Ajahn Sumedho
PHẦN III - SỐNG ĐẠO
CHƯƠNG 16
CON NGƯỜI VÀ ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH
Hiện nay lịch sử loài
người đang ở giai đoạn mà hình như toàn bộ cơ cấu và nền tảng xã
hội đang trên đà sụp đổ. Chúng ta đã từng cảm nhận sự
ổn định của đời sống gia đình và cho rằng gia đình là nền tảng xã
hội. Nhưng hiện nay, dường như ngay cả bản chất và mục đích của gia đình
cũng đang bị đả kích, và con người đang bối rối không biết phải làm
gì trước tình hình nầy. Xã hội đang đặt lại vấn đề, "Mục đích của gia
đình là gì? Gia đình có đáng được khôi phục lại không? Có nên
tìm cách cải thiện và phát huy đời sống gia đình không? Hay gia đình
là cái đã lỗi thời mà chúng ta không cần nữa? Những điểm mạnh và yếu
của gia đình là gì? Đây là tất cả những vấn đề chúng ta cần suy ngẫm.
Tôi không muốn đưa ra một mẩu
gia đình lý tưởng mà mọi người nên theo đó mà sống. Tôi cũng không muốn
khuyên bạn phải làm gì như một thành viên trong gia đình hay bạn phải xây
dựng gia đình như thế nào. Làm như thế là chủ quan và áp đặt. Là
tu sĩ Phật giáo, tôi không phải sống với những áp lực và đòi hỏi của một
gia đình bình thường. Nhưng là thiền sư, tôi thường được các thiền
sinh tin tưởng và chia sẻ những cảm nghĩ của họ về vấn đề nầy. Điều
nầy đã giúp tôi có một cái nhìn đặc thù về những vấn đề và kinh nghiệm của các
gia đình mà tôi được biết. Vì thế, tôi muốn trình bày với các bạn những suy
nghĩ của riêng tôi về các vấn đề liên quan đến gia đình.
CÁ NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Hiện nay, chúng ta có xu hướng quan
tâm đến cuộc sống cá nhân riêng lẻ hơn là cuộc sống gia đình. Đây là
thời đại mà trong đó chủ nghĩa cá nhân được nhấn mạnh đến độ gần như phi lý.
Khả năng để chúng ta phát triển thành những cá nhân riêng lẻ trong thế giới
ngày nay là nhiều và đa dạng đến độ làm chúng ta sửng sốt phải không các
bạn? Mỗi người đều được thả lỏng để trở thành một người tự lập và độc
lập. Xã hội khuyến khích chúng ta phải có cá tính, phát huy sự sáng tạo,
và phát triển cuộc sống bằng cách nào cũng được để trở thành những cá nhân
tự do. Chúng ta có thể làm bất cứ điều gì theo sở thích riêng mà không
cần để ý đến sự bằng lòng hay không của gia đình.
Tuy nhiên, việc ngợi ca và biến chủ
nghĩa cá nhân thành một đích tối hậu của đời người đang trở thành một vấn
nạn. Nó khuyến khích và nuôi dưỡng một cuộc sống mất phương hướng, bệnh hoạn,
và vô nghĩa. Thật ra, được sống như một người tự do -- nghĩa là một
cá nhân có thể làm bất cứ điều gì theo ý muốn -- có thể mang lại cho chúng
ta những khoảnh khắc dễ chịu nào đó, và chúng ta có thể thưởng thức sự dễ
chịu đó bằng nhiều cách. Nhưng đến một lúc nào đó, chúng ta
sẽ cảm thấy thật buồn nãn vì không thể thật sự liên hệ, gắn liền, chia sẻ hay
phục vụ bất cứ ai khác ngoài chính mình. Trong tất cả chúng ta, cả nam lẫn nữ,
ai cũng có một ước mơ thầm kín nào đó nhằm chia sẻ đời mình cho người
khác. Tất cả chúng ta đều có ước mong hy sinh hay hiến dâng bản thân mình
cho một người khác hay sống cho một lý tưởng, một sự nghiệp nào đó, hay
cho một cái gì đó nằm ngoài và vượt lên trên cá nhân mình.
Đi tu là để hiến dâng cuộc đời --
cho Phật Pháp, cho Thượng đế, hay cho bất cứ chân lý tối thượng của một
tôn giáo nào đó. Mục đích của việc xuất gia là để hiến dâng
hoàn toàn cuộc đời của chúng ta. Chúng ta buông bỏ tất cả ham muốn
lợi lạc cá nhân hay danh vọng để trở thành một tu sĩ có đức hạnh, và
hoàn toàn hiến dâng cuộc đời cho Phật, Pháp và Tăng.
Trong khi đó, mục đích lý tưởng
của gia đình là để cho một người nam và một người nữ cùng sống chung nhau
và cống hiến cuộc đời cho nhau. Vì thế, trong gia đình, cuộc
sống cá nhân riêng lẻ phải hy sinh cho cuộc sống lứa đôi. Và khi có
con cái, đôi nam nữ đó xây dựng mái gia đình, và đến lượt họ phải hy
sinh tất cả vì con cái.
Tôi đã thấy các bậc cha mẹ hy
sinh tất cả để phục vụ con cái và rất cảm phục điều này. Gần như suốt
hai mươi bốn giờ một ngày, các bậc cha mẹ không ngừng quên mình để phục vụ
một người khác: đó là con của mình. Một mặt nào đó, cuộc sống như thế rất
căng thẳng, đầy bực bội và phiền muộn, nhưng mặt khác, nó cũng mang lại hạnh
phúc và mãn nguyện khi cha mẹ cảm thấy là họ đã hoàn thành nhiệm vụ và lý
tưởng của mình. Các bậc cha mẹ có thể sáng suốt, ý thức và tự nguyện hiến
dâng đời họ cho con cái, họ cho không phải vì có nhu cầu phải cho, mà
vì đã suy nghĩ và hiểu biết thật sự hoàn cảnh của con cái. Và vì thế, dù
phải hy sinh tất cả sở thích cá nhân, cuộc sống riêng tư, quyền lợi, và nhiều
thứ khác nữa để lo cho đứa con bé bỏng của mình, họ vẫn cảm thấy
tràn đầy hạnh phúc.
Hiện nay, người ta rất hoang mang về
vai trò của người vợ và chồng trong gia đình vì xã hội đang đặt lại
vấn về vai trò truyền thống. Chúng ta không thể tự tiện cho "đây là bổn
phận của các ông" và "kia là bổn phận của các bà" nữa. Thế hệ
của mẹ tôi chấp nhận vai trò truyền thống của nam giới và nữ giới dễ dàng vì
lúc đó vai trò của họ được xác định rõ ràng. Ngay bây giờ, tại các xã
hội truyền thống sống về nông nghiệp ở miền đông bắc Thái Lan, người ta
cũng không đặt lại vấn đề này. Mọi người đều biết rõ vai trò xã hội của
mình. Họ chấp nhận cơ chế và toàn bộ nếp sống xã hội một cách tự nhiên và sống
hòa thuận với thiên nhiên, không ai đặt lại vấn đề cả.
Nhưng rồi, nhất là khi bạn rời khỏi
cuộc sống ổn định của gia đình và đến trường để học, bạn sẽ bắt đầu
đặt vấn đề. Bạn đọc sách và bắt đầu tiếp xúc với tư tưởng của
người khác. Bạn được nghe những quan điểm và ý kiến khác nhau, và
bắt đầu nghi vấn. Bạn tự hỏi, "Đời sống có phải như thế nầy hay
không? Hay có một cách nhìn khác về cuộc đời? Phải chăng phụ nữ
chỉ sống như thế này? Và nếu phụ nữ thay đổi cách sốngï, điều đó đúng
hay sai? Nam giới phải sống như thế nào? Bổn phận của cha và mẹ là
gì?"
VAI TRÒ TRUYỀN THỐNG
Tôi muốn trình bày tóm tắt cho các
bạn những lời dạy của Đức Phật trong Tạng Kinh Pali về bổn phận của con
người trong xã hội. Đây là những lời dạy nền tảng của nền văn hóa truyền thống
Á châu cách đây hơn 2,500 năm. Kinh Sigalaka nêu lên bổn phận
của gần như tất cả quan hệ xã hội trong cuộc sống, bao gồm quan hệ giữa cha mẹ
và con cái, thầy giáo và học trò, chồng và vợ, bạn bè, người chủ và người giúp
việc trong nhà, đạo sư và đệ tử.
Lời dạy đầu tiên là về quan hệ
giữa cha mẹ và con cái. Cha mẹ nên ngăn con không làm việc ác và khuyến khích
con làm việc thiện. Cha mẹ nên giúp con học một nghề nào đó về nghệ thuật
hay khoa học, tìm người chồng hoặc vợ thích hợp, và tùy thời nhường lại gia tài
cho con. Ngược lại, con cái nên giúp cha mẹ trông coi việc làm ăn, bảo đảm
gia tộc được tồn tại lâu dài, có tác phong đứng đắn để xứng đáng thừa
hưởng tài sản gia đình, cúng dường và tưởng nhớ đến cha mẹ sau khi
cha mẹ qua đời.
Tôi không nhớ là khi lớn lên ở Bắc
Mỹ, tôi đã có bao giờ được dạy dỗ như thế. Trái lại, cha mẹ tôi
nói, "Cha mẹ muốn con lớn lên và hoàn toàn độc lập với cha
mẹ. Về phần cha mẹ, cha mẹ hy vọng sẽ để dành đủ tiền, để khi
tuổi già, cha mẹ sẽ không bao giờ phải tùy thuộc vào con." Cả hai bên cha
mẹ và con cái đều muốn độc lập. Rỏ ràng là mô hình về quan hệ giữa cha mẹ và
con cái trong xã hội hiện đại của chúng ta là khác hẳn.
Lời dạy thứ nhì là về quan hệ giữa
thầy giáo và học trò. Khi gặp thầy, học trò phải đứng lên chào để tỏ
lòng tôn kính, phục vụ và hầu hạ thầy, chú ý lắng nghe những điều thầy dạy
dỗ, và học hỏi với thái độ kính cẩn. Khi được tôn kính như
thế, thầy giáo phải hướng dẩn tốt học trò, không dấu diếm bất cứ điều gì
mình biết, khen thưởng học trò trước mặt bạn bè, che chở và săn sóc học trò.
Buồn thay, ngày nay chúng ta thấy rất ít học trò được thầy giáo dưỡng dục
như thế, và về phần các thầy, đa phần chắc sẽ vô cùng kinh ngạc nếu có một
học trò nào đó tỏ lòng kính trọng họ theo những điều dạy vừa nêu
trên.
Lời dạy thứ ba là về quan hệ giữa vợ
chồng. Người chồng nên khen ngợi vợ, khẳng định với mọi người là
người đàn bà nầy thật sự là vợ mình; không được coi thường vợ; không
được phản bội vợ; người chồng nên trao trách nhiệm quản lý nhà cửa,
gia đình, tiền bạc cho vợ; và nên tặng vợ mình các đồ trang
sức. Ngược lại, người vợ nên quán xuyến việc nhà chu đáo, giúp đở bà
con và bạn bè bên nhà chồng, chung thủy với chồng, trông coi tài sản gia đình,
và siêng năng làm tròn bổn phận của mình. Đây là những lời dạy của Đức Phật về
quan hệ hôn nhân truyền thống; nó nêu lên vai trò lý tưởng mà mỗi người trong
cuộc phải thực hiện. Đây là những lời chỉ dẫn cho một hôn nhân dựa trên tinh
thần đoàn kết và hợp tác, trong đó các thành viên hỗ trợ và kính
trọng lẫn nhau, thay vì chỉ biết sống độc lập, bảo quyền lợi cá nhân, và
tranh chấp lẫn nhau.
Lời dạy thứ tư là về quan hệ giữa
bạn bè. Một người được gọi là bạn phải chia sẻ những gì mình có với bạn,
nói lời từ ái, giúp đở bạn, bình tĩnh, từ tốn, không kiêu mạn,
nói điều chân thật không giả dối. Ngược lại, người bạn kia phải che
chở, bảo vệ tài sản của bạn mình khi vị nầy lơ đễnh và chểnh mảng, bảo bọc
khi bạn mình bị lâm nguy, không bỏ rơi bạn trong nghịch cảnh, và đề cao
bạn trước mặt thân bằng quyến thuộc của vị đó.
Lời dạy thứ tư là về quan hệ giữa
người chủ và người giúp việc. Người chủ phải giao công việc thích hợp và vừa
sức cho người giúp việc, cung cấp thức ăn và khen thưởng, chăm sóc và nuôi
dưỡng khi người giúp việc lâm bịnh, chia sẻ món ngon vật lạ, nếu có, và cho
phép người giúp việc nghỉ ngơi để họ có thể phục hồi sức khỏe. Mỗi
buổi sáng, người giúp việc phải thức dậy sớm và làm việc trước khi chủ thức
dậy, và ở lại muộn sau khi người chủ đã đi nghỉ để làm nốt việc của
mình, chỉ đem về nhà những gì người chủ cho (nói khác đi, không trộm
cắp tài sản của chủ,) luôn tìm cách tăng năng xuất trong công việc, và ngợi
khen những đức tính tốt của chủ mình.
Lời dạy cuối cùng là về quan hệ giữa
vị đạo sư và người đệ tử. Vị đạo sư nên khuyến
khích đệ tử của mình làm điều thiện lành, giúp đở đệ tử với tâm
từ bi, dạy cho đệ tử những gì họ chưa biết, soi sáng những gì mà đệ tử đã
nghe được, và dạy cho đệ tử cách tu tập để được sanh về các cõi trời.
Người đệ tử nên hỗ trợ và phục vụ đạo sư với tâm từ, thể hiện qua
hành động, lời nói, và ý nghĩ. Thêm vào đó, người đệ tử nên
thỉnh đạo sư về nhà, và cúng dường tứ vật dụng như thức ăn, chỗ ở, y
phục, và thuốc men.
Đây là những lời dạy dựa theo tinh
thần Phật giáo truyền thống nhằm giúp con người ứng xử trong xã hội. Thế mà
hiện nay, trong nền văn hóa phương Tây, chúng ta đặt và tìm hiểu lại
từ đầu những vấn đề như "Thế nào là quan hệ xã hội? Làm sao để
quan hệ với nhau? Chúng ta mong đợi gì từ các quan hệ này? Chúng
ta đòi hỏi gì? Và chúng ta sẵn sàng hiến dâng gì? Chúng ta phải tự mình
tìm hiểu những vấn đề nầy và không biết chắc là mình có xử lý đúng
đắn trong quan hệ với người khác hay không.
SỐNG QUÂN BÌNH MÀ KHÔNG DỰA VÀO
TRUYỀN THỐNG
Nếu cho "tất cả mọi
người đều sinh ra bình đẳng, tất cả mọi người đều giống nhau, không
khác nhau chút nào hết," thì trong nhiều tình huống, chúng ta khó mà
xác định được quan hệ giữa con người với nhau, phải không các bạn? Ai
sẽ rửa chén? Ai sẽ đổ rác? Ai sẽ lãnh đạo? Ai sẽ được lãnh đạo? Nếu
tất cả đều giống nhau, chúng ta sẽ lúng túng vì không biết phải quan hệ
với nhau như thế nào trong một cơ cấu xã hội dựa trên cấp bậc với những nghĩa
vụ và trách nhiệm khác nhau. Do đó, nếu cứ chấp chặt vào quan điểm cho
mỗi người đều có quyền bình đẳng và tự do tuyệt đối, chúng
ta sẽ rất hoang mang, bất bình, và thậm chí lo sợ, ngại ngùng trước thực tế
cuộc đời.
Khi thực hành giáo Pháp, chúng ta mở
rộng tâm để đón nhận thực tại như nó đang xảy diễn. Chúng ta sẽ thấy
thế giới tự nhiên là một hệ thống dựa trên cấp bậc, mọi vật đều có sắc
tướng và cơ cấu của nó, và khi có sắc tướng, mọi vật đều do nhân duyên cấu
thành theo một thứ tự nào đó. Số hai phải luôn đi theo số một,
và số ba phải luôn đi theo số hai. B theo sau A, và theo sau B phải
là C. Bạn không thể nói A và B là một. Bạn không thể đặt tên cho mọi vật bắt
đầu bằng vần A vì làm như vậy là vô lý, phải không các bạn? Thế giới hữu vi là
thế giới của những quan hệ dựa trên nhân duyên không ngừng nối tiếp nhau.
Nếu khăng khăng giữ chặt một cơ cấu
dưạ trên quan hệ cấp bậc, chúng ta sẽ trở thành cứng nhắc, áp đặt,
và độc đoán. Ai chủ trương phải luôn có một ông chủ tối cao -- phải
luôn luôn có một người lãnh đạo độc nhất vô nhị -- người đó sẽ
trở thành độc tài. Ngược lại, nếu ai đó tin tưởng vào sự
bình đẳng tuyệt đối của mọi vật và tuyên bố chúng ta phải luôn
bình đẳng và mãi mãi sẽ bình đẳng, người ấy sẽ tạo ra một tình huống
mà cuối cùng chỉ dẫn đến rối loạn và tranh chấp. Đến giờ ăn, mọi người đều
tranh nhau là người đầu tiên nhận thức ăn. Nhưng nếu chúng ta sẵn sàng tạo ra
một trật tự dựa trên cấp bậc, chúng ta có thể dựa vào đó mà làm việc. Đó
chính là quan hệ nhân duyên. Bạn sẽ quan hệ với nhau như một cụ già hay thanh
niên, một người thầy giáo hay học trò, bậc cha mẹ hay con cái. Hệ thống cấp bậc
dựa trên nhân duyên sẽ tạo ra một cơ cấu gồm những quan hệ xã hội, để
chúng ta dựa vào đó mà sống với nhau mà không phải hoang moang và không
ngừng tranh chấp lẫn nhau.
Trong đời sống tu viện, chúng
tôi đồng ý với nhau về một hình thức và cơ cấu xã hội đặc thù để quan
hệ với nhau. Đó là cơ cấu xã hội dựa trên sự tự nguyện. Nếu bị ép buộc
phải trở thành tu sĩ và sống trong cơ chế của tu viện, chúng tôi sẽ sống trong
một cơ chế độc tài. Nhưng vì các tu sĩ tự nguyện ép mình vào đời sống
tu viện, không ai ép buộc ai cả; đó là cuộc sống dựa trên sự
hòa đồng và hợp tác.
Chúng ta có thể áp dụng những nguyên
tắc nầy vào đời sống gia đình. Nếu bạn là mẹ và cha, hay là chồng và vợ,
mà không đặt ra những nguyên tắc rõ ràng về bổn phận và trách nhiệm trong
gia đình, thì ai sẽ làm việc nầy? Ai sẽ đi làm để nuôi gia đình?
Ai sẽ ở nhà? Ai sẽ rửa chén? Ai sẽ săn sóc trẻ con khi chúng bị bịnh? Bổn
phận và nghĩa vụ của mỗi người trong gia đình là gì?
Ở Mỹ, không có cơ chế củng cố
gia đình, và người ta hoàn toàn phá bỏ quan hệ dựa trên thứ bậc. Người Mỹ
rất duy tâm và không tưởng. Họ cho tất cả moi người đều
bình đẳng. Ở Anh, ít nhất người ta còn tôn trọng cơ cấu xã hội dựa
trên thứ bậc. Văn hóa Anh còn chịu ảnh hưởng của chế độ quân chủ và xã hội
giai cấp. Dù còn nhiều khuyết điểm, xã hội dựa trên thứ bậc vẫn có một số
thuận lợi nào đó. Nó giúp bạn hiểu rõ hơn cách quan hệ với nhau trong
những hoàn cảnh khác nhau.
Trong thời gian hai năm sống ở miền
bắc đảo Borneo, lần đầu tiên trong đời, tôi có người giúp việc trong nhà,
và là người Mỹ, tôi không biết phải đối xử với họ như thế nào. Nói chung,
người Mỹ rất tệ và dốt khi quan hệ với người giúp việc trong nhà, trong khi
người Anh thì rất quen thuộc và ứng xử rất tốt; Người giúp việc trong nhà rất
hài lòng với các ông chủ người Anh. Nhưng là người Mỹ, tôi không biết cách ứng
xử trong quan hệ giữa người chủ và người giúp việc. Tôi không thể hình dung
mình là người chủ. Đối với tôi, làm chủ là đồng nghĩa với sự áp đặt, cao
mạn và tự phụ.
Nhưng lỗ hỏng nằm phía sau
quan điểm cho "tất cả mọi người đều bình đẳng" là trạng
thái tâm lý bất an. Và trạng thái bất an nầy sẽ thúc đẩy con người ganh tỵ
và tranh chấp lẫn nhau. Trên một mặt nào đó, bạn có thể rất thân mật và
gần gủi với người bạn chung sống, nhưng cùng lúc đó, bạn vẫn cảm thấy phải
chứng tỏ mình hơn người ấy. Đây là một loại đạo đức giả. Nếu không có một cơ
cấu thứ bậc dựa trên những giá trị rõ ràng, con người sẽ rất đố kỵ và
tranh chấp lẫn nhau; Xã hội chúng ta có một cơ cấu thứ bậc tiềm ẩn dựa trên giá
trị tiền bạc và của cải vật chất. Người được xem là thành công và giỏi
trong cơ cấu đó là người có nhiều tiền hơn -- nói khác đi, có
nhà đẹp hơn, xe hơi tốt hơn, và mọi thứ đều nhiều hơn --
vì đó là cách mà con người liên hệ nhau trong một cơ cấu dựa trên thứ bậc.
Ngày nay, quan hệ giữa nam và nữ
thường dựa trên sự ganh đua và tranh chấp, vì không ai hướng dẫn họ tôn
trọng và hiểu biết lẫn nhau. Khi quan sát một số hôn nhân, bạn có thể thấy
người chồng và vợ cạnh tranh với nhau. Họ cảm thấy phải chứng tỏ là họ giỏi
hoặc giỏi hơn người vợ hoặc người chồng của mình. Nhưng làm sao chúng ta có thể
xây dựng một mái ấm gia đình với người mà lúc nào cũng tìm cách cạnh tranh
với mình? Gia đình phải là nơi mà chúng ta sống trong tinh thần hòa hợp,
nơi mà chúng ta có thể đồng ý với nhau như vợ chồng, nơi mà mỗi ngày
mình đều đối xử tử tế với nhau.
Trong các xã hội truyền thống, những
cách thức quan hệ giữa vợ chồng đều được xác định sẵn. Nhưng trong xã
hội hiện đại, tất cả chúng ta đều tự mình lựa chọn bạn đời --
người mà chúng ta sẽ cưới hỏi, sống chung, và quan hệ với nhau. Trong lúc lựa
chọn bạn đời, chúng ta thường dựa trên sở thích cá nhân nhất thời, thay vì
dùng trí tuệ để xem người nào có thể sống thích hợp nhất với mình. Ở một
thời điểm nào đó, chúng ta có thể chọn người xinh đẹp và quyến rũ
nhất, duyên dáng nhất, giàu sang nhất, và đặc biệt lý thú nhất. Hay
chúng ta có thể chọn người đó vì họ đáp ứng chu cầu của chúng ta
trong cuộc sống: thí dụ người đàn ông có thể tìm một người đàn
bà mang nhiều tính chất của một bà mẹ, để thay thế người mẹ của ông ta;
người đàn bà đang cần một người cha, cô ta có thể đi tìm một
người đàn ông mạnh mẽ thích bảo vệ người khác để chăm sóc và che chở
mình.
Với cái nhìn không tưởng, chúng ta
thường không thể thấy được sự thôi thúc của những tham muốn nầy trong tâm
thức. Chúng ta cho hôn nhân của mình là toàn hảo, và hoàn toàn dựa trên sự
chân thật. Cụm từ "hoàn toàn chân thật" thường được người đời
hiểu như là nghĩ sao nói vậy và nói bất cứ lúc nào
cũng được. Nhưng đối với tôi, chỉ có ở cảnh giới địa ngục, con
người mới nghĩ sao nói vậy một cách bừa bãi! Tôi rất hoan hỷ và biết ơn là
không phải nói lên tất cả suy nghĩ của mình. Nhiều lúc chúng ta không nên
lập đi lập lại những suy nghĩ của mình với người chung quanh; vì điều
đó chỉ làm cho họ khổ sở, hoang mang, sợ hãi, và suy sụp mà thôi.
Tâm chánh niệm sẽ giúp chúng ta cởi
mở và tiếp thu mọi tình huống. Thay vì đi tìm một người hoàn toàn như ý muốn,
hay tìm cách bỏ rơi người không còn thích hợp nữa, hay tìm một người khác tốt
hơn, bạn hãy suy nghĩ là mình nên xử lý như thế nào trong tình huống nầy. Thay
vì mong muốn người khác thay đổi hay tự trách là đã không
tìm đúng mẫu người lý tưởng, bạn có thể xem đây là thực tế
cuộc đời Từ đó, bạn sẽ ý thức rõ hơn về cuộc đời như chính
nó, như nó phải xảy ra như vậy, cho dù bạn thích hay không thích. Đây là cách
quán sát thực tại hay chánh niệm. Bạn không đòi hỏi cuộc đời phải
mang lại hạnh phúc và toại nguyện cho bạn, nhưng bạn sẵn sàng đón nhận
thách thức trước mắt bằng cách tiếp cận và ứng xử với nó. Chỉ có bạn mới
làm được việc quán tưởng này -- không ai có thể làm thế cho bạn, vì quan
hệ gia đình rất phức tạp. Chỉ có bạn mới biết được hết những gì nằm
trong quan hệ giữa bạn và người khác.
Có nhiều người tự hỏi, "Tôi có
nên sống cho riêng tôi, cho sự phát triển con người của tôi, cho dù phải hy
sinh hạnh phúc của người khác? Hay tôi nên quên đi con người của mình và
chỉ lo mang lại hạnh phúc cho người khác?" Đây là hai tư tưởng cực đoan:
một bên là ích kỷ, một bên là xóa bỏ hẳn bản thân mình. Hy sinh cá nhân hình như
là một hành động cao thượng, phải không các bạn? Dường như đó
là điều chúng ta nên làm. Trong khi đó, sống ích kỷ hình như
là điều nên tránh. Chúng ta cho rằng sống ích kỷ là không tốt và sai lầm.
Nhưng tư thế của người Phật tử không phải là tư thế của kẻ tự cho mình là cao
thượng, đòi hỏi con người phải hoàn toàn hy sinh vô vị lợi; Đạo Phật
khuyến khích chúng ta mở rộng tâm thức để tiếp cận với chính cái tâm ích kỷ,
hay với ước muốn hy sinh bản thân mình.
Chúng ta có thể suy tưởng
về điều này cho chính mình. Thí dụ, thay vì cho mình là ích kỷ và cảm thấy
tội lỗi, hay đứng ở cực đoan kia, cứ tiếp tục hiến dâng, nuôi dưỡng, và lo
cho người khác mà quên hẳn bản thân mình, chúng ta có thể quán tưởng để
nhận ra những xu hướng tâm lý nầy, cho dù nó là gì đi nữa. Rồi, sau
khi đã nhận ra được điều nầy, chúng ta có thể nhìn nó mà không phán
đoán và tìm ra một giải pháp trung dung và quân bình nào đó.
DỰA TRÊN HAI TÍNH CHẤT ĐỐI LẬP TRONG
CON NGƯỜI ĐỂ PHÁT TRIỂN TÂM THỨC
Chúng ta có thể dựa vào
gia đình để phát triển đời sống tâm linh vì gia đình là một mô
hình tôn giáo sơ khai, uyên nguyên, và thuần khiết. Trong biểu tượng
của đạo Thiên chúa, Đức Chúa Trời là cha, Mary là mẹ, và chúa Jesus là
con. Các tôn giáo khác có Cha trên trời và Mẹ dưới đất tượng trưng cho sự
giao hợp giữa trời và đất. Khi thật sự nhìn vào bản thân mình, bạn sẽ
thấy là bên trong mỗi người đều có cả người cha lẫn người mẹ, và trong khi
tu tập phát triển tâm linh, bạn có thể quán tưởng trên hai tính chất đối
lập nầy.
Có sắc thân nam hay nữ không có
nghĩa bạn hoàn toàn là một người nam hay người nữ một trăm phần trăm. Khi
tu tập phát triển tâm linh, chúng ta cần mở rộng để tiếp xúc với người
khác phái nằm ẩn trong chúng ta; một người nam cần mở rộng để tiếp cận với
người nữ, và người nữ cần tiếp xúc với người nam bên trong họ. Điều nầy không
dễ làm nhưng sự có mặt của một người khác phái ở bên ngoài có thể giúp chúng ta
làm được việc nầy. Khi một người nam gặp một người nữ, hay một người nữ gặp một
người nam, họ có thể dùng những tính chất của đối tượng bên ngoài để
nhắc nhở và tiếp cận với những tính chất của người khác phái bên trong. Đối với
các chư tăng và ni sống trong tu viện, thay vì có quan hệ tình cảm mật thiết
với nhau, chư tăng có thể nhận biết người nữ hiện hữu bên ngoài, và từ đó tiến
đến việc nhận ra những nữ tính trong người của họ. Và đối với chư ni, cũng
thế; họ có thể nhận ra nam tính của mình bằng cách đó.
Là một nam tu sĩ, kinh nghiệm bản
thân cho tôi thấy rằng tâm lý của nam giới thường thích đấu tranh hay
chiến thắng một cái gì đó; họ khá gây hấn và có ý chí mạnh. Vì thế
các nam tu sĩ thường tuyên chiến với chính họ trong lúc hành thiền. Họ tìm cách
diệt trừ tâm sân hận, tiêu diệt tâm lo sợ, phá tan tâm ganh tỵ, và triệt tiêu
tâm tham ái mỗi lần những tâm sở bất thiện nầy khởi lên. Nhưng làm như vậy
sẽ đưa chúng ta về đâu? Bạn sẽ trở nên cứng nhắc và căng thẳng đến
đau cả đầu. Tâm bạn sẽ cằn cỗi; bạn sẽ khô khan như một bãi sa mạc. Không
có gì hết, không một chút tình cảm -- chỉ có ý chí ngự trị trong lúc bạn ngồi
thiền. Làm như thế bạn sẽ có thêm nội lực vì phải có năng lực mới giữ được tư
thế ấy cho dù chỉ trong một phút giây ngắn ngủi nhưng tâm lý ấy cũng dễ đổ
vỡ vì nó rất dễ mất quân bình. Nó chủ yếu dựa vào ý chí mù quáng mà không dựa
trên trí tuệ và tình thương -- nói khác đi, nó không dựa trên sự mềm dẻo,
uyển chuyển, và thái độ sẵn sàng tiếp nhận.
Vì thế chỉ khi nào người nam tu sĩ
tiếp xúc được với phần nữ tính bên trong họ, tâm thức họ mới tiến đến
trạng thái quân bình. Để cho một người nam trở thành nhạy cảm và biết tiếp thu,
vị ấy không nên dùng ý chí và ức chế nội tâm của họ. Vị ấy phải biết buông bỏ
và tập tính từ ái, nhu nhuyễn, và nhẫn nhục với chính bản thân của vị ấy -- và
với những người khác. Đặc biệt, vị ấy cần phải hết sức kiên nhẫn với những
người gây khó chịu cho mình.
Có một lần, Ngài Ajahn Chah giúp tôi
thấy vấn đề sử dụng ý chí trong lúc hành thiền. Trong thiền viện, có một
tu sĩ làm tôi rất khó chịu. Tôi không chịu nổi được con người của ông
ta. Chỉ nghe giọng nói của ông ta là tâm tôi đã bực tức rồi.
Tôi đến nhờ Ngài Ajahn Chah giúp, và Ngài bảo, "À, vị tăng ấy rất tốt
cho con đó. Ông ta mới là người bạn thật sự của con. Tất cả những người
bạn tử tế của con, những vị tỳ kheo mà con thấy tánh tình thích hợp, họ không
tốt với con lắm đâu. Chính ông ta mới thật sự là người sẽ giúp
con." Vì Ngài Ajahn Chah là một thiền sư có nhiều trí tuệ, tôi tiếp thu và
suy nghĩ nghiêm túc về lời khuyên của Ngài. Và tôi bắt đầu nhận ra rằng
bằng cách nào đó tôi phải hoàn toàn chấp nhận vị tỳ kheo đó --
kể luôn cả sự bực mình của tôi -- và để cho ông ta cứ là ông ta, thế thôi.
Năng lượng nam tính luôn có khuynh hướng muốn sửa sai người khác. Đó là
thái độ: "Để ông chỉ cho cậu thấy là cậu đang sai lầm." Nhưng để
tập được đức tính biết chấp nhận và tiếp thu của người nữ -- nghĩa là chỉ biết
ngồi đó, để cho vị tỳ kheo đó làm cho mình bực bội, và chịu đựng sự
bực bội trong tâm đó -- tôi phải tập kiên nhẫn. Sau đó, tôi bắt đầu
hiểu được ý nghĩa của việc thiết lập quân bình trong nội tâm, vì tôi đã
biết được lý do tại sao tôi bị mất quân bình.
Đối với các tỳ kheo ni, sự mất quân
bình diễn ra theo chiều ngược lại. Thường thường phụ nữ có xu hướng chấp nhận
tất cả. Họ thường sẵn sàng chờ người khác sai bảo phải làm gì. Nhưng để
tìm được phần nam tính bên trong, người nữ cần tìm cái có thể làm họ tin
tưởng -- cái gì mạnh mẽ và có thể hướng dẫn họ từ bên trong -- thay vì
chờ đợi sự sai khiến của một quyền lực nào đó bên ngoài. Tôi
nhận thấy nhiều người nữ rất khó có thể tin tưởng vào sức mạnh nội tại của họ.
Thường thường, họ thiếu tự tin. Để có thể không chỉ biết ngồi chờ và chấp nhận
mọi việc như nó xảy đến, và vững vàng trong một tình huống đòi hỏi nhiều thiện
chí. Nói chung, phụ nữ cần phải phát huy sức mạnh; họ phải tin vào trí tuệ của
họ thay vì chỉ biết dựa vào sự hướng dẫn của một trí tuệ nào đó từ bên
ngoài.
Để tiếp xúc với phần nam tính hoặc
nữ tính bên trong, chúng ta có thể nhờ vào sự biểu thị của người nam và người
nữ ở bên ngoài. Chúng ta có thể dùng quan hệ hôn nhân hay đời sống trong
tu viện để rèn luyện cho mình cái nhìn trí tuệ về vấn đề nầy. Nếu
thói quen làm cho bạn quên mất việc nầy, thì bất cứ lúc nào thấy một người khác
phái, đó là dịp để bạn nhớ lại. Thay vì chỉ nhìn người khác phái
với đôi mắt quyến rũ đầy tham ái, dục vọng, hay phán đoán, hay chỉ để ứng
xử phân biệt, bạn có thể dùng hoàn cảnh đó để nhắc nhở mình khai mở và
tiếp xúc với phần giới tính đối lập bên trong. Bằng cách đó, đối với
người nam, tất cả phụ nữ đều có thể trở thành biểu tượng của nữ tính, và với
cái nhìn đó, vị ấy sẽ kính trọng tất cả phụ nữ, vì người phụ nữ bên ngoài
là đại diện của chính người phụ nữ nằm bên trong họ. Tôi cho rằng đối với
phụ nữ, nam giới cũng là biểu tượng và có cùng chức năng như trên.
MỞ RỘNG TÂM ĐỂ CHẤP NHẬN HOÀN
CẢNH SỐNG CỦA CHÚNG TA
Với tâm thức mở rộng, chúng ta sống
với cuộc đời như nó đang diễn ra. Chúng ta có thể sống với
cuộc đời đang thật sự xảy đến -- trong bất cứ vai trò xã hội nào, cho
dù đó là chồng hay vợ, thầy giáo hay học trò, cha mẹ hay con cái. Chúng ta
cần quán niệm trên hoàn cảnh sống riêng để biết cách ứng xử thích hợp nhất
với cha mẹ. Rồi chúng ta phải chánh niệm để giúp con cái quan hệ tốt
với chính chúng ta. Trẻ con cần sự hướng dẫn. Chúng cần những lời
khuyên đúng đắn, cuộc sống có kỷ luật, và những tình huống có thể dạy
chúng biết kính trọng và ý thức bổn phận của con cái đối với cha mẹ.
Trong ý nghĩa nầy, chúng ta không
nên xem nghĩa vụ với xã hội là những trách nhiệm nặng nề và cực nhọc. Trái lại,
chúng ta nên xem đó là một dịp để hiến dâng, giúp đỡ, và thương yêu
và từ đó tìm được niềm vui trong cuộc sống. Mang lại phước báu
cho người khác cũng như xứng đáng nhận lãnh phước báu do người khác mang
lại đều đem lại hạnh phúc cho con người.
Khi ghi nhận rõ bản chất của xã hội
hiện nay, chúng ta không muốn làm một sự thay đổi tận gốc hay một cuộc
cách mạng xã hội. Chúng ta biết là hiện nay, trên bình diện xã hội rộng lớn,
khả năng không cho phép chúng ta thay đổi gì nhiều, nhưng chúng ta có thể
qua đó hiểu rõ bản thân mình hơn. Chúng ta có thể biết khả năng mình như
một con người riêng lẻ trong hoàn cảnh sống hiện tại. Cho dù đang sống một
mình hay sống với người khác, có gia đình hay không có gia đình, hạnh
phúc hay không hạnh phúc, có con ái hay không có con cái -- chúng ta có thể mở
rộng tâm để tiếp nhận hoàn cảnh, thay vì chỉ biết phản ứng lại hoàn cảnh.
Cuộc đời rồi sẽ trôi qua và
thay đổi, vì thế chúng ta hãy mở rộng tâm thức để tiếp cận với những
thăng trầm của cuộc sống và học cách thích ứng, thay vì chấp chặt vào những tư
thế, lập trường, và quan điểm cố định và cứng nhắc. Chúng ta phải chấp
nhận nhân loại và thân phận làm người của chúng ta.
Cuộc đời nhất định cần những
tiếng cười và nụ cười, phải không các bạn? Không có tiếng cười, cuộc đời
nầy thật là chán ngán và đáng sợ. Nhưng với miệng mỉm cười và
tâm độ lượng, vị tha, cởi mở, tiếp thu, chúng ta có thể nhận thức sâu sắc,
chấp nhận, và chiêm ngưỡng ngay cả những thất bại, vấp ngã, yếu điểm, và
khó khăn của kiếp người mà tất cả chúng ta đều dự phần trong
đó. Chúng ta sẽ không chỉ biết phê bình, đòi hỏi, và phán đoán
mà cũng không chỉ biết nhắm mắt xuôi tay đắm mình trong kiếp nhân sinh.
Nhưng chúng ta chánh niệm và quán tưởng về duyên phận làm người vì mọi
người đều có khả năng đi qua và vượt lên trên nó. Là một nam hay nữ tu sĩ,
bậc cha mẹ hay con cái, làm chồng hay vợ -- tóm lại là con người -- tự nó không
phải là một cứu cánh. Nó chỉ là giả tạm thôi. Tự nó sẽ không bao giờ hoàn hảo.
Nó chỉ là một sự thật tương đối, một thực tại chế định, hay nói khác đi,
nó chỉ là tục đế mà thôi.
***
------------------------------
Câu hỏi:
* Làm
thế nào để không bị dính mắc trong quan hệ với người khác?
Trả lời: Trước hết, bạn phải nhận ra
mình đang dính mắc cái gì, rồi mới buông bỏ được. Lúc đó, bạn sẽ hiểu
thế nào là không dính mắc. Nhưng nếu bạn bắt đầu từ tiền đề là không nên
dính mắc, thì bạn sẽ không bao giờ hiểu được sự dính mắc. Vấn đề
không phải là chống lại sự dính mắc như một điều cấm kỵ; Vấn đề
chính là chánh niệm và quán sát sự dính mắc. Trong khi quán niệm, chúng ta nên
tự hỏi, "Ta đang dính mắc cái gì? Dính mắc đem lại hạnh phúc hay
khổ đau?" Rồi chúng ta sẽ thấy nó bằng con mắt trí tuệ. Chúng ta sẽ
hiểu được dính mắc, và cuối cùng buông bỏ nó.
Nếu bạn cho là mình phải thánh thiện
và không nên dính mắc vào bất cứ điều gì, bạn sẽ lập luận: "Tôi không
theo đạo Phật được vì tôi yêu vợ tôi, vì tôi dính mắc với vợ tôi. Tôi yêu
cô ta, và không thể nào rời bỏ cô ta được." Những tư tưởng nầy
xuất phát từ tiền đề là ta không nên dính mắc vào bất cứ cái gì.
Nhận chân được sự dính mắc
không có nghĩa là bạn sẽ rời bỏ vợ mình. Nó có nghĩa là bạn không còn mê lầm về
bản thân bạn và vợ bạn. Rồi bạn sẽ thấy là mình thương mến chứ không bị dính
mắc với vợ mình. Sẽ không còn ngộ nhận, bám víu, và chấp thủ. Tâm rỗng rang có
khả năng thương và quan tâm đến người khác và thương yêu họ theo
nghĩa đúng nhất của tình yêu. Trái lại, sự dính mắc sẽ luôn luôn làm méo
mó và lệch lạc vấn đề.
Nếu bạn yêu thương và muốn chiếm hữu
một người nào đó, quan hệ giữa bạn và người đó sẽ trở nên phức tạp;
và rồi người mà bạn yêu sẽ làm bạn đau khổ. Chẳng hạn, bạn thương con
cái nhưng lại dính mắc vào chúng, lúc đó bạn không còn thật sự thương yêu
chúng nữa vì bạn không liên hệ và nhìn chúng đúng như con người thật
của chúng. Bạn nghĩ ra đủ cách là chúng phải như thế nào và phải trở thành
cái gì. Bạn muốn chúng vâng lời bạn, trở thành người tốt, học hành đỗ đạt.
Thái độ dính mắc này làm cho bạn không thể thương yêu chúng thật sự, vì nếu
chúng không đáp ứng những mong cầu của bạn, bạn sẽ nỗi giận, bực mình và
ghét bỏ chúng. Vì thế, dính mắc vào con cái làm chúng ta không thể thương yêu
chúng thật sự. Nhưng nếu không dính mắc, chúng ta sẽ quan hệ với chúng bằng
tình yêu thật sự. Chúng ta sẽ để cho con cái sống với con người thật sự
của chúng, thay vì theo những mẫu người có sẵn mà chúng ta áp đặt trên
chúng.
Khi tôi nói chuyện với các bậc cha
mẹ, họ cho biết là rất đau khổ vì họ mong chờ rất nhiều ở con cái. Khi
muốn con cái phải như thế nầy, phải như thế kia, chúng ta đang tạo phiền
não và đau khổ cho mình. Nhưng nếu càng buông bỏ những mong cầu nầy, chúng
ta sẽ càng khám phá ra rằng chúng ta có khả năng cảm nhận và ý thức về con
người thật của con cái một cách kỳ diệu. Và dĩ nhiên, thái độ cởi mở đó sẽ
làm cho con cái đáp ứng lại thay vì chỉ biết phản ứng lại với sự dính mắc
của chúng ta. Chúng ta thấy rất nhiều đứa con chỉ biết hành động bằng
cách phản ứng lại với mệnh lệnh "ta muốn con phải như thế
nầy" của các bậc cha mẹ
Tâm rỗng rang -- hay tâm thanh tịnh
-- không phải là tâm trống rỗng trong đó không có tình cảm hay quan tâm về
bất cứ điều gì. Đó là tâm tỏa sáng và mở rộng. Đó là tâm rạng rỡ thật sự
nhạy cảm và biết chấp nhận. Đó là khả năng tiếp nhận cuộc đời như chính nó. Khi
chấp nhận cuộc đời như chính nó, chúng ta có thể ứng xử thích hợp với cuộc
đời như chúng ta đang sống, thay vì chỉ biết lo sợ và chống ghét phản ứng lại
với nó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét