Thích Nhất Hạnh
Chương 78
Hai ngàn chiếc áo vàng trên núi Linh Thứu.
Một buổi chiều nọ, khi Bụt đang đi thiền hành bên triền núi, có hai người võng đại đức Devadatta lên. Đại đức Devadatta ốm nặng đã mấy năm nay. Đại đức muốn thấy mặt Bụt trước khi qua đời. Hai người đang khiêng đại đức là hai người trong số sáu người đệ tử còn sót lại. Trong thời gian bạo bệnh trên núi Gayasisa, không mấy ai đến thăm hỏi đại đức, kể cả những người đã ủng hộ đại đức tích cực nhất trong suốt thời gian qua. Suốt thời gian ấy, đại đức đã có nhiều cơ hội nghĩ lại về những đắc thất và về giá trị của hành động mình.
Được
báo là có đại đức Devadatta lên và xin được gặp, Bụt liền trở
về tịnh thất. Đại đức yếu lắm, không ngồi dậy được. Đại
đức cũng không nói được nhiều, đại đức chỉ nhìn Bụt, cố
gắng chắp tay lại: “Con về nương tựa Bụt", đại đức cố
gắng lắm mới nói được những tiếng đó.
Bụt
gật đầu để tay lên trán Devadatta và an ủi đại đức.
Chiều
hôm ấy đại đức qua đời. Bây giờ là mùa nắng, trời trong xanh, Bụt
đang sắp sửa đi du hành thì có sứ giả của vua Ajatasattu
tới. Sứ giả là quan đại thần Vassakara, một người thuộc giai
cấp Bà la môn. Ông được lệnh vua tới đảnh lễ Bụt và cho Bụt biết
chủ định của vua và triều thần muốn cử binh đi chinh phạt nước Vajji ở phía
Bắc sông Hằng. Vua muốn được nghe phản ứng của Bụt và đã dặn vị
đại thần ghi nhớ tất cả những gì Bụt nói về vấn đề này.
Trong
khi Bụt tiếp quan đại thần Vassakara, đại đức Ananda đứng
sau lưng Bụt và quạt cho Người. Bụt xoay lại hỏi thầy:
-
Này đại đức Ananda, thầy có nghe dân chúng Vajji thường
hay hội họp đông đảo để bàn bạc chính sự không?
Đại
đức Ananda đáp:
- Thế
Tôn, con nghe nói dân Vajji rất chuyên cần hội họp và hội họp rất
đông đảo để đàm luận về chính sự.
- Vậy
thì nước Vajji vẫn còn cường thịnh. Ananda, thầy có biết khi họ hội
họp với nhau, họ có bày tỏ sự đoàn kết và có một lòng một dạ với
nhau không?
-
Bạch Thế Tôn, con nghe họ rất hòa hợp và đoàn kết với nhau.
- Vậy
thì chắc chắn nước Vajji vẫn còn rất cường thịnh. Ananda, dân
Vajji có tôn trọng và có sống đúng theo những pháp chế đã
được ban hành không?
-
Bạch Thế Tôn, con nghe họ rất tôn trọng những pháp
chế đã được ban hành.
- Vậy
thì chắc chắn nước Vajjvẫn còn cường thịnh. Ananda, dân Vajji có
còn biết tôn trọng và nghe lời những bậc tôn trưởng của họ
không?
- Thế
Tôn, con nghe họ rất biết tôn trọng và nghe lời những bậc
tôn trưởng của họ.
- Vậy
thì nước họ vẫn còn cường thịnh. Đại đức Ananda, thầy có
nghe trong xứ của họ có những vụ bạo động, trộm cướp, giết người và
hãm hiếp không?
-
Bạch Thế Tôn, những vụ bạo động, trộm cướp, giết người và hãm
hiếp ít bao giờ xảy ra ở xứ họ.
- Vậy
thì nước Vajji vẫn còn cường thịnh. Ananda, thầy có nghe dân Vajji
còn biết bảo vệ tông miếu của tổ tiên họ không?
-
Bạch Thế Tôn, con nghe họ vẫn còn biết bảo vệ tông miếu
của tổ tiên họ.
- Vậy
thì Ananda, nước Vajjia vẫn còn cường thịnh. Thầy có nghe là dân
Vajji biết tôn kính, cúng dường và chịu học hỏi theo
các hàng tu sĩ đạt đạo không?
-
Bạch Thế Tôn, cho đến ngày nay họ vẫn rất tôn
kính, cúng dường, và học hỏi với các vị tu sĩ đạt đạo.
-
Ananda, vậy thì chắc chắn nước Vajji vẫn còn cường thịnh,
chưa bị suy đồi, Ananda, ngày xưa Như Lai đã từng có dịp
chỉ dạy cho giới lãnh đạo ở Vajji về bảy yếu tố giữ
gìn cho quốc gia không suy thoái, gọi là thất bất
thoái pháp. Đó là chuyên cần hội họp, hòa hợp và đoàn
kết, tôn trọng pháp chế đã ban hành, tôn
trọng và nghe lời các bậc tôn trưởng, không bạo động, cướp
giết và hiếp đáp, biết bảo vệ tông miếu tổ
tiên và tôn kính các các bậc đạo hạnh. Ananda, thì ra
họ vẫn còn thi hành bảy phép bất thoái ấy, Như Lai tin
rằng quốc gia Vajji vẫn còn cường thịnh, chưa bị suy nhược,
và do đó Như Lai nghĩ rằng nước Magadha không thể đánh chiếm được
nước họ.
Đại
thần Vassakara bạch:
- Bạch
Thế Tôn, dân Vajji chỉ cần thực hành một trong bảy phép đó thì cũng
đủ làm cho nước họ cường thịnh rồi, huống hồ là họ thực
hành cả bảy phép. Thế Tôn, con nghĩ vua Ajatasattu không thể thắng
được dân Vajji bằng sức mạnh vũ lực đâu. Vua chỉ thắng họ nếu vua có
thể chia rẽ trong giới lãnh đạo của họ. Thế Tôn, con
xin cảm tạ Người, con phải về lo công việc.
Sau
khi đại thần Vassakara từ giã, Bụt than thở với Ananda:
-
Vị đại thần này có nhiều mưu chước. Như Lai biết rằng vua Ajatasattu
sẽ cử binh đánh chiếm nước Vajji.
Chiều
hôm ấy, Bụt nhờ đại đức Ananda đi triệu tập tất cả các
vị khất sĩ có mặt ở thủ đô Rajagaha và trong các vùng phụ
cận về núi Thứu.
Chỉ trong
vòng bảy hôm các vị khất sĩ và nữ khất sĩ trong vùng
đã quy tụ về đầy đủ. Gần hai ngàn vị đã về tới, màu áo cà sa làm vàng
rực cả năm ngọn đồi của Linh Thứu sơn. Đến giờ đại hội, tất cả đều
quy tụ về sân trước của giảng đường.
Đại
chúng được triệu tập đông đủ, Bụt từ tịnh thất thong
thả đi xuống. Người bước lên pháp tọa cao. Đưa mắt
nhìn đại chúng, Bụt mỉm cười và nói:
-
Các vị khất sĩ! Như Lai sẽ chỉ dạy cho các vị bảy phương
pháp để giữ gìn cho chánh pháp và giáo
đoàn không bị suy thoái. Các vị hãy lắng nghe.
Thứ
nhất là các vị nên thường xuyên gặp mặt nhau trong những buổi hội họp
đông đủ để học hỏi và luận bàn về chánh pháp. Thứ hai
là các vị tới với nhau trong tinh thần hòa hợp và đoàn
kết, và chia tay nhau trong tinh thần hòa hợp và đoàn kết. Thứ
ba là cùng tôn trọng và sống theo giới luật và pháp
chế một khi những những giới luật và pháp chế ấy đã
được ban hành. Thứ tư là biết tôn trọng và vâng
lời các bậc trưởng lão có đạo đức và kinh
nghiệm trong giáo đoàn. Thứ năm là sống một nếp sống thanh
đạm và giản dị, đừng để bị lôi cuốn vào tham dục. Thứ sáu
là biết quý đời sống tĩnh mặc. Thứ bảy là biết an
trú trong chánh niệm để thực hiện an
lạc và giải thoát, làm chỗ nương tựa cho các bạn đồng tu.
Này
các vị khất sĩ! Chừng nào mà các vị còn thực hành được bảy
điều ấy, gọi là bảy phép bất thối, thì đạo pháp còn hưng thịnh
và giáo đoàn không bị suy thoái. Không một yếu tố nào bên
ngoài có thể phá hoại được giáo đoàn. Chỉ có những phần
tử bên trong giáo đoàn mới có thể làm cho giáo
đoàn tan rã mà thôi. Các vị khất sĩ! Khi con sư tử chúa ở chốn
sơn lâm ngã qụy, không có một loài nào dám đến ăn thịt nó. Chỉ có
những con trùng phát sinh từ bên trong thân thể của sư
tử mới ăn thịt được sư tử mà thôi. Các vị hãy bảo
vệ chánh pháp bằng cách sống theo bảy phép bất thối,
đừng bao giờ tự biến mình thành những con trùng trong thân thể của
con sư tử.
Sau
khi đã chỉ dạy những vị khất sĩ về bảy phép bất thối, Bụt dặn các
vị khất sĩ đừng nên phí bỏ thời giờ quý báu của mình
để la cà nói chuyện phiếm, để ngủ vùi, đừng đánh mất mình
trong danh lợi và tham dục, đừng thân cận với những người xấu ác
và biếng lười, đừng tự mãn với những kiến thức và những trình
độ chứng đắc thấp kém.
Bụt
nhắc lại giáo lý bảy yếu tố giác ngộ như con đường mà
mỗi vị khất sĩ phải đi: yếu tố chánh niệm, yếu
tố quán chiếu vạn pháp, yếu tố tinh tấn, yếu tố hoan
hỷ, yếu tố an nhiên, yếu tố định lực và yếu
tố hành xả.
Bụt
lại chỉ dạy về các phép quán vô thường, vô ngã, bất
tịnh, buông bỏ, xa lìa tham dục và giải thoát.
Hai
ngàn vị khất sĩ được sống với Bụt trên núi Linh Thứu được mười hôm.
Họ cư trú khắp nơi trên năm ngọn đồi, nơi cội cây, hang đá, am thất, khe suối
... Mỗi ngày các vị tụ tập một lần tại sân giảng
đường để nghe Bụt giảng dạy. Thính chúng ngồi thành nhiều bậc
bởi vì sân không đủ rộng để chứa đủ số người. Qua ngày thứ mười, Bụt từ giã các
vị khất sĩ và khuyên họ xuống núi và trở về trú sở
để hành đạo. Chỉ có các vị thường trú ở Linh Thứu là còn ở lại mà thôi.
Các
vị khất sĩ xuống núi rồi, Bụt giã từ thủ đô Rajagaha, Người hướng về
Ambalatthika. Ambalatthika là khu lâm viên nghỉ mát của vua Bimbisara, nơi Bụt
và các vị khất sĩ thường ghé lại trên đường đi Nalanda. Hai thầy trò
Sariputta và Rahula ngày xưa đã từng cư trú tại đây. Tại Ambalatthika,
Bụt thăm viếng các vị khất sĩ, Bụt dạy cho họ thêm về giới, định
và tuệ.
Rời
Ambalatthika, Bụt đi Nalanda. Đoàn khất sĩ đi theo Bụt có chừng
một trăm vị. Các đại đức Ananda, Sariputta, và Anurudha đi cạnh bên Người.
Tới Nalanda, Bụt nghỉ ở vườn xoài Pavarika.
Sáng
ngày hôm sau, đại đức Sariputta tới ngồi bên Bụt một hồi lâu, không
nói gì.
Sau
đó, đại đức mở lời:
-
Bạch Thế Tôn, con thiết nghĩ trong quá khứ, trong hiện
tại, và trong cả tương lai, không có một vị đạo sư hay Bà la
môn nào mà trí tuệ và sự chứng đắc siêu
việt hơn Thế Tôn.
Bụt
nói:
-
Sariputta, thầy đã gặp và đã biết tất cả các bậc giác
ngộ trong quá khứ, hiện tại, và tương lai chưa mà dám nói như
thế?
-
Bạch Thế Tôn, con chưa gặp được tất cả các bậc giác ngộ trong ba
thời, nhưng có một điều con biết chắc. Con sống thân cận với Thế
Tôn đã trên bốn mươi năm. Không những con được nghe Thế Tôn dạy
dỗ mà con còn được thấy Thế Tôn sống. Nhìn vào Thế Tôn, con biết
là Thế Tôn sống thường trực trong tỉnh
thức và chánh niệm. Sáu căn được Thế Tôn hộ trì một
cách tuyệt đối. Không bao giờ có tỳ vết nhỏ của tham dục, oán
giận, hôn trầm, trạo cử và hoài nghi trong sinh
hoạt hàng ngày của Thế Tôn. Con nghĩ các bậc giác
ngộ trong quá khứ, hiện tại và tương lai, khi đạt
tới chánh trí thì trí tuệ và sự chứng đắc cũng
chỉ bằng Thế Tôn thôi chứ làm sao cao hơn được.
Rời
Nalanda, Bụt đi về Pataligama. Tới Pataligama, Bụt và các vị khất
sĩ được rất nhiều giới cư sĩ đón tiếp và đưa về trú sở của họ. Tại
đây, họ cúng dường cơm nước lên Bụt và các vị khất sĩ. Thọ trai
xong, Bụt thuyết pháp.
Sáng
hôm sau, trước khi Bụt lên đường, đại đức Sariputta đến từ giã Người. Đại
đức được tin bà mẹ của đại đức đang bị ốm nặng, và đại
đức muốn về thăm mẹ. Mẹ của đại đức năm nay đã trên một trăm
tuổi, Bụt và các vị khất sĩ tiễn đại đức Sariputta về
quê. Đại đức lạy Bụt ba lần và cùng với chú sa di Cunda đi
ngược về miền Nam, hướng về Nala.
Lúc
Bụt và đoàn khất sĩ ra tới cửa thành thì có hai vị đại thần xứ
Magadha là Sunidha và Vassakara tới trình diện. Họ là những người được vua
Ajatasattu phái tới nghiên cứu xây dựng đô thị Pataligama
thành một đô thị lớn. Các vị đại thần bạch:
-
Cổng thành mà Thế Tôn, và các vị khất sĩ sắp đi qua để rời khỏi
thành phố, chúng con sẽ đặt tên là cổng Gotama. Chúng con cũng sẽ đi
theo để tiễn đưa Bụt. Bến đò mà người và chư vị khất
sĩ tới để vượt qua sông Hằng, chúng con cũng sẽ đặt tên là bến
đò Gotama.
Sông
Hằng nước dâng đầy cho đến nổi một con quạ đứng trên bờ sông có
thể chúi mỏ xuống sông để uống nước được.
Năm
chiếc đò ngang chở Bụt và các thầy sang sông một lượt. Ra đến giữa
dòng, đại đức Ananda tìm lối bước tới gần Bụt và rón
rén ngồi xuống bên Người, Bụt đang nhìn xuống nước. Đại
đức Ananda đưa mắt nhìn dòng sông mêng mang rồi chuyển cái nhìn
về bên kia bờ. Đại đức nhớ năm xưa, cách đây đã trên hai mươi lăm
năm, có lần dân chúng Vesali đã kéo nhau ra tận bờ sông để đón Bụt, đông có đến
mấy vạn người. Năm ấy tại Vesali, có dịch hạch lan tràn, người lớn và trẻ em
chết như rạ. Những ông thầy thuốc giỏi nhất trong xứ đã chịu bó tay. Lễ đàn
được thiết lập liên tiếp để cúng tế và cầu nguyện, nhưng
cũng không đem lại hiệu quả nào. Cuối cùng dân chúng trong
thành nghĩ đến việc đi cầu cứu với Bụt. Quan tổng trấn Tomara
được chỉ định đích thân qua tận Rajagaha để thỉnh Bụt về
Vesali, ước mong đạo hạnh của Người có thể chuyển
đổi được tình trạng. Bụt đã nhận lời thỉnh cầu. Vua Bimbisara,
hoàng hậu, các vị đại thần, và dân chúng đi tiễn Bụt tới tận bờ sông Hằng.
Bên kia sông, dân chúng Vesali đã tụ tập đông nghịt. Họ thiết
lập nghênh môn, lễ đài, treo cờ và kết hoa đầy cả bờ sông. Khi thuyền của
Bụt qua tới, dân chúng reo hò vang dậy, nhã nhạc nổi lên vang lừng, Hôm đó
đi phụ tá cho Bụt ngoài các vị đại đệ tử lớn còn có y sĩ
Jivaka. Dân chúng đón tiếp Bụt như đón tiếp một vị cứu tinh của họ,
Bụt vừa đặt chân lên đất liền thì sấm chớp bổng nổi dậy và trời đổ
mưa xuống một trận rất lớn. Đây là trận mưa đầu tiên sau nhiều tháng ngày nắng
cháy và hạn hán. Dân chúng mừng rỡ, nhảy múa, reo mừng, và ca hát ngay
dưới cơn mưa. Cơn mưa đem lại sự mát mẻ và hy vọng cho cả
xứ. Bụt và các vị khất sĩ đã được dân chúng đưa rước về trung
tâm thành phố. Tại công viên, Bụt đã nói về Tam Bảo như ba viên
ngọc quý, nơi nương tựa vững chãi của mỗi người. Sau đó Bụt và
các đại đức được đưa về tu viện Trùng Các ở Mahavana. Kỳ
đó, nhờ đức độ của Bụt và tài chữa trị của y sĩ Jivaka, dịch hạch đã
từ từ được đẩy lui và cuối cùng mất dấu. Năm ấy Bụt đã lưu
lại Vesali gần sáu tháng trước khi lên đường về Savatthi.
Qua
bên kia sông, Bụt đi về Kotigama, các vị khất sĩ tại Kotigama đi đón
Bụt rất đông. Tại đây, Bụt giảng dạy về Tứ diệu đế và Tam
học giới, định, và tuệ. Sau khi cư trú một thời gian tại
Kotigama với các vị khất sĩ. Bụt lại ra đi, hướng về Nadika, Bụt và các
vị khất sĩ nghỉ lại tại một ngôi nhà xây bằng gạch gọi là
Ginjakavasatha.
Tại
Nadika, Bụt nhắc nhở đến những vị đệ tử của Người đã mệnh
chung tại vùng này, trong đó có nữ khất sĩ Sundari Nanda, em gái
của Người, các vị khất sĩ Salha và Nadika, nữ cư
sĩ Sujata ngày xưa đã dâng sữa và thức ăn cho Bụt trước
khi Người thành đạo, và các cư sĩ Kakudha, Bhada, Subhadda ...
Bụt nói các vị khất sĩ này cùng khoảng năm mươi vị khác đã từng sinh
sống trại đây đều đã chứng được những quả vị nhập lưu, nhất hoàn
và bất hoàn. Nữ khất sĩ Nanda đã chứng quả nhất hoàn,
hai vị khất sĩ đã đạt được quả vị La hán.
Bụt
dạy:
-
Người tu hành nào vững tin nơi Tam Bảo, nhìn vào tâm ý mình có thể
biết được mình đã hòa quyện vào dòng giải thoát chưa, không
cần hỏi đến một người khác.
Một
hôm khác, Bụt lại dạy thêm cho các vị khất sĩ về giới, định, và
tuệ. Thăm viếng và sách tấn đại chúng xong. Bụt cùng các
vị khất sĩ lên đường đi Vesali. Tới Vesali, Bụt và đại
chúng nghỉ tại vườn xoài của Ambapali. Ngày hôm sau, Bụt giảng
cho đại chúng về phép quán niệm về bốn lãnh
vực thân thể, cảm thọ, tâm ý và đối tượng tâm ý.
Nghe
nói Bụt đã về vườn xoài của mình, bà Ambapali rất sung sướng, liền vội tới
thăm Người. Bà thỉnh Bụt và chư vị khất sĩ tới thọ trai ngày hôm
sau. Lúc Bụt và các vị khất sĩ đã thọ trai xong, bà làm lễ dâng khu
vườn cho giáo đoàn khất sĩ. Bà cũng xin được xuất gia.
Mấy
hôm sau, Bụt lại giảng cho đại chúng nghe thêm về phép hành trì,
giới, định và tuệ.
Sau
khi đã thăm viếng Vesali, Bụt đi tới làng Beluvagamaka ở vùng ngoại ô
thành phố. Mùa mưa đã đến, Bụt dự định an cư năm nay tại làng
Beluva này. Đây là mùa an cư thứ bốn mươi lăm sau ngày Bụt thành
đạo. Bụt nhắn với các vị khất sĩ trong vùng hãy tới an cư ở
ven đô thành phố Vesali, tại những trung tâm có bạn bè, thân
quyến đàn việt ủng hộ.
Giữa mùa
an cư, Bụt bị ốm nặng, thân thể Người đau đớn vô cùng.
Người nằm yên, không hề rên siết, giữ vững chánh niệm và hơi
thở. Mọi người nghĩ rằng Bụt sẽ không qua khỏi cơn đau, nhưng không
ngờ sau đó Bụt vượt thắng được, sức khỏe dần dần trở lại. Mười
hôm sau, Bụt dậy được và ra khỏi phòng, ngồi xuống trên một chiếc ghế kê sát
vào tường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét