Ajahn Sumedho
PHẦN III - SỐNG ĐẠO
CHƯƠNG 18
VỀ MỘT XÃ HỘI TOÀN HẢO
Vào một ngày đẹp trời và khi
mọi việc đều xảy ra như dự tính, đây chính là lúc mà chúng ta dễ phát hiện
xu hướng không bao giờ hài lòng, thích than phiền và phê phán trong tâm. Chúng
ta thấy rằng thế gian nầy chỉ có thể đẹp đến thế mà thôi. Trong khi quán
tưởng về thế gian nầy, bạn sẽ thấy là đối với con người, cái đẹp luôn có
giới hạn; và trí tuệ là cái giúp chúng ta thấy được giới hạn của
mình. Chúng ta cần thấy và quán tưởng về những giới hạn nầy để biết cái gì
là tối ưu mà mình có thể chờ đợi trên thế gian nầy. Nếu không, chúng ta sẽ
có xu hướng đòi hỏi và than phiền, ngay cả khi mọi việc đều ở trạng
thái tốt đẹp nhất của nó. Khả năng tư duy và tưởng tượng của con người cho
chúng ta tiềm năng hình dung ra những cái thậm chí đẹp hơn những cái đẹp
nhất đang có mặt trong hiện tại.
Xã hội cũng thế, nó không bao giờ
toàn hảo. Chúng ta có thể hình dung ra một mô hình xã hội lý tưởng nào đó
rồi dùng nó làm tiêu chuẩn để xây dựng và phát triển xã hội hiện tại.
Nhưng chúng ta không thể đòi hỏi xã hội phải mãi mãi toàn hảo, bởi vì sự
toàn hảo tự nó không thể nằm ngoài quy luật vô thường, vì mọi vật đều
không ngừng biến đổi và không có gì đứng yên một chỗ. Cũng như
một đóa hoa hồng đang nở ra đầy đặn, với nét đẹp tuyệt vời và hương thơm
ngào ngạt, nhưng nó sẽ úa tàn, xã hội cũng thế, nó phát triển đến tột đỉnh
rồi sẽ bại hoại và tan rã. Đây là dòng vận động tự nhiên của tất cả hiện tượng
của thế giới hữu vi. Bất cứ điều kiện nào được sinh khởi và tạo tác
trong cõi dục giới đều vận động theo mô hình nầy.
Quán sát sự sinh và diệt của các
hiện tượng do nhân duyên hợp thành giúp chúng ta hiểu được thế giới hữu
vi. Nó sẽ giúp chúng ta thoát ra khỏi sự ràng buộc của tiến trình sinh và
diệt của thế gian và tấm thân vật lý nầy -- chúng ta sẽ không còn sống như một
chúng sanh bơ vơ không nơi nương tựa, hoàn toàn mù tịt, không biết gì hết ngoài
những điều kiện không ngừng sinh diệt nầy. Thật ra, con người có khả năng
vượt lên trên thế giới nầy, vượt lên trên cái xã hội mà họ đang sống, vượt
lên trên tấm thân vật lý và tự ngã của chính họ. Chúng ta có khả năng vượt lên
trên tất cả những gì chúng ta có thể nghĩ bàn hay tin tưởng, cho dù đó là
những gì thân thương và quý báo nhất, hay là những gì đáng ghê sợ nhất.
LÝ TƯỞNG "VƯỢT LÊN TRÊN
CUỘC ĐỜI " CỦA XÃ HỘI TOÀN HẢO
"Vượt lên trên
cuộc đời" (tiếng Anh là transcendence) nghĩa là gì? Cụm
từ "vượt lên trên cuộc đời" hình như gợi cho chúng ta ý
nghĩa về sự lìa bỏ toàn bộ thế giới nầy để đi đến một trú xứ
khác. Đối với nhiều người, "vượt lên trên cuộc đời" nầy có nghĩa
là rời bỏ, không còn mảy may để ý hay quan tâm đến thế giới nầy, và hoàn toàn
sống trong một cảnh giới khác.
Tuy nhiên trước khi đi sâu vào
vấn đề nầy, chúng ta hãy quán tưởng thêm về cái mà chúng ta gọi là thế
gian hay thế giới. Do huân tập của nhà trường và các khoa học địa lý tự
nhiên, chúng ta có khuynh hướng xem trọng thế giới vật chất và từ đó,
chúng ta xem thế giới là những gì được vẽ trên bản đồ hay là
quả địa cầu gồm những quốc gia mà chúng ta biết được. Chúng ta
cho thế giới nầy là cái hành tinh có tên là Trái Đất, và vì thế, muốn vượt
lên trên thế giới nầy, bằng cách nào đó chúng ta phải thoát ly khỏi
nó -- thí dụ như đi lên mặt trăng chẳng hạn. Tuy nhiên, khi nói
về thế giới, người Phật tử không nói về cái thế giới ở bên ngoài mà chúng ta
thường biết. Trái lại, họ nói về cái thế giới bên trong, hay nói khác đi,
họ nói về tâm, bởi vì tâm mới thật sự là cái thế giới mà chúng ta đang
sống. Ngay cả khái niệm về thế giới hay thế gian mà chúng ta đang
thảo luận hiện nay cũng là một khái niệm xuất phát từ tâm. Tất cả những
quan điểm về thế gian, bản thân con người, những chúng sinh khác, và các
hành tinh khác thật ra cũng chỉ là những khái niệm được tạo tác và sinh
khởi trong tâm; chúng sinh rồi diệt trong tâm. Chúng ta thường cho thế giới là cái
chỉ có ở bên ngoài; chẳng hạn như khi nói, "Chúng tôi sẽ đi học và
nghiên cứu về thế giới," chúng ta muốn nói là chúng ta sẽ đi đến
những nước trên thế giới để học. Nhưng sự thật không phải thế. Bạn
không cần phải đi đâu hết để thấy được thế giới và vượt lên trên chính nó.
Bạn chỉ cần mở rộng tâm thức của mình, rồi bạn sẽ thấy thế giới đang vận
hành như chính nó, và bạn sẽ thấy là tất cả các pháp thế gian đều do duyên
khởi, chúng đến rồi đi, sinh rồi diệt không ngừng.
Ngay trên thế gian nầy, khi mở rộng
tâm thức, chúng ta sẽ thấy được sự toàn hảo của các pháp. Bạn hãy tưởng
tượng ra tất cả những màu sắc toàn hảo hơn màu sắc của các loài hoa trên
trái đất nầy. Bạn sẽ thấy là chúng ta thường thiết lập những tiêu
chuẩn toàn hảo dựa trên những gì mình đã thấy và biết được: Thước đo
thẩm định của chúng ta thường dựa vào kinh nghiệm quá khứ. Nhưng cái đẹp
tự nó luôn thay đổi; nó không đứng yên một chỗ. Thời tiết bốn mùa cũng
thay đổi. Tất cả lá cây rồi sẽ phải lìa cành, tất cả bông hoa rồi sẽ
héo úa. Mọi vật đều ảm đạm và buồn tẻ trong mùa đông khi không gian
không có màu sắc gì khác ngoài những nét đậm và nhạt, đen và trắng.
Bây giờ, nếu chúng ta yêu thích những màu sắc rực rỡ, những bông hoa
xinh đẹp, và sức sống mới mẻ của mùa xuân, chúng ta sẽ cho là mùa
xuân đẹp hơn mùa đông. Nhưng nếu biết mở rộng tâm thức để
tiếp nhận mùa đông, chúng ta cũng sẽ thấy được vẽ đẹp tinh tế của nó.
Rồi chúng ta sẽ chiêm ngưỡng sự vắng bóng của các sắc màu rực rỡ và sự tĩnh
lặng của mùa đông giống y như chúng ta đã ngưỡng mộ các sắc màu
rực rỡ và sinh lực tràn đầy của mùa xuân.
Chúng ta chiêm ngưỡng sự toàn hảo
không phải vì thấy nó trong tư thế đứng yên và bất biến. Chúng ta chiêm
ngưỡng sự toàn hảo vì thấy được nó trong dòng vận động của các pháp
giống như chúng ta thấy sự toàn hảo của đóa hồng trong cả bốn mùa
xuân, hạ, thu, đông. Nếu muốn có một sự toàn hảo cố định và bất
biến, chúng ta không cần phải mất công sức chi hết; chỉ cần tìm một hoa hồng
bằng nhựa để ngắm, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ hài lòng về đóa
hoa nhựa nầy. Quán tưởng theo cách này, tâm của chúng ta sẽ mở rộng và
tiếp cận với sự toàn hảo của thiên nhiên và thế giới hữu vi. Quan điểm của
chúng ta về sự toàn hảo sẽ không còn đứng yên và cố định
nữa. Chúng ta sẽ thấy là không có một tiêu chuẩn duy nhất cho sự toàn hảo,
và khi mọi việc không xảy ra như ý chúng ta muốn, sự toàn hảo vẫn có mặt trên
thế gian nầy. Chúng ta không chấp chặt vào một tư tưởng bất biến và
cố định là thế giới phải như thế nầy. Ngược lại, chúng ta sẽ thấy thế giới
nầy một cách sinh động, thật sự như nó đang là và đang xảy diễn.
Vượt lên trên thế gian (transcendence) có
nghĩa là không chấp hay bám víu vào thế giới nầy; tuy nhiên, nó cũng không có
nghĩa là chúng ta sẽ bồng bềnh trôi nổi trên bầu trời hoàn toàn cách ly với
trái đất. Nó có nghĩa là chúng ta vẫn sống trong thân xác con người
nầy, giữa thế giới hữu vi nầy mà vẫn không bị nhiễm ô hay hiểu sai lạc về nó.
Khi chúng ta quán chiếu và suy tưởng về cuộc sống đến mức độ có thể thấy
nó rõ ràng như chính nó, lúc đó, có thể nói là chúng ta đã "vượt
lên trên thế giới nầy." Vì thế, trong tiến trình vượt lên trên thế gian,
chúng ta vẫn có thể làm việc và sống ngay trong cuộc đời nầy, nhưng cuộc
sống chúng ta sẽ rất trong sáng và thanh tịnh vì lúc đó chúng ta không còn
bất kỳ một ảo tưởng nào về nó. Chúng ta không thể đòi hỏi thế giới nầy
phải là cái gì khác ngoài những gì nó đang là -- và thế giới đó chính
là tâm của chúng ta.
Trong tiếng Pali, từ "Arahant"
hay A La Hán có nghĩa là người đã tận diệt tất cả nhiễm ô
hay những quan kiến sai lạc về bản chất của thế gian. Đó là từ mà chúng tôi
dùng để mô tả một con người hoàn hảo và toàn bích -- con người đã
vượt lên trên thế gian nầy, nhưng vẫn sống trong thế gian nầy, và làm việc vì
lợi lạc của tất cả chúng sinh khác. Nếu bạn đã từng nhìn thế gian nầy qua
nhãn quan của tự ngã và đã buông bỏ những quyền lợi ích kỷ của mình trong
thế gian, thì còn gì phải làm nữa chứ? Nếu đã vượt lên trên bản ngã, chắc
chắn là bạn sẽ không còn sống cho cái bản ngã hoang tưởng đó
nữa. Người mà hoàn toàn vượt lên trên bản ngã sẽ không đòi hỏi gì
hết, dù đó chỉ là sự biết ơn hay một lời khen ngợi. A La Hán là một người
sống vì lợi lạc của người khác và xã hội. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng xã
hội toàn hảo là xã hội của những người giác ngộ, xã hội của những vị A La Hán đã
"vượt lên trên thế gian nầy".
NHỮNG ĐỨC TÍNH CỦA NGƯỜI
LÃNH ĐẠO TRÍ TUỆ
Khi quán tưởng về xã hội toàn hảo,
chúng ta cũng nên suy nghĩ về vai trò của người lãnh đạo toàn hảo, vì hai
vấn đề nầy có liên quan với nhau. Trong kinh điển Pali có nêu ra
mười vương pháp (rajadhamma) hay mười đức tính và
bổn phận của người lãnh đạo trí tuệ.
Đức tính đầu tiên là dana,
hay rộng lượng và bố thí. Bất cứ nhà lãnh đạo nào, cho
dù đó là một vị thống lãnh toàn cầu, thủ tướng, tổng thống, hay chủ tịch
của bất cứ tổ chức chính trị xã hội nào, trước hết phải là người rộng lượng bố
thí vì đây là đức tính khai mở tâm thức con người. Bạn chỉ cần
quán tưởng về hành động hiến dâng mà không mong chờ được đáp
lại. Khi chúng ta cho ai những gì mà chúng ta trân quý, hành động nầy
sẽ làm cho tâm chúng ta rộng mở. Và hành động hiến dâng nầy làm cho tình
cảm cao thượng nẩy nở trong chúng ta. Con người chỉ đẹp và cao thượng nhất
khi họ có thể hiến dâng những gì mà họ mong muốn và thương yêu cho người khác.
Đức tính thứ hai là sila,
hay đạo đức và giới hạnh. Một người lãnh đạo phải là
người có giới đức hoàn toàn trong sạch, một người mà bạn có thể hoàn toàn
tin tưởng. Bạn có thể đồng ý hay không đồng ý với đường lối, chính sách
hay lập trường của vị ấy; điều nầy không quan trọng lắm; nhưng quan trọng
nhất là đạo đức trong sạch của vị ấy, vì không ai có thể tin tưởng một
người thiếu đạo đức. Người ta thiếu niềm tin và nghi ngờ những người
không dứt khoát tránh xa những hành động tàn nhẫn, giết người, trộm cắp,
tà dâm, nói dối, uống rượu và sử dụng các chất ma túy. Trên đây là sila
hay những giới đức cơ bản mà nếu là Phật tử, bạn phải luôn giữ gìn cho
trong sạch.
Đức tính thứ ba là pariccaga, hay hy
sinh. Đức tánh nầy có nghĩa là bạn từ bỏ hạnh phúc cá nhân, cuộc sống an
toàn, và tiện nghi của mình vì lợi lạc của toàn thể dân tộc. Chúng ta cần xem
xét kỷ đức tính hy sinh. Bạn có sẳn sàng hy sinh những tiện
nghi, đặc quyền đặc lợi, và thuận lợi riêng tư cho hạnh phúc gia đình
bạn không? Trong nửa thế kỷ qua, con người gần như coi thường đức tính hy
sinh; họ cho hy sinh là đồng nghĩa với ngu ngốc, ngây thơ, và khờ
dại. Hình như xu hướng chung của con người ngày nay là nghĩ đến quyền lợi
riêng của họ trước nhất, là đòi hỏi "Nhà nước nầy đã làm gì cho
tôi? Tôi bòn rút được gì từ chính phủ nầy?" Nhưng bản thân tôi, bất
cứ lúc nào suy nghĩ theo chiều hướng này, tự nhiên tôi thấy lòng tự trọng của
mình bị sút giảm. Ngược lại, khi tôi hy sinh bản thân mình cho người khác, tôi
thấy đây là điều đúng cần phải làm. Buông bỏ quyền lợi, tiện lợi, và
tiện nghi cá nhân vì lợi lạc của người khác là những gì mà bây giờ mỗi khi nhìn
lại, tôi không bao giờ hối tiếc là mình đã làm.
Đức tính thứ tư là ajjava hay chân
thật và chính trực. Đức tính nầy không chỉ có nghĩa là không lừa dối kẻ
khác mà còn là thành thật với chính bản thân mình. Để chân thật với chính mình,
không đổ lỗi hoặc lên án bản thân mình hay người khác, hay không còn hiểu sai
lạc về cuộc đời, tâm bạn phải trong sáng, không còn bị hoen ố bởi tham ái hay
sợ hãi.
Đức tính thứ năm là maddava hay tử
tế và hiền dịu. Sống ở phương Tây, tôi nhận thấy người ta rất khát
khao được đối xử tử tế và hiền dịu, và khát khao đó đã trở thành lý
tưởng của nhiều người. Nhưng trong thực tế, con người lại rất khắc nghiệt và
tàn nhẫn với chính bản thân họ và những người chung quanh; họ thường phê phán
gay gắt, phản ứng giận dữ, và xem sự tử tế và hiền dịu là cái gì ủy mị và ướt
át. Ở phương Tây, sự hiền dịu được xem là biểu hiện của một tâm hồn
yếu đuối. Vì thế mà tại tu viện, chúng tôi nhấn mạnh việc hành
thiền metta hay rải tâm từ cho chính bản thân
mình và người khác. Khi đặt ra những tiêu chuẩn hay lý tưởng quá cao,
chúng ta thường thiếu tâm từ; chúng ta sẽ luôn đòi hỏi cuộc đời phải
như thế nầy, phải như thế nọ, và sẽ bất mãn với những gì xảy ra trong thực tế.
Sự bất mãn nầy sẽ làm chúng ta sân hận và trở nên
ác độc. Người đời thường xem đức tính tử tế và hiền dịu chỉ có ở
những người "ba phải" và yếu đuối, nhưng đó chính là đức
tính mà người lãnh đạo trí tuệ cần phải có.
Đức tính thứ sáu là tapa,
nghĩa là tiết chế, tự chủ -- biết từ khước những gì không cần
thiết cho mình. Đức tính thứ bảy là akkodha, nghĩa là không
nóng nảy, không bồng bột, không liều lĩnh, và bình tĩnh. Đây là điều khó
làm vì con người rất khó bình tĩnh trước những rối loạn, hổn độn, và nghịch
cảnh của cuộc sống. Trái lại, hành động theo bản năng, nói năng hay phản
ứng cho thỏa cơn giận thường là dễ hơn.
Đức tính thứ tám là avihimsa,
nghĩa là không bạo động, không dùng bạo lực với bất cứ chúng
sanh nào, không đàn áp hay áp đặt ý chí của mình trên người khác. Tâm
kiêu mạn, tự cho mình là cao thượng và đạo đức cũng là một
thái độ của kẻ cả và có tính đàn áp phải không các bạn? Sống bên cạnh
những người có những đòi hỏi và tiêu chuẩn cao, bạn sẽ bị họ xem thường
và đánh giá thấp. Cho dù những người nầy chủ trương bất bạo động
và nghĩ là họ không có chủ tâm bạo động, nhưng bản thân sự kiêu ngạo và tự
phụ của họ là một thái độ bạo động. Vì thế, những người hay rêu rao
những tiêu chuẩn đạo đức cao cả cũng thường là những người đạo đức
giả. Và ngay bây giờ, khi bàn về vấn đề đạo đức, một số bạn trong
chúng ta có thể rất căng thẳng và khó chịu vì họ nhìn đạo đức như là một
cái gì nặng nề và áp chế, giống như nước Anh vào thời nữ hoàng Victoria, người
ta đã sử dụng những tiêu chuẩn đạo đức để hăm dọa và khủng bố người
khác. Nhưng đó không phải là avihimsa hay bất
bạo động. Avihimsa là đối nghịch lại với áp đặt
và đàn áp.
Kế đến là đức tính khanti,
hay nhẫn nhục, chịu đựng, và tha thứ. Muốn không đàn áp
người khác, không bị sân hận chi phối, chúng ta phải kiên nhẫn. Chúng ta phải
tập chịu đựng những điều phiền toái, bực bội, trái ý, đáng ghét, và xấu
xa. Chúng ta phải chịu đựng thay vì phản ứng dữ dội, tìm cách đàn áp,
hay thủ tiêu nó.
Đức tính cuối cùng là avirodhana,
nghĩa là không đi sai đường, sống hợp với lẽ đạo, sống
theo đúng chánh pháp. Cụm từ "không đi sai đường"
dường như là một mệnh lệnh phải không các bạn? Khi tự cho mình là đúng,
chúng ta thường trở nên độc đoán; bản thân tôi đã thấy điều nầy trong
chính tôi. Khi tức giận người khác vì cho mình là đúng và họ là sai,
tôi có thể trở thành dữ tợn và đối xử tàn tệ với người khác giống như
tinh thần của lời phán trong Kinh Cựu Ước: "Ngươi không được phép làm
như thế!" Tôi quả thật đáng sợ khi tự cho mình là người nắm chân lý. Nhưng avirodhana không
phải là cái đúng của bậc gia trưởng độc tài; trái lại, nó là trí tuệ biết
cái gì là đúng đắn, hợp thời và đúng chỗ. Ở phương Tây, chúng ta
có khuynh hướng cho hễ cái gì hợp lý và lô gích thì cái đó
là đúng. Vì thế bất cứ cái gì có vẽ hợp lý, ta đều cho
là đúng, trong khi cái gì phi lý, thì cho là sai. Chúng ta không tin ở cái
bất hợp lý. Nhưng khi bị lý luận và lô gích trói buộc, chúng ta thường mất kiên
nhẫn vì tâm của chúng ta không đủ mở rộng để nắm bắt những nhịp đập và
dòng chảy của tình cảm. Chúng ta không thấy được cái bao la của cuộc
sống. Chúng ta bị dính chặt vào thời gian, năng suất công việc, sự thông
minh nhanh nhẹn của tư duy, và sự toàn hảo của lý luận đến nỗi chúng ta
ngộ nhận những gì tạm thời và chóng qua là thực tại và chân lý, và không thể
ghi nhận được khoảng không gian phủ trùm chung quanh chúng ta. Vì thế khi
bị kẹt trong lý luận và lô gích, chúng ta sẽ chối bỏ, quên lãng, và triệt tiêu
thế giới tình cảm trong đó có tất cả cảm xúc, trực giác, và tâm linh của
con người.
Đức tính Avirodhana, hay sống
theo chánh Pháp, đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và vững vàng để sống
nhu thuận theo chánh Pháp. Lý do duy nhất khiến chúng ta không thể sống theo
chánh Pháp là vì chúng ta không quan sát, thấy và biết được Pháp. Là
con người, chúng ta có xu hướng dễ tin vào bất cứ điều gì, vì thế chúng ta
có thể đi theo bất cứ hướng nào và chấp nhận bất cứ truyền thống tôn giáo
nào. Nhưng khi đã thấy được Pháp, chúng ta chỉ còn một xu hướng duy
nhất, đó là sống hòa thuận theo sự vận hành của chánh Pháp mà thôi.
ĐI TÌM NGƯỜI LÃNH ĐẠO TRÍ TUỆ BÊN
TRONG CHÚNG TA
Trên đây là mười rajadhamma hay vương
pháp, tức là mười đức tính của bất cứ vị lãnh đạo nào. Chúng ta
có thể nghĩ rằng, "Đó chỉ là những giới hạnh dành riêng cho các ông thủ
tướng hay tổng thống. Có lẽ chúng ta nên gởi các vị đó danh sách mười
vương pháp nầy để họ tự rèn luyện." Nhưng chúng ta cũng có thể đặt
vấn đề ngược lại, "Phải chăng vị lãnh đạo tinh thần nầy cũng có mặt
bên trong chúng ta? Làm thế nào để chúng ta có thể tiếp cận với vị
lãnh đạo bên trong đó?" Đây là một cách để quán tưởng.
Bạn có thể áp dụng những đức
hạnh nầy vào cuộc sống riêng, thay vì xem chúng như những mẫu mực chỉ dành cho
các nhà lãnh đạo thế giới. Nếu chúng ta tìm cách đánh giá một vị
tổng thống hay thủ tướng xem họ đã bố thí, giữ giới, hay hy sinh như thế nào,
chắc chắn cuộc bàn cải sẽ vô cùng lý thú và sôi nỗi. Nhưng làm như thế chẳng
lợi ích gì. Làm như thế, chúng ta chỉ nhìn thấy vấn đề của người khác mà
không thấy vấn đề của mình, chúng ta muốn họ phải
sống đạo đức trong khi bản thân chúng ta lại không sống đạo
đức -- nói khác đi, không biết tu sửa tâm tính của mình. Tuy nhiên,
khi càng tìm cách phát huy người lãnh đạo trí tuệ bên trong, lắm khi,
chúng ta lại càng dễ tìm được người lãnh đạo trí tuệ từ xã hội bên
ngoài.
Hàng ngày, chúng ta có thể hướng
cuộc đời của mình đến những đức hạnh nầy. Chúng ta không nên xem
chúng như những tiêu chuẩn đạo đức để đánh giá rồi than thở: "Ôi
thôi, tôi chưa đủ rộng lượng và bố thí; Giới hạnh tôi chưa đủ tốt;
Tôi quá ích kỷ và không thể hy sinh cho kẻ khác." Nhưng mỗi ngày, chúng ta
nên suy tưởng về những đức tính nầy hầu nuôi dưỡng tâm nguyện sống đời đạo
đức và thánh thiện. Để làm việc nầy, chúng ta nên biết và hiểu con người chúng
ta như chính nó, thay vì đánh giá là nó phải như thế nầy hoặc phải như thế nọ.
Và khi hiểu được chính mình, chúng ta sẽ hiểu được người khác, và rồi
chúng ta sẽ bắt đầu hiểu được xã hội loài người.
Do đó, một xã hội toàn hảo chỉ
có với những con người toàn hảo. Và thế nào là một con người toàn hảo? Người mà
không còn bị nhiễm ô hay bất kỳ ảo tưởng nào về thế giới nầy, người
mà đã vượt lên trên thế gian nầy, đó chính là người
toàn hảo. Khi con người không còn một tư tưởng hay không còn dính mắc vào một
thái độ hay quan điểm dựa trên tự ngã, lúc đó tâm rộng lượng và bố
thí tự nhiên sẽ xuất hiện. Họ sẽ tự động chia sẻ với người khác những gì
họ có. Chỉ cần biết là người khác đang cần gì, họ sẽ sẵn sàng chia sẻ thêm
những gì họ có. Từ đó, xu hướng tích lũy và chiếm hữu cá nhân trong họ sẽ
giảm và yếu dần.
Trên thế giới ngày nay, chúng ta
thấy có một sự cách biệt rất lớn giữa thế giới phương Tây giàu có và Thế giới
thứ ba nghèo đói. Mức sống của chúng ta rất cao, trong khi mức sống
của đa phần các dân tộc trên thế giới rất thấp. Thậm chí nhiều người
không đủ ăn. Chúng ta có thể cho điều nầy là sai trái. Chúng ta
có thể hoặc lên án thế giới phương Tây, hoặc biện minh cho sự giàu có của chúng
ta và tỏ lòng thương hại Thế giới thứ ba.
Nhưng thật ra chúng ta có thể làm
gì để giải quyết tệ nạn nầy? Như những cá nhân, chúng ta không thể
tác động trên nhà nước và các vị lãnh đạo phương Tây giàu bắt buộc họ
phải thật sự thay đổi đường lối và chính sách. Nhưng chúng ta có thể
thay đổi quan hệ giữa chúng ta và xã hội, phải không các bạn? Chúng ta có
thể tập hành thiền. Và chúng ta có thể tập sống để mỗi ngày có thể vị tha
hơn và chia sẻ với người khác những gì mình có. Và rồi chúng ta sẽ
tìm được niềm vui trong khi chia sẻ vì chia sẻ tự nó là một phần thưởng --
một phần thưởng tự nhiên đến. Nó không phải là phần thưởng mà chúng
ta mong đợi người khác mang đến cho mình.
Chúng ta có thể quán tưởng về sila hay giới
hạnh, và tự hỏi mình có thể làm gì để không hãm hại sinh mạng của các
chúng sinh khác. Chúng ta có thể tránh xa những hành động và lời nói
bạo động, những hành động bốc lột, chia rẽ, gây hoang mang, phiền não,
và tuyệt vọng cho người khác. Chúng ta có thể thực tập -- với gia đình, bè
bạn, và những hội đoàn xã hội -- làm sao để có một đời sống bình an
và đạo đức, trong đó chúng ta trách nhiệm về lời nói và việc làm của mình.
Chúng ta có thể quán tưởng
về đức tính pariccaga hay hy sinh. Sống hy
sinh không có nghĩa là mềm lòng "xả thân vì đạo" để cứu rỗi
những số phận không may mắn. Hy sinh không có nghĩa là chúng ta lăn xả can
thiệp vào việc của người khác mà là không còn xem mình quan trọng hơn người
khác. Muốn làm được điều nầy, trước hết, bạn phải hiểu chính bạn. Hy
sinh mà không hiểu chính mình thì bạn sẽ trở thành một người "xả thân
vì đạo" tình cảm và yếu đuối. Sự hy sinh phải đến từ
một tâm thức sáng suốt chứ không phải từ những tình cảm yếu mềm.
Chúng ta có thể quán tưởng
về đức tính ajjava, hay trung thực và chính trực và đức
tính madava hay tử tế và hiền dịu. Chúng ta có thể
ứng xử dịu dàng và tử tế với cuộc đời. Lý do chúng ta thiếu tử tế
không phải vì chúng ta không muốn tử tế; mà là vì chúng ta thiếu kiên
nhẫn để tử tế với cuộc đời. Muốn tử tế với người khác, bạn phải kiên
nhẫn. Để dịu dàng với cuộc đời, bạn phải nhẫn nhục và chịu đựng; bạn không thể
vì quyền lợi riêng tư mà bắt buộc cuộc đời phải chiều theo ý của bạn. Tử tế có
nghĩa là bạn đang tập -- từ những vịệc nhỏ nhặt hằng ngày -- để trở
nên hiền dịu và cởi mở, nhất là nhẫn nhục với những gì trái ý mình. Cởi mở với
những gì bạn yêu thích là rất dễ. Thí dụ như chúng ta rất dễ tử tế với
những đứa bé ngoan ngoản và dễ thương, nhưng chúng ta không dễ gì tử tế
với những phiền muộn, bực dọc, hay bất toại nguyện phải không các bạn? Chúng ta
phải thật cố gắng để không phản ứng chống lại với những gì trái ý của
mình. Để làm được việc trên, chúng ta phải tập làm quen với những phiền muộn
nhỏ nhặt trong cuộc sống hàng ngày -- hãy cố gắng tử tế, hiền dịu trong những
tình huống dễ biến chúng ta thành người khó chịu, phán đoán, và độc
ác.
Chúng ta có thể quán tưởng đức
tính tapa hay tự chủ, không dễ duôi, kham khổ
chịu đựng. Hiện nay, nhiều người rất sợ khi nghe đến hai chữ
kham khổ; Kham khổ chịu đựng dễ làm người ta chùn bước. Nhưng bạn nên
tự hỏi bao nhiêu là đủ và bao nhiêu là thừa. Đây là thói quen rất
tốt. Đặt câu hỏi nầy không phải là để đánh giá và phê phán; trái lại, nó sẽ
giúp bạn ghi nhận thế nào là đủ, thế nào là cần thiết, và thế nào là cuộc sống
nghiêng về lợi dưỡng. Điều nầy đòi hỏi chúng ta phải tỉnh giác, chính trực, và
chân thật.
Chúng ta có thể quán tưởng đức
tính akkodha, hay không nóng nảy, không bộp
chộp; đức tính avihimsa, hay bất bạo động và
nhân đạo; đức tính khanti, hay nhẫn nhục và
chịu đựng; và đức tính avirodhana, hay không theo
tà đạo, đi đúng chánh pháp. Càng ý thức về những đức
tính nầy, chúng ta sẽ càng thể hiện chúng trong cuộc sống của mình.
MỞ RỘNG VÀ TIẾP THU NHỮNG ĐỔI THAY
CỦA XÃ HỘI
Chúng ta sẽ thất bại nếu chỉ biết
trao dồi đạo đức bằng cách suy nghĩ về đạo đức. Làm như thế chúng ta
sẽ chỉ biết phê phán và dày vò chính mình. Làm như thế cũng giống như chúng
ta đánh giá đóa hoa hồng trong hiện tại với lúc nó nở đẹp nhất, giống như
so sánh nụ hoa hồng và đóa hoa hồng tàn héo với đóa hoa hồng vào
thời điểm đẹp nhất của nó. Cách so sánh này sẽ thúc đẩy xu hướng
không hài lòng và đòi hỏi trong chúng ta, "Tôi không thích điều
nầy, mọi việc phải như thế nầy." Nhưng nếu chúng ta xem sự vận hành
của thế gian nầy là một quá trình không ngừng thay đổi, chúng ta sẽ ngưỡng
mộ và thưởng thức cho dù nó ở trạng thái hay giai đoạn nào đi
nữa. Chúng ta sẽ không còn đóng khung và ép chặt nó vào một mô hình
cứng nhắc và không còn phán đoán mọi việc theo một quan điểm cố định
nào đó.
Chúng ta có thể áp dụng cái nhìn nầy
vào xã hội và bản thân chúng ta. Chúng ta nhận thấy là dù xã hội sẽ không bao
giờ toàn hảo, cũng như đóa hoa hồng, nó sẽ tiến đến tột đỉnh của
nó. Và rồi chúng ta có thể quán tưởng về xã hội hiện nay và đặt câu
hỏi, "Xã hội chúng ta đã phát triển đến giai đoạn nào rồi?
Nó đã đến tột đỉnh hay đang trên đà xuống dốc?" Chúng ta có
thể không hài lòng và lên án, "Xã hội hiện nay đã suy sụp và không
giống như trước nữa, nó không thể như thế nầy được" và cứ tiếp tục
phê phán như thế cho đến lúc chúng ta trở nên chán nãn và chống ghét vì xã
hội không còn ở đỉnh cao nữa. Nhưng nếu chúng ta chỉ đơn giản
đặt câu hỏi, "Xã hội đang ở giai đoạn nào đây?" thì có
lẽ điều nầy sẽ hữu ích hơn. Khi cởi mở và tiếp nhận những
thay đổi bên ngoài và bên trong chúng ta -- nói khác đi, khi mở rộng
tâm để thấy được sự vận hành của các Pháp -- chúng ta sẽ hòa vào dòng chảy của
cuộc sống và qua đó sẽ giúp xã hội phát triển tốt đẹp và lành mạnh
hơn.
***
------------------------------
Câu hỏi:
* Đạo
Phật có đánh giá cao một mô hình xã hội đặc biệt nào không? Thí dụ như đạo
Phật có cho xã hội dân chủ là tốt hơn xã hội quân chủ không?
Trả lời: Trong đạo Phật, chúng tôi
không đưa ra một mô hình xã hội toàn hảo nào cả; như xã hội quân chủ hay dân
chủ, xã hội chủ nghĩa hay cộng sản chủ nghĩa chẳng hạn. Vào thời đức Phật,
hình như không có nhiều thể thế chính trị để người ta lựa
chọn. Chế độ quân chủ là mô hình phổ biến của thời đó, mặc dù
xen kẽ cũng có những nhà nước dân chủ sơ khai. Nhưng ngay trong thời kỳ ấy,
chế độ quân chủ cũng không phải là một chế độ độc tài trong đó
nhà vua có quyền thay trời trị dân, muốn làm gì thì làm và không quan tâm
gì đến đời sống của dân chúng. Ngày nay, chúng ta thường cho vua chúa
là những kẻ tha hóa và hủ lậu, nói khác đi chúng ta cho quân chủ là
chế độ của một nhóm ít người có đặc quyền đặc lợi mà đa số dân chúng
phải khổ cực phục dịch cho họ -- nhưng thật ra, lý thuyết của chế độ
quân chủ thường xuất phát từ những tiền đề hợp lý và đúng đắn. Khi
ra đời, chế độ quân chủ không nhắm trở thành độc tài, mặc dù trong
nhiều trường hợp thực tế, nó đã trở nên độc tài; (...)
Nền dân chủ phương Tây, với tất cả
những gì được gọi là tự do của nó, có khuynh hướng đưa chúng ta đến
chỗ tự hủy hoại và tha hóa. Các bậc cha mẹ ở phương Tây không ngừng lo lắng cho
con cái. Cha mẹ không còn khả năng hướng dẫn con cái trở thành người tốt vì con
cái ở phương Tây có thể làm bất cứ điều gì chúng muốn. Hình như chúng ta không
có quyền hướng dẫn con người hướng về Chân, Thiện, và Mỹ nữa. Chúng ta chỉ còn
có thể nói, "Bạn được tự do làm những gì bạn muốn."(...)
Thật ra, trong thực tế, tất cả những
cơ cấu xã hội trên thế giới hiện nay đều có thể vận hành tốt nếu chúng ta
hiểu biết nó một cách đúng đắn. Không có gì sai trái với những cơ cấu
chính trị hiện nay trên thế giới cả; các cơ quan nhà nước tự nó đều không
tệ. Cái chúng ta đang thiếu là những con người giác ngộ, những con
người có thể nhìn thấy mọi việc một cách sáng suốt và rõ ràng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét