Thích Nhất Hạnh
Chương 61
Tiếng gầm của sư tử lớn.
Mùa
an cư an năm nay, nhân một câu hỏi của đại đức Ananda
về đạo lý duyên sinh, Bụt đã dạy các vị khất
sĩ về mười hai nhân duyên như là động cơ của guồng máy sinh
tử.
Người
bảo thầy Ananda:
- Đạo
lý duyên sinh là đạo lý rất vi diệu và thâm
sâu. Các vị đừng nghĩ rằng có thể thấu hiểu được hết chiều sâu của đạo
lý này bằng ngôn từ và lý luận.
Này
các vị khất sĩ! Ngày xưa thầy Uruvela Kassapa nhờ được nghe đạo
lý nhân duyên mà thấy được chánh pháp, Sariputta cũng
nhờ nghe về đạo lý nhân duyên mà hôm nay đã trở thành một
trong những vị đại đức đã chứng đạt đạo quả. Này các vị! Trong mỗi giây phút
của cuộc sống hàng ngày, các vị phải quán chiếu về tự
tính duyên sinh của vạn pháp. Nhìn vào một chiếc lá hay một hạt
mưa, các vị phải tập thấy cho được tất cả những điều kiện gần và xa
đã đưa tới sự có mặt của chiếc lá ấy hay của hạt mưa ấy. Các vị nên
biết rằng thế giới được hình thành bởi những yếu tố nhân
duyên đan xen như lưới nhện, cái này có vì cái kia có, cái này không vì
cái kia không, cái này sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt.
Sự sinh
diệt của một pháp tùy thuộc vào sự sinh diệt của tất
cả các pháp. Sự sinh diệt của tất cả các pháp tùy thuộc vào
sự sinh diệt của một pháp. Trong cái một có cái tất cả, và trong cái
tất cả có cái một. Không có cái một thì không có cái tất cả, không có cái tất
cả thì không có cái một. Đây là chỗ vi diệu của đạo
lý duyên sinh. Nếu quán sát cho thấu triệt tự
tính của vạn pháp, các vị sẽ vượt thoát khỏi sự lo lắng và khổ ải về sinh
tử, nói một cách khác hơn là giải thoát ra được vòng luân hồi sinh tử.
Các
vị khất sĩ! Duyên khởi chằng chịt nhiều tầng nhiều lớp, nhưng quý vị
có thể phân biệt bốn loại: đó là nhân duyên, tăng thượng
duyên, đẳng vô gián duyên và sở duyên duyên.
Nhân
duyên là điều kiện chính yếu gần nhất, như hạt lúa
là điều kiện chính yếu để phát sinh ra cây lúa.
Tăng
thượng duyên là những điều kiện phù trợ, như nắng, mưa, hơi ấm,
đất màu giúp cho hạt lúa nảy mầm lớn lên thành cây lúa.
Đẳng
vô gián duyên tức là sự tiếp nối không gián đoạn của
dòng lưu chuyển. Thiếu sự tiếp nối thì sự trưởng
thành của cây lúa bị gián đoạn nữa chừng.
Sở
duyên duyên là đối tượng của nhận thức, bởi vì nhận
thức bao giờ cũng là nhận thức một cái gì, nhận
thức không rời đối tượng nhận thức. Hạt lúa, cây lúa và các điều
kiện xa gần đưa tới sự có mặt của cây lúa ... tất cả đều là đối
tượng của nhận thức, không thể tách rời ra khỏi nhận thức. Tâm
thức vì vậy là một điều kiện căn bản của hiện
hữu.
Này
các vị khất sĩ! Sở dĩ có khổ đau là vì có sinh tử. Tại sao có
sinh tử? Tại vì có vô minh. Nếu các vị quán chiếu và
thấy được tự tính duyên khởi của vạn vật thì các vị
sẽ tiêu diệt được vô minh. Tiêu diệt được vô
minh thì siêu thoát được quan niệm về sinh tử.
Thoát được sinh tử thì diệt được mọi khổ đau và lo âu.
Này
các vị! Có tử là vì có sinh, có sinh tử là vì còn ý niệm có
ta, còn ý niệm có ta là vì bị dính mắc, bị dính mắc là vì tham
ái, tham ái là vì không thấy được tự tính của cảm
giác, không thấy được tự tính của cảm giác là vì bị kéo
theo dòng tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng, bị kéo theo
dòng tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng là vì tâm tư
không sáng suốt và an tĩnh, tâm tư không sáng suốt an
tĩnh là vì tâm thức hôn mê. Tâm thức hôn mê là
vì vô minh. Mười hai cái mắt xích ấy nối liền nhau, trong một cái có cả
mười một cái kia, thiếu một cái thì mười một cái kia cũng không có. Tử, Sinh,
Hữu, Thủ, Ái, Thọ, Xúc, Lục nhập, Danh sắc, Thức, Hành, và Vô
minh là tên gọi của mười hai cái mắt xích ấy.
Các
vị khất sĩ! Vô minh là mắt xích căn bản của cả mười
hai nhân duyên. Nhờ quán chiếu tự tính duyên sinh, ta lấy ánh
sáng của trí tuệ làm tan rã mắt xích vô minh đó. Từ đó, ta
vượt thoát được tất cả những lo sợ đau buồn của sinh tử. Người phàm
phu bị nhận chìm trong biển khổ sinh tử. Bậc giải
thoát cưỡi trên những đợt sóng sinh tử mà đi. Mười hai cái khoen
của vòng xích trở nên mười hai cái bánh xe của một cỗ xe chở người
tới giác ngộ. Bậc giác ngộ sống trên đời nhưng không bao giờ
bị cuộc đời làm cho chìm đắm. Các vị khất sĩ! Các vị đừng trốn
chạy sinh tử, các vị chỉ cần vượt thắng lên trên sinh tử mà
thôi. Siêu việt sinh tử, đó là chí khí của bậc đại trượng phu.
Trong
một buổi pháp đàm được tổ chức sau đó mấy hôm, đại
đức Mahakassapa cho biết Bụt đã từng giảng dạy nhiều lần
về đạo lý nhân duyên, và đạo lý này có thể coi như
là trọng tâm của đạo giác ngộ, và đại đức cho
biết có lần Bụt đã dùng hình ảnh một bó lau để làm ví dụ. Người nói
không có ai làm ra các duyên cả mà chính các duyên tự sinh
ra nhau. Vô minh sinh ra hành và hành sinh ra vô minh, hành sinh
ra thức và thức sinh ra hành. Cũng như những cọng lau nương vào nhau
mà đứng, một cọng lau bị gió thổi qua một bên thì các cọng lau kia cũng nghiêng
về bên ấy. Vạn vật trong vũ trụ cũng vậy. Một làm ra tất
cả, và tất cả làm ra một. Nhìn cho sâu, ta thấy cái một trong tất cả và ta thấy
tất cả trong cái một.
Cũng
trong mùa an cư, Bụt bị một nhóm Bà la môn âm mưu trả
thù bằng cách vu cáo rằng Người đã ăn nằm với một người đàn
bà cho đến khi người phụ nữ này có thai rồi bỏ đi.
Âm
mưu này được tổ chức rất khéo léo. Những người chủ mưu đã tìm được một cô
gái trong giới Bà la môn sẵn sàng cộng tác với họ. Cô này
tên là Cinca, nhan sắc khá xinh đẹp. Những người chủ mưu đã than
thở với cô về sự sụp đổ của niềm tin nơi đạo Bà la
môn của giới trẻ tuổi. Giới trẻ tuổi Bà la môn đã theo Bụt nhiều
quá, và trong số ấy có những người rất xuất sắc. Một khi theo Bụt, họ đã
không ngần ngại nói tới những cái mà họ cho là sai lầm và
hẹp hòi trong đạo Bà la môn. Nóng lòng vì nền tôn giáo của tổ
tiên, cô Cinca nói rằng cô có thể làm bất cứ gì để cứu vãn tình thế,
và cô đã làm theo những lời chỉ dẫn của những người chủ mưu.
Ngày
nào cô cũng ăn mặc thật đẹp và đi về tu viện Jetavana, trên
tay luôn luôn có một bó hoa. Nhưng cô không đi vào trong tu viện lúc đông
người. Cô chỉ tới tu viện vào những giờ vắng bóng người, sau những buổi
nghe thuyết pháp. Ai hỏi đi đâu, cô chỉ mỉm cười mà không nói.
Có khi cô lại nói nửa úp nửa mở: “Tôi đi đâu thì đi, việc gì đến quý vị mà
hỏi?”. Thiên hạ lấy làm hồ nghi. Sau đó nhiều tuần lễ, cô
lại trả lời người ta rằng: “Tôi đi thăm sa
môn Gotama". Rồi mấy hôm sau, cô lại nói: “Ngủ lại tu
viện Jetavana thật là vui!”.
Những
điều đó khiến nhiều người chói tai, nhưng cũng làm cho người ta nảy sinh
ra hoài nghi. Tuy nhiên không ai phê phán gì. Cho
đến một hôm, Cinca xuất hiện trong một buổi thuyết
pháp của Bụt. Bụng của cô đã phình lên khá lớn, Bụt đang thuyết
pháp nửa chừng thì cô bước lên. Trước mặt thính
chúng đông đảo, cô nói lớn:
- Sa
môn Gotama! Ngài thuyết pháp rất là hay, và Ngài là một người
có thế lực lớn, nhưng Ngài không bao bọc được cho một người đàn
bà yếu đuối đã vì Ngài mà bụng mang dạ chửa. Đứa con trong bụng này
là của Ngài. Nếu Ngài không chịu nhận trách nhiệm làm cha nó thì ai
nhận đây?
Thính
chúng xôn xao, mọi người đưa mắt hỏi nhau rồi nhìn lên Bụt. Bụt
nói với Cinca, miệng Người mỉm cười:
-
Này cô bé, chuyện này là thật hay giả thì chỉ có cô và ta biết rõ mà thôi.
Cinca
hơi mất bình tĩnh, nhưng cô cố lấy giọng rắn rõi:
-
Đúng rồi, việc này có thật hay không thì chỉ có sa môn Gotama và tôi
biết mà thôi.
Quần
chúng không chịu đựng được sự ngạc nhiên nữa. Nhiều
người xô ghế đứng dậy. Nhất là những người ngồi phía sau. Cinca hoảng hốt,
tưởng thiên hạ đang lén tấn công mình. Cô tìm cách thoát
thân, cô vụng về vấp phải một cái cột nhà, cô gượng níu lấy cột nhà
để đứng dậy. Lúc đó, có một sợi dây đứt và miếng gỗ tròn lép từ bụng cô
rơi xuống, đánh rầm một cái. Miếng gỗ khá nặng, miếng gỗ dày ở giữa nhưng có
mép mỏng chung quanh. Miếng gỗ rơi xuống trúng vào hai ngón chân của bàn chân
cô làm cô đau điếng. Cinca rú lên, cúi xuống ôm lấy bàn chân. Cái bụng của cô
bây giờ xép lẹp.
Quần
chúng thở phào nhẹ nhõm. Nhiều người phá lên cười ngặt ngoẻo. Có
một ni sư đứng dậy và tiến lên. Đó là ni
sư Khema. Ni sư bước tới, dịu dàng dìu Cinca ra khỏi
phòng. Đợi cho hai người khuất bóng, Bụt trở lại với bài thuyết
pháp. Giọng nói của Người bình thản, như là vừa rồi chẳng có chuyện gì quan
trọng xảy ra.
Bụt
nói:
-
Đại chúng! Đạo lý giác ngộ có năng lực công phá những
thành trì kiên cố nhất của vô minh, cũng như ánh sáng
có năng lực làm tiêu tan bóng tối. Những đạo
lý như bốn sự thật, vô thường, vô ngã, duyên
sinh, bốn niệm xứ, bảy giác chi, ba cánh cửa giải
thoát và con đường tám sự chân chính đã
được tuyên thuyết trong nhân gian như những tiếng gầm của
một con sư tử lớn, đẩy lui hàng trăm hàng ngàn tà
thuyết và hý luận.
Này
các vị, sư tử là vua của các loài thú. Khi nó ra khỏi hang, uốn mình
và vươn vai. Sau khi uốn mình và vươn vai, nó đưa cặp mắt sáng nhìn ra bốn
phía. Rồi nó gầm lên ba lần tiếng gầm của loài sư tử. Bất cứ loài thú nào
trong rừng nghe tiếng gầm của sư tử đều lấy làm sợ hãi, trốn
chạy. Tiếng gầm sư tử có uy lực lớn như thế đó.
Đại
chúng! Pháp âm của đạo giác ngộ cũng giống như tiếng gầm
của con sư tử! Pháp âm giác ngộ được cất lên thì tất cả
các tà thuyết đều phải run sợ. Các đạo lý vô
thường, vô ngã, duyên sinh ... một khi được tuyên
thuyết lên thì tất cả những ai lâu nay đắm chìm trong lạc thú, trong vô
minh và ngủ quên trong u mê tăm tối đều phải giật mình. Loài
người cũng vậy mà loài trời cũng vậy. Khi bừng tỉnh
giấc mộng, chúng ta thấy được sự thật chói lòa: “Thì
ra lâu nay chúng ta đang ngủ say, đang ôm lấy những ảo tưởng nguy
hiểm. Chúng ta đã nhận thức sai lầm cho rằng mọi thứ đều là thường, mọi
thứ đều là cái ngã, lấy cái đau khổ làm cái vui, lấy cái tạm bợ làm cái trường
tồn bất biến, lấy cái giả tạo làm cái chân thật”. Đã đến lúc chúng
ta phải thức tỉnh, xua tan đi màn đêm u tối của nhận thức sai lầm, để khai
sáng trí tuệ và đập tan những luận chấp mà bước đi trên con đường giải
thoát và giác ngộ.
Đại
chúng! Các học thuyết của nhân gian đều bị ràng
buộc vào ý niệm là có và không, được và mất. Giáo pháp của
đạo giác ngộ đưa nhân gian ra khỏi màn lưới dày đặc của
muôn ngàn lý luận ấy. Đạo lý giác ngộ vượt thoát
mọi ý niệm có và không. Mỗi khi một bậc giác ngộ ra đời
là pháp âm giác ngộ lại được khởi phát vang dội như tiếng sư tử
gầm. Cũng giống như ngọn sóng hải triều lên cao cuống phăng tất cả u
mê theo ngọn sóng. Pháp âm giác ngộ cũng hùng vĩ như thế.
Đại
chúng! Nhân gian thường bị vướng mắc trong bốn cái cạm
bẫy lớn. Cạm bẫy thứ nhất là dục lạc. Cạm bẫy thứ
hai là kiến thức. Cạm bẫy thứ ba là nghi lễ. Cạm
bẫy thứ tư là ý niệm về ngã. Vướng mắc vào
các cạm bẫy ấy, như con cá mắc kẹt vào lưới, không cách nào
thoát được. Chỉ khi được giáo pháp giác ngộ khai sáng thì mới đưa con
người thoát ra bốn thứ cạm bẫy lớn này.
Đại
chúng! Đạo lý duyên khởi là con đường đưa mọi
người ra khỏi mọi cố chấp về cái ngã, từ đó con người thoát khỏi
các cạm bẫy kia. Các vị phải thường xuyên quán sát tự
tánh duyên khởi trong đời sống hàng ngày của các vị,
nơi thân thể, nơi cảm thọ, nơi tâm ý và nơi vạn pháp, đối tượng
của tâm ý.
Buổi thuyết
pháp của Bụt được đại đức Ananda trùng tuyên ngày hôm sau
tại giảng đường Lộc Mẫu. Đại đức thầm đặt tên cho
bài thuyết pháp này là Tiếng Gầm Của Sư Tử.
Mùa
an cư năm ấy, rất nhiều vị khất sĩ trong tu viện mắc
phải bệnh sốt rét. Có nhiều thầy sốt cao, bệnh đến gầy ốm và xanh
xao. Rất nhiều thầy không đủ sức để ôm bát đi khất thực. Họ phải
nằm tại tịnh xá chờ các vị khất sĩ khác đi khất thực về chia
sẻ thức ăn với họ. Nhưng hầu hết thức ăn xin được là cơm có
chan nước cà ri. Thức ăn này khó tiêu không phù hợp đối với người
bệnh, thành ra những vị khất sĩ bị sốt không thể nào ăn được. Biết
vậy, Bụt cho phép giới cư sĩ cúng dường cho các
vị khất sĩ bị bệnh các thức ăn mềm và có nhiều chất bổ
dưỡng như mật, sữa, đường, đề hồ và dâu. Nhờ những thức
ăn ấy các vị khất sĩ bị bệnh phục hồi được sức
khỏe từ từ.
Một
hôm, sau giờ ngồi thiền. Bụt nghe tiếng quạ kêu râm ran bốn phía. Người bước
ra thì thấy một số các vị khất sĩ đang cho quạ ăn các thức
ăn rất quý đã được cúng dường đặc biệt cho người bệnh. Các
vị khất sĩ này là những người được cử săn sóc cho bệnh
nhân. Họ trình bày với Bụt rằng sở dĩ họ phải cho quạ ăn
các thức ăn quý giá này vì có một số các vị khất sĩ sốt vào
buổi sáng nên không thọ thực được. Quá giờ ngọ thì không được ăn nữa,
cho nên thức ăn phải đem cho quạ ăn. Bụt hỏi tại sao không giữ
các thức ăn này lại cho ngày mai. Các vị trả lời là họ
không được phép giữ thức ăn qua đêm. Bụt dạy, tuy các giới điều có
nêu về những quy tắc của người khất sĩ cần thọ giới, tuy nhiên chúng ta không
nên áp dụng cứng nhắc như thế, nhất là trong khi cứu chữa bệnh, các
vị khất sĩ bị bệnh có quyền thọ thực sau giờ ngọ, và cũng có
quyền giữ các thức ăn đến ngày hôm sau để họ được thọ dùng để vượt
qua bệnh tật.
Một
vị y sĩ tại thủ đô gặp đại đức Sariputta và đề nghị với đại
đức một thứ thức ăn được chế biến bằng năm yếu tố có
nhiều chất đạm để bồi bổ cho các vị khất sĩ đã bị sốt rét
mà trở nên ốm yếu xanh xao.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét