16 thg 3, 2021

ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG (Phần 12 - Chương 75)

Thích Nhất Hạnh

Chương 75

Những giọt nước mắt sung sướng của Sudatta.

Mười hôm sau, Bụt khoác y, ôm bát và rời thành Vương Xá. Người hướng lên miền Bắc, vượt sông Hằng, tới thăm các đệ tử khất sĩ ở tu viện Trùng Các. Rồi Người lại lên đường, hướng về thủ đô Savatthi. Mùa mưa sắp tới, Người về tu viện Cấp Cô Độc để kịp thời chuẩn bị cho khóa an cư. Cùng theo Người có đại đức Ananda, các đại đức Sariputta, Moggallana và khoảng ba trăm vị khất sĩ khác.

Tới Savatthi, Bụt về thẳng tu viện Jetavana. Các thầy chờ Bụt ở đây rất đông. Năm nay các vị khất sĩ và nữ khất sĩ đã tụ về an cư. Tin tức về những cuộc biến động ở kinh đô Magadha ai cũng được biết. Thấy Bụt về bình an và khỏe mạnh, mọi người đều vui mừng. Ni sư Khema lãnh đạo một đoàn nữ khất sĩ đến thăm viếng Bụt. Năm nay bà được đưa lên làm vị lãnh đạo tối cao bên ni giới. Ni sư Pajapati đã viên tịch mười năm về trước.

Quốc vương Pesanadi nghe Bụt về cũng lập tức đến tu viện thăm Người. Vua hỏi thăm Bụt về tình hình ở Rajagaha. Bụt thuật cho vua nghe mọi chuyện, trong đó có buổi gặp gỡ giữa Người và thái hậu Videhi em ruột của vua. Bụt cho biết là thái hậu vẫn được bình yên nhưng chắc là trong lòng còn nhiều buồn khổ, vua cũng cho Bụt biết là vua đã gửi một sứ đoàn qua Rajagaha cách đây hơn một tháng, và yêu cầu Ajatasattu Videhiputta giải thích tại sao có chuyện giam giữ quốc vương Bimbisara và hai vị đại thần. Quốc vương Ajatasattu là cháu của vua. Ông bảo nếu cần thiết sẽ triệu hồi Ajatasattu phải về Savatthi để giải bày mọi sự. Hiện vẫn chưa thấy sứ đoàn trở về. Vua cũng cho biết là để tỏ ý phản kháng hành động của quốc vương xứ Magadha, ông đã thu hồi lại thục ấp mà thượng hoàng đã tặng nước Magadha hơn sáu muơi mấy năm về trước, khi em gái vua về làm chánh hậu của quốc vương Bimbisara. Thục ấp này thuộc địa phận Baranasi xứ Kasi.

Ngày an cư đã đến. Các trung tâm tu học ở vùng thủ đô và các vùng lân cận đều có đầy đủ các vị khất sĩ và nữ khất sĩ cư trú. Cứ mười lăm hôm Bụt lại thuyết pháp một lần tại Jetavana, và các giới khất sĩ cũng như nữ khất sĩ từ các trung tâm khác đều tới tham dự. Pháp thoại của Bụt thường được nói vào buổi chiều, ngay sau giờ thọ thực, vì vậy các vị khất sĩ từ những trung tâm xa, đến ngày có pháp thoại, phải nghỉ khất thực để có thời gian đi thẳng về tu viện. Các vị đại đức ở thủ đô cố gắng sắp đặt để cúng dường thực phẩm cho các vị ngay khi các vị tới tu viện, để các vị có đủ thời gian thọ thực và kịp nghe pháp.

Pháp thoại đầu mà Bụt nói trong mùa an cư năm nay có đề tài là hạnh phúc. Bụt dạy hạnh phúc là có thật và ta có thể thực hiện được hạnh phúc ngay trong đời sống này nếu ta biết hành theo chánh pháp.

Trước hết, Bụt cho biết hạnh phúc không phải là thỏa mãn sự đam mê vào dục lạc. Dục lạc có thể cho người một ảo tưởng về hạnh phúc, nhưng thật sự chỉ là tiềm ẩn của khổ đau. Người lấy ví dụ như có một người bị bệnh cùi hủi, sống biệt lập ở trong rừng. Người này luôn luôn cảm thấy ngứa ngáy xốn xang rất khó chịu. Ông ta đào một cái hố, chất cành khô và những gốc cây mục xuống hố và đốt cháy cho đến khi hố có đầy than hồng, rồi ông ta đứng bên cạnh hố, đưa tay chân mình mẩy lên trên hố than để hứng lấy cái nóng của than lửa đang cháy. Trong khi làm như thế, ông ta thấy rất đã ngứa và cảm thấy sung sướng. Ngày nào không được hơ mình trên hố than, ông ta rất làm khó chịu và đau khổ. May mắn cho ông ta, mấy năm sau bệnh cùi hủi của ông được chữa lành. Ông trở về sống đời sống bình thường trong thôn xóm. Một hôm, ông ta vào rừng và thấy mấy người bệnh hủi cũng đang đưa tay chân mình mẩy của họ hơ trên hố than rừng giống ông ngày xưa. Ông thấy thương xót họ vô cùng. Hố than rất nóng, tới gần ông chịu còn không nổi. Thế mà ngày xưa ông đã từng hơ tay chân mình mẩy vào đấy và cho là sung sướng thoải mái vô cùng, bây giờ thì cái hố than đã trở thành một sự khó chịu và khổ đau khi ông bước lại gần nó. Bụt nói: “Dục lạc cũng chỉ là một hố than hồng, chỉ có người bị bệnh mới thấy dục lạc là vui, là sung sướng, những người lành mạnh đều phải lánh xa hố than của dục lạc”.

Nếu đam mê dục lạc không phải là hạnh phúc thì cái gì là hạnh phúc? Bụt dạy: “Sống thư thái, tự do, tiếp xúc được với những mầu nhiệm của cuộc sống tức là có hạnh phúc, ý thức được những gì xảy ra trong giờ phút hiện tại; không tham đắm vào bất cứ pháp nào mà cũng không ghét bỏ bất cứ một pháp nào”.

Người có hạnh phúc biết quý trọng những gì mầu nhiệm đang xảy ra trong hiện tại; một làn gió mát, một buổi sáng đẹp trời, một đóa hoa vàng, một nhành trúc tím, một nụ cười của trẻ thơ, một bữa cơm ngon miệng. Người có hạnh phúc biết thưởng thức những thứ ấy nhưng không bị ràng buộc vào những thứ ấy. Thấy được vạn pháp là vô thường và vô ngã. Người ấy không nhận thức sai lầm là các pháp như những gì có thường và có ngã, do đó người ấy không bị ràng buộc bởi các pháp kia, không bị tham đắm vào các pháp kia. Không bị ràng buộc, không tham đắm, người ấy sống an nhiên tự tại, không lo âu, không sợ hãi, không đau buồn, không tiếc nuối. Biết rằng một bông hoa có thể sớm nở rồi tàn, người ấy thấy được tự tính sinh diệt vô thường của các pháp cho nên không vì sự sinh diệt của vạn pháp mà sầu khổ và lo âu. Cũng vì thế nên hạnh phúc của người ấy là hạnh phúc chân thật. Người ấy không lo âu và sợ hãi ngay cả về sự sinh diệt của chính mình.

Có người cho rằng, muốn có hạnh phúc trong tương lai thì phải chịu khổ trong hiện tại, vì vậy họ hy sinh hiện tại bằng cách chịu khổ chịu cực, đày đọa trí não cũng như thể xác, để mua lấy hạnh phúc trong tương lai. Bụt dạy rằng: “Cuộc sống thực sự chỉ có mặt trong giây phút hiện tại, hy sinh hiện tại là phế bỏ sự sống”. Có người nghĩ muốn có an lạc và giải thoát trong tương lai thì phải hành hạ xác thân trong hiện tại. Nghĩ như thế, họ áp dụng những phép tu khổ hạnh, chịu đói khát và đau đớn trong thân xác và trong tâm trí, dùng khổ đau trong hiện tại, để mua hạnh phúc trong tương lai. Bụt dạy lối tu hành đó không những làm cho người tu chịu đau khổ trong hiện tại mà còn gây đau khổ trong tương lai nữa.

Có người cho rằng, đời sống quá ngắn ngủi, không nên nghĩ tới tương lai, phải tận lực hưởng thụ những thú vui dục lạc ngay trong giờ phút hiện tại. Bụt dạy rằng: “Tham đắm vào dục lạc như thế cũng giống như nướng mình trên hố than rừng, hành động này chỉ đem lại khổ đau ngay trong hiện tại và cho cả tương lai”.

Phương pháp tu học của Bụt vượt ra ngoài hai cách sống vừa kể. Bụt dạy rằng phép sống khôn ngoan nhất là phép sống đem lại hạnh phúc trong hiện tại mà cũng sẽ đem lại hạnh phúc trong tương lai.

Tu tập theo đạo giải thoát không phải là ép xác khổ hạnh để cầu mong một hạnh phúc tương lai. Khi vị khất sĩ ăn ngày một bữa, thực tập thiền tọa, thực tập thiền hành, thực tập Tứ niệm xứ, thực tập Tứ vô lượng tâm, thực tập phép Quán niệm hơi thở, vị khất sĩ ấy tạo ra hạnh phúc cho chính mình và cho những người xung quanh ngay trong giờ phút hiện tại. Ăn mỗi ngày một bữa có thể giúp cho cơ thể nhẹ nhàng, có thể cho ta nhiều thời giờ hơn để tu tập, để sống thoải mái và tự do, và để giúp ích cho người khác. Không lập gia đình, không có vợ con không phải là một sự ép xác khổ hạnh mà cũng là để sống tự do và thoải mái để có thời gian tu tập và giúp ích cho kẻ khác. Sống đời sống phạm hạnh, người khất sĩ phải thấy được niềm vui và hạnh phúc trong giây phút của cuộc sống hàng ngày. Nếu người nào sống đời sống phạm hạnh mà vẫn cảm thấy bị khổ đau, ép buộc, thiếu tự do, đó là đã sống không đúng theo tinh thần chánh pháp, đó là sống mà vẫn còn ham muốn, dính mắc và chưa biết hài lòng với hiện tại. Nhìn vào một vị khất sĩ sống phạm hạnh, người ta phải thấy có mặt của sự thoải mái, sự định tĩnh và niềm an lạc, đó mới thực sự là phép sống đúng với chánh pháp. Nếp sống này đem lại hạnh phúc trong hiện tại mà chắc chắn cũng đem lại hạnh phúc trong tương lai.

Sau buổi pháp thoại, nữ cư sĩ Punnalakkhana xin đến viếng Bụt. Bà là nội trợ của cư sĩ Sudatta Anathapindika, người đã xây dựng tu viện Jetavana để cúng dường giáo đoàn khất sĩ. Nữ cư sĩ báo tin cho Bụt biết là cư sĩ Sudatta bị ốm đã hơn mười hôm nay, và rất khổ đau vì không đến dự được buổi pháp thoại này. Bệnh của cư sĩ ngày càng nặng. Cư sĩ rất lo sẽ không được nhìn thấy Bụt trước khi qua đời.

Ngày hôm sau, Bụt đi thăm cư sĩ Sudatta, cùng đi với Người có hai đại đức Sariputta và Ananda, được thấy Bụt và hai đại đức, cư sĩ rất mừng rỡ. Ông ngồi trên một chiếc ghế dựa, nét mặt xanh xao, Bụt bảo:

- Này Sudatta, suốt đời ông đã sống một cuộc sống có ý nghĩa và có hạnh phúc. Ông đã làm vơi nổi khổ của biết bao nhiêu người. Danh từ Anathapindika mà thiên hạ tặng cho ông là một trong những bằng chứng lớn của sự thành công của ông. Tu viện Jetavana là một bằng chứng lớn khác. Ông đã đóng góp thật nhiều để giáo pháp của đạo giác ngộ được truyền đi khắp chốn. Ông đã sống theo chánh pháp, đã tạo được hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình và cho rất nhiều người trong xã hội. Bây giờ ông nên tĩnh dưỡng, tôi sẽ nhờ đại đức Sariputta thỉnh thoảng tới thăm ông và hướng dẫn sự tu học cho ông. Ông không nên cố gắng để tìm đến tu viện, bởi vì di chuyển như thế sẽ làm cho ông mất sức nhiều hơn.

Cư sĩ Sudatta chắp tay tạ ơn Bụt.

Mười lăm hôm sau, vào giờ pháp thoại, Bụt nói về đời sống người tại gia, về hạnh phúc chân thực mà người cư sĩ có thể thực hiện ngay trong đời sống hiện tại.

Bụt ôn lại những nguyên tắc sống “hạnh phúc trong hiện tại, hạnh phúc trong tương lai” mà Người đã diễn bày trong kỳ pháp thoại trước, rồi Bụt nói:

- Này các vị khất sĩ, sống đời sống phạm hạnh là để có an lạc hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại, và nếp sống phạm hạnh ấy chắc chắn sẽ đem lại hạnh phúc hạnh trong tương lai, nhưng không phải chỉ người xuất gia mới sống được theo nguyên tắc ấy.

Những người cư sĩ sống ở thành thị và trong xóm làng cũng có thể theo nguyên tắc ấy của chánh pháp mà làm cho đời sống càng ngày càng có thêm hạnh phúc. Trước hết là đừng vì ước muốn giàu sang mà chúi đầu vào công việc, bỏ mất cơ hội tạo hạnh phúc cho mình và cho gia đình mình trong giờ phút hiện tại. Hạnh phúc trước hết là sự tỉnh thức. Một cái nhìn đầy hiểu biết, một nụ cười bao dung, một câu nói thương yêu, một bữa cơm đầm ấm và tỉnh thức ... đó là hạnh phúc trong hiện tại. Nuôi dưỡng sự tỉnh thức trong hiện tại, ta sẽ tránh không gây khổ đau cho ta và cho những người khác. Bằng cái nhìn, bằng lời nói, bằng nụ cười, bằng những cử chỉ thân thiện, ta tạo ra hạnh phúc cho ta và cho mọi người ngay trong giây phút hiện tại. Hạnh phúc này không cần đến giàu sang và danh vọng.

Bụt kể cho đại chúng nghe câu chuyện của Sigala, một người gia chủ trẻ tuổi mà Bụt gặp ở thành phố Rajagaha nhiều năm về trước.

Buổi sáng nọ, khoác y, mang bát và rời tu viện Trúc Lâm lúc trời mới rạng sáng. Người gặp một chàng trai tên Sigala, con của một thương gia sống ở ngoại ô thành phố. Sigala đang đứng ở ngoài trời và đang cúi lạy sáu phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Thượng và Hạ một cách cung kính.

Bụt tới gần và hỏi chàng lạy như thế để làm gì? Sigala thưa là từ hồi còn bé, chàng đã được phụ thân chỉ dạy mỗi buổi sáng phải ra lạy sáu phương. Chàng vâng lời cha, sáng nào cũng ra lạy như thế, nhưng không biết để làm gì. Bụt nói:  “Hãy thực tập cách quán chiếu bằng việc lễ lạy như thế, điều này cũng là một lối sống có thể đưa tới hạnh phúc trong hiện tại và trong tương lai”. Người dạy rằng lạy phương Đông là để quán chiếu cách đối xử với ơn cha mẹ, lạy phương Nam là để quán chiếu cách đối xử với ơn sư trưởng, lạy phương Tây là để quán chiếu cách đối xử với tình vợ con, lạy phương Bắc là để quán chiếu cách đối xử với tình bè bạn, lạy phương Hạ là để quán chiếu cách đối xử với người cộng sự, lạy phương Thượng là để quán chiếu cách đối xử với những bậc hiền nhân.

Bụt lại dạy Sigala về phép thọ trì năm giới, phép quán chiếu để đừng vội vã hành động khi trong tâm có tham dục, sân hận, si mê và sợ hãi. Bụt dạy Sigala tránh xa sáu loại hành động có thể đưa đến khổ đau: không say sưa, không đi lang thang trong thành phố vào đêm khuya, không lui tới những chốn cờ bạc, không lui tới những nơi ăn chơi trụy lạc, không la cà với những bạn xấu và không lười biếng ỷ lại.

Bụt lại dạy cho Sigala biết phân biệt thế nào là một người bạn tốt. Người nói:

- Một người bạn tốt là một người đối xử với mình một cách chung thủy, khi mình giàu sang hoặc sa sút, hạnh phúc hay khổ đau, thành công hay thất bại, đắc thế hoặc thất thế thì người bạn ấy vẫn không hề thay đổi. Người bạn ấy biết lắng nghe và chia xẻ những buồn vui của mình, nói cho mình nghe những lo lắng và buồn vui của người ấy. Một người bạn tốt là một người bạn hiểu biết.

Kể xong chuyện Sigala, Bụt nói:

- Hạnh phúc chân thật là một điều có thể thực hiện ngay trong đời sống hiện tại này của người cư sĩ nếu quy tụ được càng nhiều những điều kiện sau đây:

1. Được thân cận với những người hiền đức, xa lánh những kẻ đang đi trên con đường sa đọa.

2. Được sống trong một môi trường thuận tiện cho sự tu học và tạo những nhân lành.

3. Được có cơ hội học hỏi thêm về giáo pháp, về giới luật, về công nghệ và về ngôn ngữ văn chương.

4. Được phụng dưỡng cha mẹ và có thời giờ để chăm sóc vợ chồng con cái của mình.

5. Được chia sẻ công sức, tài vật và niềm vui với kẻ khác.

6. Được có cơ hội vun trồng đạo đức.

7. Được thực tập các đức khiêm nhường, biết ơn và tri túc của đạo giác ngộ.

8. Được học hỏi đạo lý giải thoát với các vị khất sĩ.

9. Được sống một cuộc sống trong sạch theo nguyên tắc Bốn sự thật.

10. Được học cách thiền quán để tháo bỏ những phiền não và ưu sầu trong cuộc sống.

Tới đây, Bụt mở lời khen những cư sĩ đã và đang sống theo chánh pháp trong cuộc sống hàng ngày, trong gia đình và xã hội. Bụt đặc biệt nhắc tới cư sĩ Sudatta Anathapindika. Bụt nói Sudatta là người đã quy tụ được nhiều điều kiện để làm cho đời sống có ý nghĩa, có hạnh phúc và có lợi ích cho nhiều người. Đạo tâm của Sudatta rất lớn và cuộc đời của Sudatta đã được hướng theo bởi những nguyên tắc của chánh pháp, Bụt nhấn mạnh rằng có những người giàu có hơn Sudatta nhiều gấp bội, nhưng đứng về phương diện hạnh phúc thì không thể nào so sánh được với Sudatta.

Hôm ấy, nội trợ của cư sĩ Sudatta là Punnalakkhana cũng có mặt trong buổi pháp thoại. Nghe Bụt nói, bà cảm động đến rơi nước mắt, bà đứng dậy và bạch:

- Bạch đức Thế Tôn, cuộc sống của người cư sĩ có nhiều khi thật bận rộn, nhất là khi mình được thừa hưởng một gia sản lớn. Con thấy khi mình có một cơ nghiệp bình thường, sự tu đạo sẽ dễ dàng hơn. Nhìều khi nhìn những vị khất sĩ không nhà, không cửa, không vợ, không con, cầm một chiếc bình bát, đi thong dong trên mọi nẻo đường khất thực, chúng con thấy thèm muốn sự thảnh thơi ấy một cách lạ kỳ. Chúng con ước muốn được sống như thế, nhưng mà chúng con có nhiều sợi dây ràng buộc quá, biết phải làm sao?

Bụt dạy:

- Nữ cư sĩ Punnalakkana! Vị khất sĩ cũng có nhiều trách nhiệm đấy chứ. Nếp sống phạm hạnh là nếp sống buộc vị khất sĩ phải an trú ngày đêm trong chánh niệm, trong giới luật. Người khất sĩ lại còn phải nghĩ đến trách nhiệm độ sinh.

Này các vị cư sĩ! Như Lai đã tìm ra một phương cách để quý vị có thể được sống giống như các vị khất sĩ. Phương cách đó là Bát quan trai giới. Các vị có thể đến tu viện, xin thọ tám giới, sống trong thời gian trọn vẹn một ngày một đêm, ngày ăn một bữa, thực tập thiền tọa, thiền hành, sống trong phạm hạnh, tỉnh thức, tinh cần, thong dong và an lạc, giống hệt như các vị khất sĩ, và các vị khất sĩ có thể được mời để tuyên giới, hướng dẫn và chỉ dạy trong các ngày tu Bát quan trai. Sau thời gian một ngày, một đêm sống như thế, các vị lại xả giới và trở về đời sống thế gian, chỉ giữ lại năm giới và quy y Tam Bảo.

Punnalakkhana sung sướng hỏi Bụt:

- Bạch Thế Tôn, tám giới của pháp chế Bát quan trai là tám giới nào, tại sao gọi là quan, tại sao gọi là trai, xin Thế Tôn khai thị cho chúng đệ tử được biết.

- Tám giới là: không sát hại sinh mạng, không trộm cướp, không dâm dục, không vọng ngữ, không uống rượu, không trang sức, không nằm và ngồi trên giường chiếu sang trọng và không sử dụng tiền bạc. Tám giới ấy là để phòng ngừa sự phát sinh của vọng niệm và tạp niệm trong thời gian tu tập nên gọi là quan. Quan có nghĩa là phòng ngừa, còn trai có nghĩa là chỉ ăn một bữa trước giờ ngọ, để có thời giờ tu tập.

Mười hôm sau, người nhà của cư sĩ Sudatta tới tìm đại đức Sariputta, báo tin là bệnh tình của cư sĩ trở nặng.

Đại đức cùng đại đức Ananda đến thăm. Cư sĩ Sudatta nằm trên giường bệnh để tiếp hai vị đại đức. Người nhà nhắc ghế để hai đại đức ngồi gần bên giường.

Biết cư sĩ không sống được bao nhiêu ngày nữa, đại đức Sariputta khai thị:

- Cư sĩ Sudatta, ông nên quán tưởng như sau: mắt, không phải là tôi, tai không phải là tôi, mũi, lưỡi thân cũng không phải là tôi.

Đợi cư sĩ quán tưởng xong, đại đức nói:

- Cư sĩ tiếp tục quán tưởng; những gì tôi thấy không phải là tôi, những gì tôi nghe không phải là tôi, những gì tôi ngửi, nếm, xúc chạm cũng không phải là tôi.

Rồi đại đức dạy cho cư sĩ quán chiếu vô ngã trong sáu thức: cái thấy không phải là tôi, cái nghe không phải là tôi, tri giác, vị giác, xúc giác và ý thức cũng không phải là tôi. Đại đức nói:

- Sáu căn, sáu trần và sáu thức không phải là tôi. Sáu đại là đất, nước, lửa, gió, không gian và tâm thức cũng không phải là tôi. Tôi không bị ràng buộc và giới hạn trong những yếu tố ấy. Tôi không bị sinh tử ràng buộc và hạn chế. Sinh tử không chạm được tới tôi. Tôi mỉm cười, bởi vì tôi không sinh cũng không diệt. Sinh không làm cho tôi có, tử không làm cho tôi mất đi.

Thực tập tới đó, cư sĩ Sudatta khóc. Nước mắt chảy ràn rụa trên hai má ông.

Đại đức Ananda hỏi:

- Cư sĩ có tiếc nuối gì không?

- Thưa đại đức Ananda, con không tiếc nuối, con quán chiếu rất thành công. Con khóc vì con cảm động quá. Con được phụng sự Bụt và gần gũi các vị khất sĩ đã hơn ba mươi năm nay, vậy mà chưa bao giờ con được nếm mùi vị giáo lý thậm thâm vi diệu như hôm nay.

- Cư sĩ Sudatta, giáo lý này đức Thế Tôn đã giảng dạy cho các vị khất sĩ và nữ khất sĩ được nghe.

- Thưa đại đức Ananda, đệ tử của cư sĩ chúng con có người cũng có thể nghe, hiểu và hành được giáo lý thậm thâm này. Xin đại đức Ananda bạch với Bụt để Người cho phép giới cư sĩ chúng con được nghe, hiểu và thực hành giáo lý thậm thâm đó.

Cư sĩ Sudatta ra đi ngay buổi chiều hôm ấy. Các đại đức Sariputta và Ananda đã ở lại hộ pháp rất lâu cho cư sĩ.

Gia đình của cư sĩ Anathapindika là một gia đình cư sĩ kiểu mẫu. Tất cả mọi người trong gia đình từ cha mẹ đến con cái, người nào cũng có đức tin vững chải nơi Bụt, người nào cũng siêng năng học hỏi giáo lý và đem áp dụng vào cuộc sống. Cách đây mấy hôm, cư sĩ được biết tin rằng con gái út của mình là Sumagadha, lấy chồng ở xứ Anga, đã hóa độ được rất nhiều dân chúng trong vùng theo Bụt. Chồng của cô trước đó là một vị quan tổng trấn ở xứ Anga, tín đồ của phái du sĩ lõa thể. Lần đầu, khi được chồng nài ép đi thăm các vị du sĩ này, cô đã khéo léo từ chối. Với sự hiểu biết vững vàng về đạo Bụt, cô đã từ từ cảm hóa được quan tổng trấn và mang được giáo lý Bụt vào đời sống của dân chúng trong vùng.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài Quan Tâm

NHỮNG CÂU NÓI Ý NGHĨA TRONG ĐẠO PHẬT

*** Đừng lãng phí cuộc đời mình tại những nơi mà nhất định bạn sẽ hối hận. ***