Ajahn Sumedho
“ Như một người đang đi
trong khu rừng tìm thấy con đường xưa có in dấu chân của những người đi
trước; và đi theo con đường đó, người ấy tìm đến một đô thị cổ với
những khu vườn, lùm cây, và hồ nước; và đô thị đó được xây dựng lại để trở
nên phồn vinh và sung túc; Cũng thế ấy, Ta đã tìm thấy con đường xưa
có in dấu chân của những đấng giác ngộ từ nhiều kiếp trước.
Đó là Con Đường Thánh
Thiện Có Tám Chi Phần hay Bát Chánh Đạo; Đó là Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh
Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mệnh, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, và Chánh Định.
Ta đã đi theo con đường ấy, và trên đường đi, Ta đã hoàn toàn
thấy và hiểu được sự già và sự chết; Ta đã hoàn toàn thấy và
hiểu được sự bắt đầu của sự già và sự chết; Ta đã hoàn toàn thấy và
hiểu được sự chấm dứt của sự già và sự chết; Ta đã hoàn toàn thấy và
hiểu được con đường dẫn đến sự chấm dứt của sự già và sự chết. ”
--- Kinh Tương Ưng, Phẩm 65 Nidana Vagga
PHẦN I - TIẾP
CẬN VỚI PHÁP
CHƯƠNG 1
ĐẠO PHẬT CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO KHÔNG?
Chúng ta thường dễ dãi cho là mình đã
biết nhiều về tôn giáo vì ảnh hưởng của tôn giáo thấm rất sâu vào đời sống
văn hóa của chúng ta. Tuy nhiên, nhín chút thì giờ để quán tưởng
về mục đích và mục tiêu thật sự của tôn giáo vẫn là điều hữu ích.
Nhiều người thường xem tôn giáo là
niềm tin vào một Đấng Thượng Đế hay những vị thần linh và từ đó, họ
cho rằng bất cứ tôn giáo nào chủ trương tin vào thần thánh, hay nói
khác đi, có quan điểm hữu thần, mới thật sự là tôn giáo. Vì thế, các
tôn giáo hửu thần thường cho đạo Phật là đạo vô thần hay thậm chí
không phải là tôn giáo. Họ xem Đạo Phật chỉ là một khoa triết học hay tâm
lý học vì đạo Phật không chủ trương tin vào thần linh hay thượng đế. Đạo Phật
không dựa trên một lý thuyết siêu hình hay một giáo điều nào đó mà chỉ dựa trên
một kinh nghiệm chung của toàn thể nhân loại -- đó là sự đau khổ. Tư tưởng nền
tảng của Đạo Phật là qua việc quán niệm, suy tưởng và hiểu biết về kinh
nghiệm khổ đau chung đó, con người có thể vượt lên trên những ảo tưởng tâm
lý đã tạo nên chính sự khổ đau của họ.
Từ "tôn giáo" hay
"religion" có gốc từ tiếng La tinh "religio"
có nghĩa là "mối liên hệ", "sự nối kết" hay "sự kết
hợp." Nó hàm ý về quan hệ giữa con người với một đối tượng thiêng
liêng và ảnh hưởng bao trùm của quan hệ nầy trên toàn bộ nhân cách của
người đó. Để trở thành một người thật sự "tôn giáo", bạn
phải tìm cầu và thiết lập quan hệ với một đối tượng thiêng liêng, hay một
thực tại tuyệt đối, dâng hiến đời mình và sống trọn vẹn với quan
hệ đó cho đến lúc bạn đạt được sự hiểu biết tối thượng. Tất cả tôn
giáo đều nói về "sự giải thoát" và "sự cứu rỗi." Những
danh từ đại loại như thế nhằm truyền đạt ý nghĩa về sự tự do và giải
thoát khỏi những mê lầm và ảo tưởng tâm lý, về sự tự do tuyệt đối và viên
mãn, và về sự hiểu biết toàn bộ thực tại tuyệt đối. Trong đạo Phật,
chúng ta gọi đó là sự giác ngộ.
TÌM HIỂU BẢN CHẤT CỦA KHỔ ĐAU
Đạo Phật là đạo quán niệm và
suy tưởng về sự khổ đau vì đó là kinh nghiệm chung của toàn thể nhân
loại. Trong đạo Phật, khổ đau không nhất thiết phải đến từ một thảm kịch
lớn lao hay một nỗi bất hạnh kinh hoàng. Nó chỉ đơn giản là tình cảm bất
toại nguyện, không hạnh phúc và thất vọng mà tất cả chúng ta đều trải qua
nhiều lần trong đời. Khổ đau là kinh nghiệm chung của cả nam lẫn nữ,
cả người giàu lẫn người nghèo. Dù chúng ta khác biệt về màu da và dân tộc,
khổ đau vẫn là sợi dây chung ràng buộc và nối kết chúng ta lại với nhau.
Vì thế trong Đạo Phật, khổ đau
được xem là một sự thật thánh thiện. Nó không phải là sự thật
tuyệt đối. Khi Đức Phật thuyết giảng về khổ đau như một sự thật
thánh thiện, Ngài không có ý muốn khuyên chúng ta bám vào kinh nghiệm
khổ đau và mù quáng tin vào đó như một sự thật tuyệt đối. Trái
lại, Ngài dạy chúng ta dùng kinh nghiệm khổ đau như một chân lý thánh
thiện để quán niệm và suy tưởng. Chúng ta quán tưởng: Khổ đau là gì?
Thực chất của nó là gì? Tại sao ta đau khổ? Đau khổ về cái gì?
Hiểu biết được bản chất của khổ đau
là một cái nhìn trí tuệ quan trọng. Với kinh nghiệm riêng của mình, bạn hãy thử
suy nghĩ. Trong đời, bạn đã dành bao nhiêu thời gian để tránh né hoặc
chạy trốn những điều phiền lòng hay những gì bạn chán ghét? Xã hội mà chúng
ta đang sống đã bỏ ra bao công sức để đi tìm hạnh phúc và lạc thú
ở đời và trốn tránh những điều khó chịu và những gì chúng ta không ưa
thích? Chúng ta có thể cảm thấy hạnh phúc trong một giây phút nào đó, say
mê miệt mài trong một khoảnh khắc nào đó, đạt được những điều mà chúng ta
không cho là khổ đau, thí dụ như một tình cảm sôi nổi và hứng thú,
một mối tình lãng mạn, một cuộc phiêu lưu kỳ thú, những cảm giác êm dịu của
thân xác, được ăn những món ngon vật lạ, nghe tiếng nhạc êm dịu, hay
nhiều thứ khác nữa. Nhưng thật ra, chúng ta làm tất cả những điều nầy chỉ
là để tránh xa và xua đuổi những sợ hãi, bất mãn, lo âu, và phiền
muộn luôn là bóng ma lãng vãng trong tâm thức chưa giác ngộ của chúng ta. Ngày
nào mà con người còn sống trong vô minh, không chịu nhìn thẳng vào khổ đau
và tìm hiểu bản chất của khổ đau thì họ sẽ tiếp tục bị ám ảnh và không
ngừng lo âu, sợ hãi về chính cuộc sống của mình.
Để hiểu được khổ đau, chúng ta phải
chấp nhận thay vì tìm cách xua đuổi và chối bỏ khổ đau, hay đổ lỗi cho người
khác. Chúng ta sẽ nhận ra rằng khổ đau có nguyên nhân của nó và rằng sự
xuất hiện của khổ đau tùy thuộc vào một số điều kiện. Đó là
những điều kiện tâm lý do chúng ta tự tạo hay do nếp sống văn hóa và gia đình
huân tập. Kinh nghiệm sống và quá trình huân tập tâm lý nầy bắt đầu ngay từ lúc
chúng ta lọt lòng mẹ. Gia đình, tập thể, cộng đồng, trường học, tất
cả những định chế này đã gieo trồng và nuôi dưỡng trong tâm chúng ta
những định kiến, thiên kiến, và quan điểm -- cả thiện lẫn bất
thiện.
Giờ đây, nếu chúng ta không
thật sự nhìn thẳng vào những điều kiện tâm lý nầy, xem xét và tìm hiểu bản
chất thật sự của chúng, chắc chắn chúng ta sẽ tiếp tục bị chúng sai khiến,
chúng ta sẽ hiểu và diễn giải kinh nghiệm sống của mình qua những cái nhìn lệch
lạc. Nhưng nếu chúng ta xem xét và tìm hiểu chính bản chất của sự đau
khổ, chúng ta sẽ bắt đầu làm quen với những tình cảm như kinh sợ, ham
muốn và khát khao, và rồi chúng ta sẽ khám phá ra rằng bản chất thật của chúng
ta không phải là những ham muốn hay sợ hãi nầy. Bản chất thật của chúng ta hoàn
toàn không tùy thuộc vào bất cứ điều kiện nào.
PHÁP HỮU VI, PHÁP VÔ VI, VÀ Ý THỨC
CON NGƯỜI
Các tôn giáo thường lấy quan hệ giữa
thế giới hữu vi, còn được gọi là thế giới duyên sinh hay thế giới
bị điều kiện và thế giới vô vi, còn được gọi là thế giới vô sinh hay
thế giới không bị điều kiện làm đối tượng chính. Điều nầy có
nghĩa là nếu đi vào tận cốt lõi của bất cứ tôn giáo nào, bạn sẽ thấy là tất
cả đều đặt trọng tâm vào điểm kết thúc của cuộc sống hay sự ngừng
nghỉ của thế giới hữu vi. Thấy được sự chấm dứt của thế giới hữu vi
cũng là điểm bắt đầu của một quá trình chứng ngộ và hiểu biết về thế giới
vô vi. Thuật ngữ đạo Phật có ghi: " Có pháp vô vi; và nếu không
có pháp vô vi, thì cũng không có pháp hữu vi." Pháp hữu vi sinh và diệt
trong pháp vô vi, và qua đó, chúng ta có thể thấy được quan hệ giữa thế
giới hữu vi và thế giới vô vi. Đã sinh ra làm người, chúng ta phải chịu sự chi
phối của những giới hạn và điều kiện của thế giới dựa trên giác quan. Sự
có mặt của chúng ta trên cõi đời nầy có nghĩa là chúng ta đã thoát
sinh từ thế giới vô vi và thị hiện dưới dạng một sắc thân riêng biệt và tùy
thuộc vào nhiều điều kiện. Và có sắc thân con người nầy cũng bao hàm
ý nghĩa là chúng ta có ý thức.
Ý thức luôn xác định quan
hệ giữa chủ thể và khách thể, và trong Đạo Phật, ý thức được xem
là chức năng phân biệt của tâm. Ngay bây giờ, bạn hãy suy nghĩ
về điều nầy. Bạn đang ngồi đây và lắng nghe những lời tôi đang giảng. Đây
là kinh nghiệm của ý thức. Bạn có thể cảm thấy hơi nóng trong phòng, bạn có thể
nhìn quang cảnh chung quanh, bạn có thể nghe những âm thanh. Tất cả điều
nầy có nghĩa là bạn đã được sinh ra trong sắc thân con người và
từ đây cho đến cuối đời, ngày nào mà sắc thân nầy còn sống, nó sẽ tiếp tục
ghi nhận những cảm thọ và ý thức sẽ tiếp tục sinh khởi trong tâm. Ý thức luôn
cho ta cái ấn tượng là có chủ thể và khách thể, vì thế, nếu chúng ta không chịu
khó quan sát và tìm hiểu bản chất thật sự của sự vật, chúng ta sẽ bị kẹt trong
cái nhìn nhị nguyên, cho "sắc thân nầy là của tôi, cảm thọ nầy là của tôi,
ý thức nầy là của tôi."
Do đó, thái độ nhị nguyên bắt
nguồn từ ý thức. Và để rồi, với khả năng hiểu biết, ghi nhớ và nhận thức
của tâm, chúng ta xây dựng cho mình một cá tính hay nhân cách. Thỉnh thoảng
chúng ta rất yêu thích và thú vị về nhân cách của mình. Nhưng đôi khi
chúng ta lại sợ hãi một cách vô lý, nhìn sai lệch và lo âu về chính con người
của mình.
ƯỚC VỌNG CỦA TÂM THỨC CON NGƯỜI
Hiện nay, trong các xã hội
có đời sống vật chất phát triển cao, phần lớn các nỗi đau khổ và tuyệt
vọng của con người đều bắt nguồn từ sự kiện là chúng ta -- những con người
hiện đại -- thường không thể hướng đến với một cái gì cao hơn
ngoài cái trái đất mà chúng ta đang sống và sắc thân làm người nầy.
Xã hội hiện đại không thật sự khuyến khích con người ước mơ và hướng về sự
hiểu biết tối thượng hay quả vị giác ngộ. Ngược lại, hình như người ta thường
kiềm chế và ngăn cản ước nguyện nầy.
Vì không liên hệ được với một
sự thật cao hơn cuộc đời bình thường nầy, cuộc sống của chúng ta trở thành vô
nghĩa. Nếu chúng ta không thể liên hệ được với một cái gì khác hơn ngoài
những kinh nghiệm của một thân người sống trên trái đất, trong cái vũ trụ
đầy bí ẩn nầy, thì tất cả ý nghĩa còn lại của cuộc sống chỉ là để sinh ra
rồi chết. Dĩ nhiên, những câu hỏi kế tiếp sẽ là mục đích của cuộc
sống là gì? Ý nghĩa của cuộc đời là gì? Tại sao chúng ta phải quan tâm
vấn đề nầy? Tại sao sống phải có mục đích? Tại sao cuộc đời phải có ý
nghĩa? Tại sao chúng ta muốn cuộc sống có ý nghĩa? Tại sao chúng ta tạo ra
những ngôn ngữ, triết học và tôn giáo? Tại sao chúng ta mong mỏi hay ước mơ về
sự giác ngộ tối thượng nếu tất cả những gì đang có hay có thể có chỉ là
những kinh nghiệm sống dựa trên cái nhìn của tự ngã? Phải chăng việc chúng
ta được sinh ra trong sắc thân làm người nầy, với những giới hạn của nó,
chỉ là một điều ngẫu nhiên trong cái hệ thống hành tinh vượt ngoài tầm
kiểm soát của chúng ta?
Chúng ta hoàn toàn không thể nào hiểu tường tận cái vũ trụ mà chúng ta đang sống. Chúng ta chỉ có thể đặt câu hỏi và tìm hiểu về nó. Chúng ta có thể trực tiếp cảm nhận và ngắm nhìn vũ trụ, nhưng chúng ta không thể nào thu nó nhỏ lại thành viên thuốc hay hạt đậu. Đầu óc của chúng ta cũng không thể ghi nhận hết được nó. Vì thế, những người có tư tưởng duy vật thường khuyên chúng ta không nên đặt ra những câu hỏi có tính tâm linh và triết học vừa nêu trên. Ngược lại, họ thúc đẩy chúng ta diễn giải tất cả kinh nghiệm của cuộc đời nầy bằng lô-gích và lý luận, dựa trên những giá trị của chủ nghĩa duy vật và khoa học thực nghiệm.
KINH NGHIỆM TỈNH THỨC
Đạo Phật chỉ cho chúng ta thấy cái
kinh nghiệm chung và phổ biến của tất cả chúng sinh. Đó là sự đau khổ. Đạo Phật
cũng trình bày cho chúng ta con đường đi ra khỏi khổ đau. Khổ đau là kinh
nghiệm có sức mạnh làm thức tỉnh con người. Khi đau khổ, chúng ta sẽ bắt đầu
đặt câu hỏi. Chúng ta sẽ đi tìm, xem xét, nghi vấn và thử tìm
giải đáp.
Trong câu chuyện của Thái tử
Siđdattha (tên của Đức Phật trước khi Ngài giác ngộ), chúng ta được
kể rằng khi còn là thái tử, Ngài sống trong khung cảnh chỉ có dục lạc,
sắc đẹp, tiện nghi, và ân sủng -- nói khác đi, Ngài có tất cả những
gì tốt đẹp nhất trên đời. Và rồi, như câu chuyện tiếp tục kể,
vào lúc hai mươi chín tuổi, Thái tử Siđhattha rời cung điện hoàng gia đi
tham quan ngoại thành, và trong chuyến đi nầy, Ngài gặp và biết được
những sứ giả hiện thân của tuổi già, bệnh tật, và sự chết.
Ngày nay, có người sẽ nói
là Đức Phật chắc chắn phải biết về tuổi già, bệnh tật, và sự chết trước năm
Ngài hai mươi chín tuổi. Theo cách suy nghĩ của chúng ta ngày nay, rõ ràng là
từ lúc còn nhỏ, ai cũng biết là mọi người đều lớn lên, già, bịnh, rồi
chết. Tuy nhiên, trong trường hợp của Đức Phật, Thái tử Siđattha đã bị
cách ly khỏi những kinh nghiệm này từ lúc còn nhỏ, và mãi cho đến lúc Ngài
tiếp cận trực tiếp với những kinh nghiệm trên, Ngài mới thật sự bừng ngộ.
Cũng tương tự như thế, chúng ta có
thể sống cả đời và cho rằng mọi việc đều sẽ ổn thỏa. Ngay cả
những đau khổ hay thất vọng thường gặp hàng ngày cũng không nhất thiết làm
chúng ta thức tỉnh. Chúng ta có thể suy nghĩ phớt qua về chúng. Nhưng chung
quanh chúng ta có quá nhiều điều kiện và yếu tố lôi kéo và hướng chúng ta
ra bên ngoài nên chúng ta không còn màng đến việc tìm hiểu và để ý
đến những nỗi đau thường gặp trong đời nữa. Phải chăng đổ lỗi cho người
khác đã gây đau khổ cho chúng ta là một việc dễ làm? Chúng ta có
thể đổ lỗi cho nhà nước, cha mẹ, bạn bè hay kẻ thù của chúng ta và cho
những thế lực từ bên ngoài. Nhưng chúng ta chỉ bừng tỉnh với cái đau của
tuổi già, bệnh tật, và sự chết khi chúng ta biết là những điều này sắp
xảy đến cho chúng ta. Và sự bừng tỉnh này đến, không phải chỉ
như một khái niệm trừu tượng mà là một tình cảm thật sự trào dâng lên từ
chính gan ruột của chúng ta, là một cái nhìn trí tuệ thật sự rằng đây là
những gì xảy đến cho tất cả mọi người. Những gì sinh ra sẽ già, suy
thoái, rồi chết.
Sứ giả thứ tư mà Đức Phật gặp
trong chuyến tham quan ngoại thành là một vị sa môn. Sa môn là một tu sĩ hay
một người tầm đạo, một người dâng hiến đời mình cho lý tưởng đi tìm
sự thật tuyệt đối. Trong câu chuyện về cuộc đời Đức
Phật, vị Sa môn được mô tả như một tu sĩ cạo đầu và mặc y.
Trong đạo Phật, bốn vị sứ giả
nầy tượng trưng cho sự Già, Bịnh, Chết, và Giải thoát . Nó tượng trưng cho sự
thức tỉnh của tâm thức con người về một lý tưởng tôn giáo, về ước mơ nhận
thức được sự thật tuyệt đối, và về ước vọng được tự do và giải thoát
khỏi tất cả si mê và đau khổ tiềm ẩn trong tất cả trái tim của nhân loại.
VIỆC TU TẬP TRONG ĐẠO PHẬT
Ngày nay, nhiều người thường mô tả
việc hành thiền trong đạo Phật như là sự rời bỏ cuộc đời nầy để phát
triển một trạng thái tâm thức vắng lặng và tập trung cao độ, trong một
khung cảnh được lựa chọn, điều chỉnh, và kiểm soát cẩn thận. Vì thế ở Mỹ và một
số nước khác nơi mà việc hành thiền ngày càng phổ biến, người ta
quyết đoán rằng hành thiền là để đạt được một trạng thái vắng lặng và
tập trung của tâm trong đó kỹ thuật thiền và việc kiểm soát thân tâm là
rất quan trọng.
Kỹ thuật hành thiền là tốt và cần
thiết. Nhưng khi đã phát huy được một số năng lực quán chiếu thì bạn
không cần, hoặc thậm chí không nên mất thì giờ tinh luyện bằng cách đè nén
tất cả những gì thô thiển hay khó chịu xảy ra trong tâm. Trái lại, bạn nên
triển khai và phát huy tối đa năng lực quán chiếu và nhạy cảm của
tâm để biết rằng, ngay bây giờ, những điều kiện mà bạn nhận
thức được -- hay nói khác đi, những gì bạn đang cảm xúc,
thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng chạm, và suy nghĩ -- đều là vô thường.
Vô thường là đặc tính chung của
tất cả hiện tượng, cho dù đó là niềm tin vào Thượng Đế hay những hồi
tưởng về quá khứ, những tư tưởng sân hận hay tình cảm thương mến, cao hay thấp,
thô thiển hay vi tế, xấu hay tốt, dễ chịu hay đau đớn. Bất kỳ tính
chất của nó là gì, bạn đang quán sát nó như một sự vật khách
quan. Tất cả những gì bắt đầu rồi sẽ chấm dứt. Đó là vô thường.
Và bây giờ, như một phương pháp hành trì và quán niêïm về cuộc sống, việc khai
mở tâm thức sẽ giúp bạn nhìn thấy rõ tình cảm và tư tưởng, bản chất của sắc
thân, cùng với những đối tượng giác quan của bạn.
Chúng ta hãy trở lại vấn đề ý
thức. Khoa học hiện đại hay khoa học thực nghiệm xem thế giới vật
chất mà chúng ta thấy, nghe và cảm nhận được mới là thế giới có thật. Vì
thế, thế giới khách quan nầy được xem là một thực tại. Chúng ta có thể
trông thấy thế giới vật chất, đồng ý với nhau về tính chất của nó, nghe,
ngửi, nếm, đụng chạm nó, hay thậm chí đồng ý với nhau về cảm nhận hay tên gọi
mà chúng ta dành cho nó. Nhưng phải chăng cảm nhận về thế giới nầy cũng chỉ là
một điều kiện khách quan được sinh khởi trong tâm thức? Vì ý thức tạo
ra cảm tưởng là có chủ thể và khách thể nên khi quan sát về thế giới vật chất,
chúng ta nghĩ là chúng ta đang quan sát một cái gì đó tồn tại bên
ngoài và biệt lập với chúng ta.
Trong khi giảng dạy giáo
lý, Đức Phật đã đẩy quan hệ chủ thể và khách thể đến điểm tận
cùng của nó. Ngài dạy rằng tất cả cảm nhận, tất cả trạng thái khởi lên trong
tâm thức, tất cả tình cảm, tất cả cảm xúc, tất cả đối tượng thế giới vật
chất mà chúng ta nghe và thấy đều thay đổi. Ngài nói, "Những gì có sự
bắt đầu sẽ có sự chấm dứt." Và Đức Phật luôn nhắc đi nhắc lại
rằng đây là một cái nhìn trí tuệ rất quan trọng. Nó giải thoát chúng ta khỏi
tất cả những mê lầm. Những gì có sự bắt đầu sẽ có sự chấm dứt.
Ý thức cũng có thể được định
nghĩa là khả năng thấy biết hay kinh nghiệm của sự thấy biết. Chủ thể thấy
biết khách thể. Khi nhìn vào những sự vật và cho chúng tên gọi, chúng ta nghĩ
là chúng ta biết về chúng. Chúng ta nghĩ là mình biết người nầy hay người nọ vì
chúng ta biết tên của họ hay ghi nhớ họ trong ký ức. Chúng ta nghĩ là chúng ta
biết tất cả mọi việc trên đời vì chúng ta có thể ghi nhớ được
chúng. Nhưng phần lớn, khả năng thấy biết của chúng ta luôn bị giới
hạn -- chúng ta chỉ có thể biết "về" chứ không biết trực tiếp
bản chất của sự vật.
Tu tập trong đạo Phật là an trú
trong sự tỉnh giác thanh tịnh nơi đó có một loại hiểu biết đặc biệt mà
chúng ta gọi là trí tuệ, hay cái thấy biết trực tiếp. Đó là một loại tri
giác không dựa trên cảm nhận, tư duy, lập trường, hay học thuyết, mà chỉ có thể
có qua sự chánh niệm và tỉnh giác. Chánh niệm và tỉnh giác là khả năng không bị
dính mắc vào bất cứ đối tượng nào, dù đó là vật chất hay tinh thần.
Khi không bị dính mắc, tâm sẽ ở trong trạng thái tỉnh thức, hiểu biết, và trong
sáng thuần tịnh. Đó chính là tỉnh giác và chánh niệm. Tâm tỉnh giác là tâm
thanh tịnh, dễ tiếp thu, và nhạy cảm với những gì xảy ra chung quanh. Nó không
còn là cái tâm bị giới hạn, quy định và chỉ biết phản ứng lại với những
lạc thú và đau đớn, lời khen và tiếng chê, hạnh phúc và đau khổ.
Thí dụ nếu bây giờ bạn đang nổi
giận, bạn có thể để cho cơn giận khống chế mình. Bạn có thể cho mình giận
là đúng và tiếp tục nuôi dưỡng tình cảm đặc thù đó, hoặc là bạn
có thể đè nén cơn giận và tìm cách tiêu diệt nó vì bạn sợ hoặc không thích
sự giận dỗi. Tuy nhiên, thay vì chọn một trong hai cách trên, bạn có thể quan
sát cơn giận như một đối tượng khách quan. Và nếu cơn giận là bản ngã thật
sự của bạn, thì bạn không thể nào quan sát nó được; đây chính là ý
nghĩa của những gì mà tôi gọi là "quán tưởng". Cái gì có thể quan sát
và suy tưởng về tình cảm giận? Cái gì có thể theo dõi và xem xét tình cảm, sự
nóng lạnh của thân thể, hay những trạng thái của tâm? Cái có khả năng quan sát
và xem xét nầy chính là tâm quán tưởng hay tâm chánh niệm và tỉnh giác. Tâm của
con người là tâm có khả năng quán tưởng.
SỰ HIỂN LỘ CỦA CHÂN LÝ CHUNG CHO TẤT
CẢ TÔN GIÁO
Chúng ta có thể đặt câu
hỏi: Tôi là ai? Tại sao tôi sinh ra trên đời nầy? Thật
ra đời sống là gì? Điều gì sẽ xảy ra khi tôi chết ? Cuộc sống nầy có mục
đích hay ý nghĩa gì không? Vì chúng ta thường cho là chỉ có người khác mới có
thể trả lời những câu hỏi nầy còn bản thân chúng ta thì mù tịt, nên chúng ta
thường đi tìm lời giải đáp từ bên ngoài thay vì tìm cách tự khai mở tâm thức
của mình và kiên nhẫn chánh niệm nhìn sự thật hiển lộ. Qua việc chánh niệm và
tỉnh giác thật sự, chân lý sẽ được hiển bày. Và sự hiển lộ chân lý nầy
chính là sự giác ngộ về tâm linh. Khi chúng ta dâng hiến đời mình cho một
lý tưởng thánh thiện và sống trọn vẹn trong đó, chúng ta tạo điều kiện cho
chân lý hiển lộ và trí tuệ phát sinh. Đây là trí tuệ sâu sắc và thật sự có khả
năng soi sáng vào bản chất của sự vật. Chân lý hiển lộ không thể diễn tả bằng
lời. Ngôn ngữ không đủ khả năng diễn đạt kinh nghiệm chứng ngộ. Chính
vì thế mà kinh nghiệm chứng ngộ có thể rất khác nhau. Ngôn từ và cách thức
diễn đạt kinh nghiệm chứng ngộ là thay đổi không lường.
Vì thế khi diễn tả bằng lời, kinh
nghiệm chứng ngộ của người Phật tử rất là Phật giáo, của người Ky tô giáo rất
là Ky tô giáo, và điều nầy cũng hợp lý thôi. Không có gì sai trái cả.
Nhưng chúng ta cần chấp nhận giới hạn của quy ước ngôn ngữ. Chúng ta cần hiểu
rằng ngôn ngữ không phải là sự thật tuyệt đối; nó là một cố gắng của
con người để truyền đạt cái thực tại không thể diễn đạt bằng lời nầy đến
người khác.
Theo dõi những người tầm đạo
ngày nay là một điều thú vị. Ở một nước như Anh nơi mà phần đông
dân chúng là Ky tô giáo giờ đây lại trở thành đa tôn
giáo. Tại đất nước nầy, tín đồ của những tôn giáo khác nhau đã nhiều
lần tìm cách gặp gỡ và cố gắng tìm hiểu về đức tin của nhau. Chúng ta có thể
dừng lại ở mức độ đơn giản và chỉ cần biết là người Hồi giáo tin
ở Đấng Allah, người Ky tô giáo tin ở Chúa Jesus Christ và người Phật tử
tin ở Đức Phật Thích Ca. Nhưng điều mà tôi quan tâm ở đây là
làm sao chúng ta có thể vượt lên trên những quy ước và tập tục tôn giáo để
tiến đến sự hiểu biết thật sự hay sự hiểu biết sâu sắc về chân lý tuyệt
đối. Và đây là cách nói của người theo đạo Phật.
Ngày nay chúng ta có dịp cùng
nhau đi tìm chân lý chung cho tất cả tôn giáo; tất cả chúng ta có thể giúp
nhau trong cuộc hành trình nầy. Hình như bây giờ là lúc mà việc tìm cách
thay đổi đức tin của người khác hay tranh giành ảnh hưởng tôn giáo đã
trở thành vô ích và vô giá trị. Thay vì tìm cách thay đổi đức tin của
người khác, tôn giáo cho chúng ta cơ hội để thức tỉnh về bản chất thật sự của
chúng ta, về sự tự do thật sự, lòng từ ái và bi mẫn. Đó là cách sống với tất cả
nhạy cảm và khả năng tiếp thu hầu chúng ta có thể hân hoan và mở rộng con người
của mình để tiếp cận và tiếp nhận những bí ẩn và kỳ diệu của vũ trụ trong suốt
phần còn lại của cuộc đời.
------------------------------
Câu hỏi:
* Đạo
Phật có phải là một tôn giáo hay triết học chỉ tập trung nhìn vào nội tâm con
người?
Trả lời: Mới thoạt nhìn thì hình như là như thế vì trong khi
hành thiền, bạn ngồi xuống, nhắm mắt, và nhìn vào bên trong. Nhưng thật ra,
hành thiền là để giúp bạn thấy và hiểu được bản chất của tất cả sự
vật trên đời.
Như là con người, bạn đang sống
trong một sắc thân rất mỏng manh và nhạy cảm. Thân xác nầy rất yếu ớt và tồn
tại trong cái vũ trụ bao la mà chúng ta không thể nào hiểu
hết được. Chúng ta thường ngộ nhận cho thế giới nầy là một cái
gì đó tồn tại bên ngoài chúng ta. Khi suy nghĩ theo cách nầy, nghĩa là khi
còn phân biệt "bên trong" và "bên ngoài", thì việc nhìn vào
nội tâm hình như không quan trọng bằng nhìn ra bên ngoài. Cái thế giới bên
trong mà bạn sắp đi vào hình như quá nhỏ bé so với cái vũ trụ bao la nằm
bên ngoài.
Nhưng khi buông bỏ những nhận thức
hay những trạng thái tâm, bạn sẽ có những cảm nhận rất mới lạ về vũ trụ nầy. Nó
sẽ trở thành một cái gì đó khác hơn là cái bên ngoài được phân chia
thành chủ thể và khách thể. Chúng ta không có từ ngữ nào khác để mô tả sự
cảm nhận đó ngoại trừ từ "giác ngộ". Sự vận hành của máy thu
thanh (radio) là thí dụ tốt nhất để chúng ta hiểu thêm về hiện tượng nầy.
Thân thể chúng ta nhạy cảm giống như máy thu thanh và thu hình (television).
Những gì đi qua thân và tâm sẽ được thể hiện lại tùy theo
thái độ, nỗi lo sợ và lòng ham muốn riêng của chúng ta. Nhưng khi tâm
chúng ta không còn bị ràng buộc bởi những thái độ và tình cảm nầy, thân
chúng ta sẽ bắt đầu tiếp nhận những làn sóng khác -- làn sóng của trí tuệ
và từ bi.
* Thế thì người Phật tử tin
gì?
Trả lời: Đây là một câu hỏi thông thường nhưng không dễ trả
lời. Nếu nói chúng tôi không có tín điều, người ta sẽ bảo là " Vậy là
ông không tin gì hết." Và nếu nói: "Không, không phải vậy. Chúng tôi
cũng không cho là không có gì hết," thì họ sẽ bảo là, "Vậy thì ông
tin có một cái gì đó; có phải ông tin Thượng Đế
không?" Và nếu trả lời là chúng tôi không thấy cần phải tin
Thượng đế. Thì họ sẽ bảo, "Vậy là ông không tin có
Thượng đế?" Và như thế, chúng ta cứ cãi qua cãi lại vì người đời
thường cho là theo một tôn giáo thì phải tin vào một cái gì đó: tin ở
giáo lý và thái độ hữu thần hay tin ở thái độ vô thần. Đây là hai
thái cực của tâm thức con người -- một là tin vào sự vĩnh hằng, hai là tin vào
sự diệt tận.
Tuy nhiên, bạn không thể dùng những
khái niệm của các tôn giáo khác để hiểu đạo Phật. Chúng ta tiếp cận
với Đạo Phật từ một góc độ khác. Chúng ta không muốn tin vào các
tín điều hay giáo lý mà người khác bảo chúng ta phải tin. Chúng ta muốn tự
mình đi tìm chân lý.
Chúng ta phải tìm ra được sự
thật của các pháp. Nếu không, chúng ta sẽ chỉ là những chúng sinh lạc loài
và bơ vơ trong vũ trụ đầy bí ẩn nầy, không thể nào hiểu được những gì
xảy đến với chúng ta hay hiểu tại sao sự vật xảy ra như nó đang xảy
ra. Có phải sự có mặt của chúng ta trên đời nầy chỉ là một sự tình cờ
hay có một cái gì hơn thế nữa? Loài người cảm thấy rằng có một cái gì cao hơn
và vượt lên trên cõi dục giới nầy. Ở các xã hội sơ khai và hiện đại, chúng
ta bắt gặp tình cảm tôn giáo vận hành như một luồng năng lượng hướng đến một
cái gì đó hay một cố gắng để vươn đến một cái gì cao hơn. Tất cả chúng
ta đều nằm trong cái bí ẩn vô biên đó và chúng ta muốn tìm cách liên
hệ và tiếp cận với nó.
Thế thì chúng ta phải làm gì trong
tư thế của mình -- tư thế bị giam hãm trong tấm thân làm người nầy trong suốt
sáu, bảy, tám, chín chục năm trời? Nếu có chân lý, chắc chắn chúng ta sẽ mở
rộng, tiếp nhận, và hiểu được nó. Trái lại, nếu chúng ta cứ luôn sống
trong ảo tưởng và mê lầm, thì kiếp người nầy quả thật là đáng buồn và
không có mục đích. Nếu không có chân lý, cuộc đời nầy sẽ vô
nghĩa và cho dù bạn làm gì đi nữa, cuộc sống vẫn không có giá trị gì hết.
Mặc dù bạn có thể theo chủ nghĩa hư vô cho rằng cuộc đời nầy chẳng có
nghĩa gì hết, nhưng phải chăng bạn vẫn không tin chắc về điều nầy? Những
gì bạn có thể biết chắc ngay bây giờ là bạn không biết gì về cuộc đời nầy
và đó là tình trạng hiện tại của bạn.
Phải chăng con người có khả năng
hiểu được chân lý? Con người có trí thông minh. Con người có khuynh
hướng đi tìm cái Thiện và cái Mỹ. Ai cũng muốn trốn tránh sự đau khổ
và những điều xấu xa thấp hèn. Con người luôn ước vọng về một cái gì cao
hơn. Chúng ta chán ghét chính bản thân mình khi chúng ta sống đời thấp
hèn, trụy lạc và đáng ghê tởm. Chúng ta cảm thấy xấu hổ khi làm
những điều xấu ác hay hẹp lượng và không muốn ai biết về những gì chúng ta
làm. Nếu quả thật cuộc đời nầy là vô nghĩa thì chúng ta đâu cần phải
xấu hổ? Chúng ta có thể làm bất cứ điều gì và chả cần để ý đến
ai cả. Nhưng chúng ta vẫn cảm thấy là có những việc chúng ta làm
là đáng chê trách hay thiếu sáng suốt nên chúng ta luôn tìm cách vượt lên
trên những thôi thúc bản năng của mình.
Con người có trí thông minh; chúng
ta có thể tư duy về những điều hay ho và cao siêu nhất. Đầu óc chúng ta có
thể nghĩ ra những giải pháp tốt đẹp nhất. Những thể chế dân chủ, chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản -- đây là kết quả của quá trình tư duy cao cấp nhất về
những hình thức nhà nước chính đáng và công bằng nhất. Điều này không có nghĩa
là nhà nước chúng ta đã đạt được mục tiêu lý tưởng nhưng họ đã có cố gắng. Chúng
ta cũng biết thưởng ngoạn những gì tinh tế và đẹp đẽ: cái hay
và đẹp trong âm nhạc, nghệ thuật, và văn chương. Tất cả điều này
nói lên ước vọng của con người về một cái gì đẹp hơn và toàn thiện hơn.
Chúng ta có thể ước mơ về một nhân sinh quan rộng lớn và phổ biến hơn: một
trái đất, một hệ thống sinh thái, và một gia đình chung cho toàn nhân
loại. Ngày nay, những nhận thức nầy ngày càng trở nên phổ biến. Về nhiều mặt,
nhân loại ngày nay đang trở thành một đại gia đình: những gì xảy ra ở
Mông Cổ hay Argentina (Nam Mỹ) đều ảnh hưởng đến toàn thế giới.
Chúng ta có thể mở rộng khả năng
thấy biết của mình, từ cái nhìn cá nhân hạn hẹp trong đó chúng ta chỉ biết
có mình đến cái nhìn toàn cầu. Với cái nhìn mới nầy, chúng ta mở rộng và
tiếp nhận tất cả loài người vào trong gia đình của chúng ta thay vì chỉ có
gia đình và quốc gia riêng của mình. Khi tâm thức được khai mở, nhận
thức và tư tưởng chúng ta sẽ từ ái và bi mẫn hơn và vượt lên trên tình cảm cá
nhân ích kỷ. Chúng ta sẽ không chỉ lo cho gia đình, tập thể, giai cấp, hay
chủng tộc của chúng ta. Chúng ta sẽ mở rộng tâm thức để tiếp nhận tất cả
loài người và rồi tất cả chúng sinh. Tâm chúng ta sẽ phủ trùm tất cả và trở
thành vô biên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét