Ajahn Sumedho
PHẦN II - TÂM TỈNH THỨC
CHƯƠNG 8
HÀNH THIỀN
Trong khi hành thiền, thái độ
của thiền sinh rất là quan trọng, quan trọng hơn cả kỹ thuật hay pháp môn
thiền. Có thái độ đúng đắn trong lúc hành thiền là điều quan trọng
nhất. Cho dù vị thiền sư hướng dẫn bạn là người giỏi nhất, có pháp môn nổi
tiếng nhất, và có những kỹ thuật thiền thiện xảo nhất, nhưng nếu bạn không có
thái độ đúng đắn trong lúc hành thiền, bạn sẽ không thể nào tiến
bộ được.
Nhiều người hành thiền với
thái độ mong cầu là họ sẽ đạt được một cái gì đó hay đạt đến một
cảnh giới nào đó. Điều nầy không đáng ngạc nhiên vì thái độ của những
người phàm phu như chúng ta là luôn nhắm đến sự thành đạt. Xã hội và trường học đã
huân tập chúng ta nhìn cuộc đời như là môi trường trong đó chúng ta
phải phấn đấu để thành đạt hay trở nên một cái gì đó. Trên bình
diện thế gian, đây là một điều tự nhiên và dễ hiểu. Chúng ta
phải đi học để biết đọc và biết viết. Chúng ta phải làm đủ mọi việc
để trở nên một cái gì đó hay đạt một cái gì đó, nhưng giác ngộ (Niết
Bàn) không phải là cái mà chúng ta có thể nắm bắt hay thành đạt . Đây
là một điều khó hiểu. Và chúng ta không thể dùng trí thức đễ hiểu được
điều nầy vì tự bản chất, trí thức luôn gắn liền với tư duy hướng về sự
thành đạt hay tư tưởng làm sao để thành tựu một cái gì đó.
HÀNH THIỀN VỚI TÂM KHÔNG MONG CẦU
Những từ như "Dhamma"
(Pháp), hay "Nibbana" (Niết Bàn) không thể nào dịch sang một
ngôn ngữ khác được vì chúng ta không thể giải thích Dhamma hay Nibbana bằng
lý luận và khái niệm: Chúng là những kinh nghiệm chứng ngộ chứ không phải là
những sự vật cụ thể. Trong tiếng Anh, từ tốt nhất mà chúng ta có thể dùng là
"ultimate reality" hay "sự thật tuyệt đối." Dhamma (Pháp)
và Nibbana (Niết Bàn) là những gì chúng ta nhận thức và chứng
ngộ được chứ không phải là những gì chúng ta có hay đạt được.
Khi hành thiền, tâm chúng ta hướng
về Niết Bàn chứ không nhắm đến việc đạt những tầng ý thức sâu và cao hơn.
Chúng ta có thể sử dụng nhiều kỹ thuật hành thiền để đạt đến những tầng ý
thức sâu và cao hơn, nhưng đối với Niết bàn, không có giai đọan, thứ
lớp, hay cái gì để thành đạt cả. Đối với Niết Bàn, sẽ không có
quá trình phát triển hay tiến bộ vì Niết Bàn là một trạng thái giác ngộ chứ
không phải là cái gì để nhắm đến.
Sở dĩ nhiều người gặp khó khăn trong
lúc hành thiền vì họ vẫn mang theo cái tâm của người đời thường. Về bản
chất, tâm người đời thường là tâm luôn luôn đi tìm kiếm và mong
cầu một cái gì đó. Thậm chí có những người đã hành thiền nhiều
năm nhưng trong lúc ngồi thiền, họ vẫn bị thiêu đốt bởi khát vọng muốn
hiểu "Họ là ai? Họ là cái gì? Họ sống để làm gì?" Đức Phật không
dạy chúng ta về mục đích của cuộc đời nầy. Trái lại, Ngài chỉ hướng
dẩn chúng ta tiến đến sự giác ngộ hoàn toàn. Vì thế, trong lời dạy cơ bản
về Tứ Diệu Đế, Ngài chỉ cho chúng ta thấy tất cả là vô ngã, chứ không
tuyên bố chúng ta là ai và bản chất thật sự của chúng ta là gì. Mà ngay cả
nếu Đức Phật có nói rõ ràng và chính xác chúng ta là ai đi nữa, chúng
ta cũng sẽ không thể nào hiểu được điều nầy, trừ khi chúng ta hành thiền
và tự chúng ta chứng ngộ.
TẤT CẢ LÀ VÔ NGÃ
Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy rằng
tất cả mọi vật trên đời nầy là vô ngã. Trong tiếng Pali, từ "tất cả mọi
vật" nầy chính là năm khandhas, mà chúng ta có thể dịch là năm nhóm, năm
hợp thể, hay năm uẩn. Năm uẩn nầy là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Chúng ta
không là gì hết ngoại trừ năm uẩn nầy và "cái không là gì hết nầy"
chính là cái mà chúng ta gọi là anatta hay vô ngã. Tất cả những gì bạn có thể
nhận thức, thấy, và biết được qua năm giác quan, hay những gì bạn có thể
dùng đầu óc để suy nghĩ -- nói khác đi tất cả những hiện tượng
vật lý và tâm lý sinh ra rồi mất đi -- đều được bao gồm trong năm
uẩn. Năm uẩn nầy bao gồm cái vũ trụ mà chúng ta có thể thấy và biết được
qua sáu giác quan của chúng ta
Năm uẩn bao gồm thân thể của chúng
ta. Cơ thể vật lý của chúng ta là do trái đất nầy tạo ra và tồn
tại được là nhờ vào tất cả những gì mà trái đất nầy sản
sinh. Chúng ta sống nhờ vào những thức ăn đến từ thiên nhiên, và khi
cơ thể nầy mạng chung, bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa lại trở về thế giới
tự nhiên. Thấy được thân thể chúng ta như một bộ phận nhỏ trong một
quá trình tự nhiên vĩ đại nầy là một cách để nhận thức được sự vô
ngã, để thấy là cơ thể vật chất nầy không có tự ngã độc lập của nó.
Theo cái nhìn chế định hay tục
đế, dĩ nhiên, thân thể nầy là "cái ngã" của chúng ta. Khi tôi nói về
tôi, tôi nói về thân thể nầy; tôi không nói về một cái gì khác ngoài tôi. Nhưng
khi xem xét và quán tưởng thân thể của chúng ta, chúng ta sẽ tự mình thấy và
hiểu được chân lý vô ngã. Chúng ta sẽ không còn lầm lạc cho thân thể, cảm
giác, nhận thức, khát vọng, và ý thức nầy chính là chúng ta. Chúng ta biết một
cách rõ ràng, hoàn toàn, và không nghi ngờ gì nữa là không có một thực thể tồn
tại độc lập được gọi là tôi hay ta mà chỉ có sự vận hành của năm
uẩn. Nói khác đi, tất cả đều không có tự ngã. Đây chính là sự giác
ngộ hoàn toàn, và chúng ta hành thiền là để có sự giác ngộ nầy.
PHÁP HỮU VI VÀ PHÁP VÔ VI
Giáo lý của Đức Phật rất đơn
giản vì Đạo Phật xem tất cả càn khôn vũ trụ hay vạn pháp được chia
làm hai: pháp điều kiện và pháp không điều kiện. Pháp điều
kiện hay pháp hữu vi là pháp sinh rồi diệt. Pháp điều kiện gồm tất cả
những gì chúng ta thấy và biết được qua sáu giác quan, qua sự tiếp xúc của
cơ thể, cảm thọ, tư tưởng, và trí nhớ. Chúng là những điều kiện hay duyên;
chúng bắt đầu rồi chấm dứt, sinh rồi diệt. Trong tiếng Pali, từ sankhara hay hành (các
pháp do các điều kiện hay duyên hợp lại và tạo thành) được
dùng để chỉ các pháp điều kiện hay pháp hữu vi. Sankhara bao
gồm tất cả những gì sinh rồi diệt, cho dù đó là vật chất hay tâm. Chúng ta
không nên thắc mắc nghi vấn là các pháp được sinh ra ở đó hay ở đây, các
pháp sinh rồi diệt trong chớp mắt hay trong nhiều đời nhiều kiếp. Trong
khi hành thiền, vấn đề nầy không quan trọng và sẽ không có sự khác biệt
nào cả vì tất cả pháp hữu vi đều bị giới hạn bởi thời gian.
Pháp không điều kiện hay pháp
vô vi là cái mà phần lớn chúng sinh đều không nhận thức được. Lý do
chính là vì họ vẫn mãi mê trong các pháp điều kiện hay pháp hữu
vi. Muốn nhận thức hay chứng ngộ được pháp không điều kiện chúng ta
phải dứt khoát và triệt để buông bỏ các pháp điều kiện.
Các pháp không điều kiện giống
như không gian trong một căn phòng. Khi bạn bước vào một căn phòng, bạn chú
ý đến phần không gian hay khoảng trống của căn phòng hay bạn bị thu hút
bởi những đồ đạt trong phòng? Dĩ nhiên, bạn sẽ chú ý đến bức tường,
cửa sổ, con người, bàn ghế, màu sắc, và các đồ vật trang trí. Nhưng không
gian của căn phòng thì ít ai nhận thấy mặc dù nó luôn có mặt ở đó. Và
khi bận lo ngắm nhìn người và đồ vật trong phòng, chúng ta sẽ không thể
nào ghi nhận được khoảng không gian trong phòng. Chỉ khi nào chúng ta
buông bỏ tất cả những tư tưởng, lời nói, lo toan, và tưởng tượng, thì
lúc đó chúng ta mới có thể ý thức và nhận ra được không gian trong
căn phòng. Khi để tâm chú ý đến nó, chúng ta sẽ thấy rằng không gian
là rất bình yên và bao la. Ngay cả bức tường của căn phòng cũng không thể chia
cắt được không gian ấy.
Tâm chúng sanh cũng như thế ấy. Tâm
là vô biên và vô hạn; nó có thể chứa đựng tất cả mọi vật. Nhưng chúng
ta lại tự trói buộc mình vào những điều kiện hữu hạn của tâm như tư tưởng,
quan điểm, và ý kiến. Tâm luôn có chỗ dành cho mọi lý thuyết, ý kiến, và
quan điểm; Tất cả những cái nầy là những điều kiện sinh rồi
diệt, và không có cái nào là trường tồn và vĩnh cửu. Do đó, tâm luôn có
chỗ cho tất cả mọi người và mọi vật, cho tất cả tôn giáo, quan điểm chính
trị, tư tưởng, và tất cả loại người. Nhưng con người luôn muốn kiểm soát, giới
hạn, và tuyên bố: "Chỉ có những người nầy mới được chấp nhận, còn
những người kia không có quyền ở đây." Trong quá trình sở hữu,
chiếm đoạt, và bám víu, chúng ta tự trói mình vào những điều kiện và
chính những điều kiện nầy sẽ dẫn chúng ta đến chỗ diệt tận và phiền não.
Bất cứ cái gì mà chúng ta hy vọng và
mong đợi, nếu chúng ta bám víu vào chúng, sẽ đưa chúng ta đến chỗ
thất vọng và sầu não. Lý do chính là những gì mà chúng ta bám víu và dính
mắc đều sinh rồi diệt. Không có cái gì được sinh ra mà sẽ tiếp
tục sinh ra mãi mãi; nó có thể sinh ra và tồn tại trong một thời gian
nào đó nhưng rồi sẽ hoại diệt. Vì thế nên khi bạn bám víu vào bất
cứ điều kiện nào đang sinh khởi, chắc chắn nó sẽ đi cùng với
bạn đến chỗ hoại diệt. Khi bạn bám víu vào cái gì đang sinh khởi
như thân thể của bạn hay bất cứ điều kiện tự nhiên nào, nó sẽ đưa bạn đến
chỗ diệt tận. Và vì thế, sự hoại diệt hay sự chết là điểm cuối cùng
của cái được sinh ra, và nỗi tuyệt vọng sầu não là mặt trái của niềm hy
vọng và mong đợi.
Khi một cái gì đó bắt đầu trở
nên khó chịu hay bất toại nguyện, chúng ta có khuynh hướng chạy đi tìm
một điều kiện khác, đang sinh khởi và thoải mái hơn. Điều nầy khiến cho
cuộc sống của con người trở thành một cuộc tìm kiếm và săn đuổi không ngừng
chạy theo những khoái lạc, những mối tình lãng mạn, và những cuộc phiêu lưu đầy
mạo hiểm. Con người luôn luôn chạy theo những gì hấp dẫn và lý thú, làm cho họ
mê đắm và trốn chạy khỏi những gì đối nghịch lại họ. Chúng ta
trốn tránh sự nhàm chán, tuyệt vọng, già, bệnh, và chết vì đây là
những điều kiện mà chúng ta không muốn xảy đến cho chúng
ta. Chúng ta muốn chạy trốn, quên bẵng đi, và không để ý đến
chúng.
Nhưng trong khi hành thiền,
thái độ chính là sự chấp nhận, nhẫn nhục và nhẫn nhục đến tận cùng
với những điều kiện, cho dù những điều kiện nầy đang trở nên khó chịu
và nhàm chán. Nếu chúng ta luôn muốn đi tìm một cái gì đó lý thú và
hấp dẫn hơn, chúng ta sẽ tiếp tục đi vòng vòng. Đây chính là vòng luân hồi
sinh tử (Samsara) mà Đức Phật đã chỉ ra cho chúng ta.
QUÁN SÁT CÁI BÌNH THƯỜNG
Khi ghi nhận những điều kiện
của thân và tâm như là những điều kiện tự nhiên đang xảy ra, chúng ta
chỉ đơn thuần ghi nhận. Chúng ta không phân tích hay cố gắng làm một cái
gì khác ngoài việc ghi nhận. Đó chỉ là sự ghi nhận giản đơn và trần trụi, sự
thấy biết trực tiếp rằng những gì sinh sẽ diệt. Để biết được như thế đòi hỏi
chúng ta phải kiên nhẫn; nếu không thì ngay lúc mà sự lo sợ, sân hận, hay cảm
giác khó chịu xuất hiện, chúng ta sẽ tìm cách chạy tránh nó ngay lập tức. Vì
thế khả năng hành thiền cũng chính là khả năng chịu đựng và sống với những gì
khó chịu và bất toại nguyện. Chúng ta không chủ tâm đi tìm sự khó chịu và
bất toại nguyện; chúng ta cũng không muốn làm những nhà tu khổ hạnh ép
xác đi tìm những cảm giác đau đớn để chịu đựng và chứng tỏ mình là
một cái gì đó. Trong thiền định, chúng ta chỉ đơn thuần ghi nhận mọi việc
xảy ra như nó đang xảy ra trong giây phút hiện tại.
Đức Phật dạy chúng ta hành thiền
trên những việc bình thường, chứ không phải trên những gì khác thường và xa lạ.
Thí dụ như một trong những kỹ thuật hành thiền Đức Phật dạy là quán niệm
hơi thở (tiếng Pali là anapanasati) hay quán niệm hơi thở vào và
hơi thở ra bình thường của con người. Có những kỹ thuật khác như thiền trong tư
thế ngồi, đứng, đi, hay nằm. Đây là những kỹ thuật hành thiền dựa
trên những sự việc hết sức bình thường, thậm chí rất dễ nhàm chán. Khi hành
thiền trên những điều kiện bình thường nầy, chúng ta phải kiên nhẫn vô
hạn; Lúc đó, công việc duy nhất của chúng ta là chánh niệm trên hơi
thở vào và hơi thở ra. Chúng ta không làm gì hết ngoài việc chánh niệm trên
những gì đang xảy ra trong hiện tại -- với thân đang ngồi, đứng,
đi, hay nằm.
Trạng thái tâm thức như thế rất khác
với những gì chúng ta quen làm thường ngày phải không các bạn? Trong đời
thường, khi ngồi xuống, chúng ta thường không ghi nhận là chúng ta đang
ngồi. Chúng ta có thể ngồi xuống rồi nằm lăn ra đó vì mệt lã, hay có thể
ngồi và đọc sách báo, ngồi và hút thuốc, ngồi và ăn uống, hay ngồi và
nói chuyện. Trong khi ngồi, chúng ta luôn làm một cái gì đó. Trong
những tư thế khác, chúng ta cũng làm tương tự như thế. Khi nằm xuống, chúng ta
ngủ quên đi lúc nào cũng không biết. Chúng ta đi mà không biết
mình đang đi, đứng cũng không biết mình đang đứng, và ngồi cũng không
biết mình đang ngồi, vì thế chúng ta không bao giờ thật sự thấy và biết
những gì gần gũi nhất với chúng ta đang xảy ra trong hiện tại. Đầu óc
chúng ta cứ lo nghĩ là bây giờ phải làm gì để đạt được những gì chúng ta mong
muốn trong tương lai, và quá trình lo nghĩ nầy cứ kéo dài vô tận. Ngay cả
khi đã đạt được những gì chúng ta mong muốn, chúng ta chỉ bằng lòng
tạm thời rồi lại bắt đầu nghĩ đến một cái gì khác để chiếm đoạt và
thành đạt trong tương lai. Thế là chúng ta lại tiếp tục quá trình toan
tính và lo nghĩ không bao giờ chấm dứt nầy.
QUÁN SÁT SỰ VẬN HÀNH CỦA THAM ÁI
Tôi nhớ khi còn là một cậu bé nhỏ,
tôi thấy một món đồ chơi và đã nói với mẹ tôi, "Nếu mẹ mua cho
con đồ chơi đó, con hứa là sẽ không bao giờ đòi mua đồ chơi
nữa." Lúc đó, tôi thật sự tin là nếu có được món đồ chơi
đó, tôi sẽ hoàn toàn thỏa mãn và sung sướng và sẽ không đòi hỏi bất cứ cái
gì khác! Vì thế mẹ tôi mua cho tôi món đồ chơi đó. Tôi nhớ là đã
chơi món đồ chơi đó được ít lâu nhưng sau đó, tôi đã quăng bỏ nó qua một
bên, và lại đi tìm một đồ chơi khác mà tôi thích. Tôi nhớ rõ là lúc
mẹ tôi mua món đồ chơi cho tôi, tôi tin chắc chắn là tôi sẽ hoàn toàn thỏa
mãn và sẽ không bao giờ muốn cái gì khác nữa -- nhưng tôi cũng nhớ rỏ là
tôi đã không thỏa mãn như tôi nghĩ. Mặc dù tuổi còn nhỏ, kinh nghiệm
nầy đã ghi một dấu ấn trong đời tôi và đến ngày nay, tôi vẫn còn
nhớ bài học nầy: mặc dù tôi đã được những gì tôi muốn, nhưng chính sự
kiện là tôi đã có được những gì tôi muốn đã mang theo nó niềm
thất vọng. Tôi thất vọng vì sau đó, tôi lại phải lo đi tìm một cái gì
khác để thỏa mãn mình.
Trong khi hành thiền, chúng ta quán
sát sự vận động của tham ái nhưng không phán đoán hoặc chống lại tham
ái. Có người cho là tất cả tín đồ Phật giáo đều chống lại và tìm cách
triệt tiêu tham ái, nhưng Đức Phật không dạy chúng ta triệt tiêu tất cả
hay biến tất cả thành hư vô. Đức Phật dạy chúng ta tỉnh thức. Chúng
ta không bát bỏ hay tiêu diệt tham ái. Chúng ta quán tưởng tham ái và hiểu rằng
nó chỉ là một điều kiện được sinh ra rồi diệt đi trong thế giới tự nhiên
nầy.
Tham ái có cái tốt, cái xấu. Tham
giết người, tham hãm hại người khác, và tham trộm cướp là xấu; tất cả chúng ta
trong đời ai cũng đã từng có những tham ái xấu. Và chúng ta cũng có những
tham ái tốt như mong muốn được giúp người, muốn sống tử tế và muốn trở
thành thiện tri thức. Bất cứ lúc nào chúng ta nhận thức được tham
ái -- cho dù đó là tham ái tốt hoặc xấu -- chúng ta đang sử dụng
trí tuệ của mình. Chỉ có trí tuệ mới thấy được tham ái; tham ái không thể
thấy được trí tuệ. Vì thế muốn có trí tuệ, bạn hãy biết và thấy tham ái.
Quan sát sự vận hành của tham ái giúp chúng ta thấy được nó như là
một điều kiện không ngừng thay đổi. Và chúng ta thấy rằng tham ái là vô
ngã.
TRÍ TUỆ CỦA CHƯ PHẬT
Trí tuệ là cái mà chúng ta sử dụng
trong khi hành thiền. Nó không phải là cái chúng ta mong đạt
được. Tính chất của trí tuệ là nhún nhường và khiêm hạ; nó không phải là
cái gì cao siêu và xa rời thực tế. Công năng của trí tuệ rất đơn giản. Nó
chỉ cần thấy và biết là những gì sinh sẽ diệt và không có tự ngã. Nó biết là có
những tham ái đang đi qua tâm chúng ta như vậy, thế thôi -- biết tham
ái là tham ái, tham ái không phải là chúng ta. Người có trí tuệ là người biết
sống như một người nam, người nữ, một tỳ kheo, tỳ kheo ni, một Phật tử, một
tín đồ Thiên chúa giáo, hay là ai khác đi nữa, với tất cả những thực
tế chế định kèm theo như giới tính, vai trò xã hội, đẳng cấp xã hội
v.v…nhưng người đó hiểu rằng tất cả những thực tế nầy chỉ là những cái mà
con người chế đặt ra. Trí tuệ giúp chúng ta thấy rằng những thực tế chế
định nầy không phải là sự thật tuyệt đối và từ đó chúng ta sẽ không
còn bị chúng mê hoặc nữa.
Trí tuệ biết rằng pháp hữu vi là
pháp hữu vi và pháp vô vi là pháp vô vi. Chỉ đơn giản thế thôi. Bạn chỉ cần
biết hai điều: pháp hữu vi và pháp vô vi. Khi hành thiền, bạn không nên
nhắm để thành đạt cái gì cả. Bạn chỉ nên mở rộng và hướng tâm về việc
hành thiền. Khi bạn chợt nhận ra là mình đang ngồi thiền với tâm mong cầu
một cái gì đó, đó cũng là một sự chứng ngộ. Khi hành thiền với tâm ở
rộng, bạn sẽ thấy những gì đang thật sự xảy ra. Nhưng nếu bạn ngồi
thiền suốt năm với ý đồ sẽ trở thành một cái gì đó hay đạt được một cái
gì đó, bạn chắc chắn sẽ thất vọng. Nếu không có thái độ đúng đắn
trong lúc hành thiền, bạn sẽ phí công vô ích vì cuối cùng bạn vẫn không có trí
tuệ để học hỏi từ những lỗi lầm của mình.
Trong khi hành thiền, chúng ta rút
ra những bài học về thành công và thất bại. Con người thường thất bại nhiều hơn
là thành công. Chánh niệm trên hơi thở vào và hơi thở ra là một trong những
phương pháp hành thiền dễ làm cho chúng ta chán nản nhất. Vì nếu chúng ta mong
cầu một cái gì đó, phương pháp hành thiền nầy sẽ không mang lại cho chúng
ta gì hết. Bạn phải kiên nhẫn. Bạn phải học từ những thành công và thất bại,
cho đến khi nào bạn không còn thật sự quan tâm là mình có được an vui
và thoải mái trong lúc hành thiền hay không. Lúc đó, cả hai điều kiện
nầy -- an vui thoải mái và không an vui thoải mái -- sẽ đưa bạn đến
sự giác ngộ hay giải thoát Niết Bàn.
***
------------------------------
Câu hỏi:
* Xin
Sư giải thích về sự xuất hiện của ánh sáng trong lúc hành thiền. Đó là một
chướng ngaị hay một dấu hiệu tốt?
Trả lời: Bản thân sự xuất hiện của ánh sáng
trong lúc hành thiền không phải là một chướng ngại. Chỉ khi chúng ta chấp vào
nó như là của ta, lúc đó nó mới trở thành chướng ngại. Thật ra,
thấy được ánh sáng là một dấu hiệu tích cực nhưng nó sẽ trở thành chướng
ngại khi chúng ta diễn giải về nó. Trong khi hành thiền, nếu có những hiện
tượng lạ và khác thường xảy ra, chúng ta chỉ nên xem đó là dấu hiệu của sự
vô thường. Chúng ta nên niệm như sau, "Những gì bắt đầu sẽ chấm
dứt. Những gì sinh khởi sẽ hoại diệt" thay vì nghĩ, "Ồ,
tôi đã thấy được ánh sáng, tôi đã thanh tịnh, tôi đã chứng
ngộ được một cái gì đó."
Trong năm đầu tiên hành thiền ở Nong
Khai, Thái Lan, tôi đã xuất gia và mặc y nhưng không có sư hướng dẫn. Tôi
ở trong một thiền viện Thái nhưng không nói được tiếng Thái và ở đó
không ai nói được tiếng Anh. Tôi chỉ có một quyển sách dạy thiền bằng
tiếng Anh và hàng ngày tôi thực hành theo lời chỉ dẫn trong sách một cách cẩn
thận và kỷ lưỡng. Đó là quyển sách cơ bản về giáo lý Phật giáo nguyên thủy và
rất hữu ích đối với tôi. Khi hành thiền ở đó, tôi thường đi vào
những trạng thái hỷ lạc cao độ và xuất trần. Tôi thấy ánh sáng và khi hành
thiền, tôi cảm thấy cực kỳ khinh an và hỷ lạc. Lúc đó, dựa trên những kinh
nghiệm khinh an và hỷ lạc này, tôi nghĩ là mình đã chứng ngộ một cái
gì đó. Tôi nhớ có lần tôi cho là mình đã giác ngộ hoàn toàn và
nghĩ, "Ồ, thì ra tu tập để thành tựu giác ngộ viên mãn cũng không mất
nhiều thì giờ lắm. Mình đã nghĩ là phải tu tập vất vả trong nhiều năm mới
giác ngộ, nhưng chỉ sau mấy tháng tu tập ở đây thôi mà đã thành tựu như
thế nầy rồi." Lúc đó, tôi tin chắc là tôi đã hoàn toàn giác ngộ.
Sau thời gian tu tập ở thiền viện xa
xôi và biệt lập đó, tôi phải trở lại Bangkok. Trên đường đi xe
lửa về đến Bangkok, tôi thấy toàn bộ con người giác ngộ lúc trước của tôi bị
sụp đổ hoàn toàn, và lúc đó tôi chỉ là một người Mỹ đầy bấn loạn
đang đi lang thang giữa đường phố Bangkok. Tôi thất vọng nặng nề. Tôi cứ
tưởng là mình sẽ tỏa sánh sáng giác ngộ cùng khắp thành phố khi về đến
Bangkok. Nhưng ngược lại, lúc đó con người tôi đang tỏa ra những năng
lượng không mấy gì cao đẹp cho lắm!
Năm sau đó, tôi tìm đến tu viện
của ngài Ajahn Chah và trình bày cho ngài nghe về những kinh nghiệm nầy, ngài chỉ
khuyên, "Con thấy không, đó chính là sự dính mắc. Đừng dính mắc, hãy
buông bỏ đi." Và tôi bắt đầu ý thức là mình đã dính mắc với
những kinh nghiệm khinh an và hỷ lạc nầy; Tôi kiểm nghiệm lại là trong khi ngồi
thiền, tôi luôn có khuynh hướng đi tìm lại những trạng thái hỷ lạc và
khinh an nầy. Tôi cho những kinh nghiệm hỷ lạc và khinh an nầy chính là cái mà
tôi cần. Tôi nhớ lại năm đầu tiên là năm mà tôi có tất cả những tri kiến và
kinh nghiệm chứng ngộ lạ lùng và lý thú nầy -- nhưng qua năm thứ hai, tôi đã
không thành đạt gì hết. Ngược lại, trong năm thứ hai, tôi chỉ có sự đau
nhức về thân thể, suy sụp tinh thần và niềm tuyệt vọng. Tôi bèn xoay qua thực
hành phép tu khổ hạnh. Tôi cật lực hành thiền và cố gắng làm những gì mà
tôi đã làm trong năm đầu tiên với hy vọng sẽ tìm lại được những trạng
thái khinh an và hỷ lạc ngày trước, nhưng công phu nầy vẫn không mang lại kết
quả nào. Mà thật ra, chính lúc đó, cái mà tôi phải làm là quên
phứt đi những kinh nghiệm khinh an và hỷ lạc của năm đầu tiên nầy.
Thật ra, những gì xảy đến với
tôi trong năm đầu tiên không có gì là sai lầm cả. Chỉ có sự diễn giải của tôi
về kinh nghiệm nầy là xuất phát từ cái nhìn tự ngã và khi nhớ về những kinh
nghiệm nầy, tôi cảm thấy quá dễ chịu và thoải mái nên tôi khởi tâm mong cầu tìm
lại những thoải mái và dễ chịu nầy. Giờ đây tôi hiểu rằng sở dĩ tôi có
những kinh nghiệm xuất trần trong năm đầu tiên là vì những kinh nghiệm nầy
không đến từ ký ức; Chúng đến một cách tự nhiên. Trước đây,
tôi chưa bao giờ cảm nhận được chúng hay có những kinh nghiệm khinh an và hỷ
lạc như thế, nên chúng rất mới lạ đối với tôi. Chúng đến với tôi
một cách tự nhiên như chính bản chất của chúng, thế thôi. Tôi không thể
chế đặt hay tạo tác ra chúng. Nhưng sau đó, khi hồi tưởng lại
những kinh nghiệm nầy, tôi muốn tái tạo chúng, và điều nầy không thể nào
thực hiện được.
Từ kinh nghiệm đó, tôi hiểu là
trong lúc hành thiền, thấy được ánh sáng hay có được những tri kiến sáng
suốt không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng trong lúc hành
thiền là làm sao phát triển tâm chánh niệm, chấp nhận những giới hạn của mình,
và sống nhu thuận theo dòng chảy của cuộc đời -- thay vì đi tìm cầu những
kinh nghiệm say sưa và xuất trần. Tôi đã thay đổi thái độ khi gặp
ngài Ajahn Chah. Thay vì đi tìm những kinh nghiệm hỷ lạc xuất trần và
những kinh nghiệm tâm linh cao cấp xa xôi nào đó, tôi tập chấp nhận cuộc
sống bình thường hàng ngày -- cuộc sống đầy nóng bức và muỗi mòng.
Với tâm chánh niệm và sự chấp nhận,
bạn sẽ thấy rằng cái ánh sáng thật sự chính là khả năng tiếp cận và vận hành
với trí tuệ. Bạn sẽ nhận ra rằng thấy được rõ ràng mọi sự vật trong cuộc
sống đời thường như chính nó mới chính là tâm giác ngộ. Tâm giác ngộ không
phải là một loại ánh sáng đến từ bên ngoài rồi chiếu sáng lên trong bạn.
Lúc đó, với tâm giác ngộ, bạn chính là ánh sáng và ánh sáng chính là bạn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét