thế Tôn! Thế Tôn nói rất đúng. Ta
không thể nhận ra được đức hạnh, trí tuệ và
sự chứng đắc của một người nếu ta không có được cơ hội để biết về
người ấy một cách chín chắn.
Bụt
mời vua đi bộ về phía tịnh thất của Người.
Vào
đến tịnh thất, Bụt bảo thầy Ananda lấy ghế trước sân mời vua ngồi. Sau khi
an tọa, vua bạch với Bụt:
- Bạch
Thế Tôn, con đã bảy mươi tuổi rồi. Con nghĩ là mình phải để nhiều thời
giờ hơn vào việc tu học. Con phải tập ngồi thiền và đi
thiền hành nhiều hơn trước. Thế Tôn, công việc triều chính quá bận
rộn, nhiều lúc ngồi nghe Bụt giảng mà con cũng ngủ gục. Con lấy làm xấu
hổ quá. Bạch Thế Tôn, con lại có cái tật ăn nhiều. Con nhớ có một
buổi trưa ăn no quá, tới tu viện con buồn ngủ chi lạ. Con bèn ra
ngoài sân đi thiền hành cho bớt buồn ngủ mà cũng
vẫn buồn ngủ như thường. Hôm đó con vừa đi vừa ngủ gục, đến nổi
gặp Thế Tôn mà cũng không thấy, và con đã đi va vào Thế
Tôn, Người có nhớ việc này không?
Bụt
cười:
-
Tôi có nhớ, đại vương! Đại vương ăn ít thôi, thì thân
tâm sẽ nhẹ nhàng, và công việc chính trị cũng như công phu tu
tập cũng sẽ có phẩm chất hơn. Nếu muốn thành công trong việc
này, đại vương nên nhờ hoàng hậu Malika hay công
chúa Vajiri chăm sóc về thực phẩm hàng ngày cho đại vương,
về phẩm cũng như về lượng.
Vua chắp
tay lĩnh giáo. Bụt nói:
- Đại
vương nên để thêm thời giờ mà lo về sức khỏe và
sự tu tập. Bây giờ tuổi đại vương đã cao, nếu
không lo tu tập, thì đại vương sẽ đánh mất dần thời gian
còn lại của mình. Đại vương! Ví dụ có một người hộ vệ thân
tín của ngài từ phương Đông trở về báo với ngài là
có một quả núi vĩ đại cao gần bằng mặt trời đang tiến dần từ phương
Đông tới; và trên đường đi quả núi ấy nghiền nát tất cả những sinh vật nào nó
gặp dưới chân. Trong lúc đại vương đang lo lắng thì lại có một
người thân tín của đại vương từ phương Tây về báo
cáo rằng từ phương Tây cũng có một quả núi vĩ đại đang tiến tới, rồi
từ phương Bắc và phương Nam cũng báo như thế, bốn quả núi khổng lồ đang từ
từ tiến về phía đại vương, ngọn núi nào cũng nghiến nát dưới chân
mình tất cả những sinh vật trên đường đi.
Đại
vương biết là bốn ngọn núi từ bốn phương đang áp tới và mạng sống
của ngài sẽ không thể kéo dài. Đại vương không còn
nhiều thời gian. Vậy đại vương sẽ làm gì trong tình
trạng ấy?
Vua ngẫm
nghĩ rồi nhìn Bụt:
-
Bạch Thế Tôn, trẫm nghĩ trong trường hợp ấy thì chỉ có một việc
đáng làm mà thôi. Đó là sống những ngày còn lại thật xứng đáng, thật trầm
tĩnh, đúng theo chánh pháp.
Bụt
khen:
-
Hay lắm, đại vương! Tôi xin nói để đại vương biết: bốn quả núi ấy chính
là bốn quả núi của sinh, lão, bệnh, tử đang vây hãm chúng ta và
đang từ từ tiến tới.
Vua chắp
tay:
-
Bạch Thế Tôn, biết được cái già, cái chết đang vây quanh và tiến tới,
con nghĩ chỉ có một cách là đem những ngày tháng còn lại của mình để sống
theo chánh pháp, sống thật tỉnh thức, làm tất cả những việc
thiện nào có thể làm, và xây dựng cho các thế hệ tương
lai.
Vua đứng
dậy làm lễ Bụt và ra về.
Mùa
mưa năm nay, các đạo sĩ và Bà la môn đủ các giáo
phái hội tụ về Savatthi đông lắm. Các buổi thuyết giảng của họ
được tổ chức khắp nơi, và dân chúng thủ đô thỉnh thoảng được mời tới
dự những cuộc đàm luận giữa những vị đại diện của
các giáo phái. Những chủ thuyết khác nhau có dịp được trình bày.
Trong giới môn đệ của Bụt cũng có nhiều vị đi dự những cuộc đàm
luận này. Họ về tu viện kể lại cho Bụt và các thầy nghe những điều họ đã
nghe và thấy. Họ nói không có vấn đề siêu hình nào mà các vị
đạo sĩ lại không đặt ra, và vị nào cũng tự nhận thuyết của mình là đúng,
thuyết của kẻ khác là sai. Ban đầu thì họ chỉ tranh
luận nhẹ nhàng, nhưng rốt cuộc phần lớn đều nổi nóng
và cuối cùng người ta bắt đầu nói nặng với nhau và lên án
nhau bằng những lời lẽ thật cay độc.
Bụt
kể cho môn đệ nghe chuyện ngụ ngôn sau đây:
- Ngày
xưa, có một vị vua thật ngộ nghĩnh. Ông cho mời những người mù trong
xứ đến, những người mù này phải là bị mù bẩm sinh từ khi mới được sinh ra. Vua
cho dắt tới một con voi. Vua bảo những người này sờ vào con voi và cho
biết con voi đó hình dáng như thế nào. Có người sờ chân voi, nói voi giống
cái cột nhà. Có người sờ đuôi voi, nói voi giống cái phất trần. Có người
sờ tai voi, nói voi giống cái quạt mo. Có người sờ ngà voi, nói voi giống như
một cái cọc. Có người sờ bụng voi, nói voi giống cái bồ chứa thóc. Có người
sờ đầu voi, nói voi giống như cái lu nước. Ngồi lại với nhau, những người
mù này không ai đồng ý với ai về hình dáng thực sự của con voi.
Họ cãi nhau kịch liệt. Ông vua thấy thế rất lấy làm thích thú.
Này
các vị, những gì quý vị thấy và nghe chỉ là một phần của sự thật. Nếu ta
cho rằng một phần của sự thật đó chính là toàn thể sự thật tức
là ta đã bóp méo sự thật và làm sai lạc về sự thật ấy. Người tu
học phải có tâm khiêm nhường, biết rằng cái thấy cái hiểu của mình còn rất
nhỏ bé, và mình cần phải nổ lực học hỏi và thực
tập tinh tấn hơn nữa. Người tu học phải có tâm cởi mở, biết rằng
nếu cố chấp vào tri kiến hiện tại, cho đó là chân
lý tuyệt đối, thì mình sẽ bị mắc kẹt và sẽ đánh mất cơ hội tiếp
xúc với chân lý của thực tại nhiệm mầu. Khiêm nhường
và cởi mở là hai điều kiện thiết yếu của sự tiến thủ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét