Ajahn Sumedho
PHẦN II - TÂM TỈNH THỨC
CHƯƠNG 13
CÁC ĐỀ MỤC TU TẬP HẰNG NGÀY
Vì đa số kinh điển Phật giáo
tập trung viết về đời sống tu tập của người xuất gia, nên đôi khi các
Phật tử tại gia có cảm tưởng là họ bị bỏ quên, là họ có nhiều bất lợi và không
thể nào phát triển đời sống tâm linh được. Thậm chí có người cho rằng
tu tập theo đạo Phật là công việc dành riêng cho chư tăng và ni. Vì thế,
rất nhiều người đã hỏi tôi làm thế nào để cư sĩ tại gia có thể thực
hành giáo pháp. Tôi trả lời là chúng ta có thể thực hành giáo pháp ở bất cứ nơi
nào, ở tu viện hoặc tại gia, trong bộ y của người xuất gia hoặc trong đời
sống thường ngày của người cư sĩ. Luôn có cách để chúng ta tiếp cận với
Pháp, hành thiền, giữ giới, bố thí, và phát triển đạo quả.
TIẾP CẬN VỚI PHÁP
Nếu chỉ nói suông là tất cả chúng ta
cần phải rộng lượng bố thí, từ tâm và bi mẫn, thì đây là một điều rất
dễ. Nếu chỉ khuyên nhủ hay tuyên thuyết những câu nói đầy minh triết
và trí tuệ về cuộc đời, điều nầy cũng không khó. Nhưng trí tuệ chỉ có
khi nào chính chúng ta tự mình tiếp cận và biết được thực tại như nó đang xảy
ra; Chỉ thuần tin tưởng vào những lý tưởng cao đẹp sẽ không đưa đến trí
tuệ. Trái lại, trí tuệ chỉ đến từ quá trình ứng xử với những gì
chúng ta phải chịu đựng, những cơ may và rủi ro trong cuộc đời.
Chúng ta không nên nghĩ rằng để
tu tập, chúng ta phải hội đủ tất cả những điều kiện tốt nhất -- chẳng hạn
như sức khoẻ đầy đủ, cao tăng hướng dẫn, và tu viện tiện nghi quy củ.
Trong cuộc sống, hội đủ tất cả điều kiện tối ưu là rất hiếm vì điều
nầy rất khó thực hiện. Có lúc, chúng ta cảm thấy là mình có tất cả yếu tố
tốt đẹp nhất, nhưng liền sau đó, chúng ta lại cho là mình đang ở
trong hoàn cảnh tệ hại nhất. Nhận định về cái tốt và xấu đều do tâm
mà ra. Nếu chúng ta chấp chặt vào những gì chúng ta cho là tốt đẹp nhất,
thì khi chưa hội đủ những điều kiện đó, chúng ta sẽ nghĩ là chúng ta
chưa đủ duyên để tu tập. Chúng ta có thể viện cớ là tâm chúng ta
còn đầy phiền não, chúng ta đã phạm quá nhiều lỗi lầm trong đời,
và chúng ta đã nói quá nhiều điều xằng bậy. Hoặc chúng ta có thể
nhìn chung quanh và thấy khuyết điểm của tất cả vị sư mà chúng ta gặp hay
những tu viện mà chúng ta thăm qua. Bạn luôn có thể tìm thấy một cái
gì đó không ổn, không đúng theo hình ảnh lý tưởng của bạn về
những điều kiện cần thiết cho việc tu tập.
Tôi còn nhớ một số bạn đi tầm
sư học đạo ở Thái Lan. Các bạn nầy muốn học đạo với một cao tăng giỏi
nhất nước Thái Lan. Nhưng đi đến đâu, họ cũng thấy cái gì đó
không ổn. Khi gặp một vị sư ăn trầu, họ nói, "Một vị A La Hán chắc
chắn không ăn trầu." Hoặc khi gặp một vị sư hút thuốc, họ bảo, "Không,
chúng tôi không thể học với vị sư còn tật hút thuốc." Họ tiếp tục tìm kiếm
và tìm kiếm. Chúng ta đòi hỏi quá cao để rồi phải mất đi nhiều dịp
may thật sự.
Vì thế khả năng quán chiếu và suy
tưởng rất là quan trọng. Đây là con đường giúp chúng ta đi ra khỏi khổ đau.
Con đường đi ra khỏi khổ đau không phải là làm sao để có tất cả những
gì tốt đẹp nhất mà là làm sao có thể sử dụng tất cả những gì chúng
ta đang có với trí tuệ: đó là con người hiện tại của chúng ta với tất
cả tính tốt và xấu, và hoàn cảnh mà chúng ta đang sống, cho dù chúng ta là nam
tu sỉ, nữ tu, hay cư sĩ tại gia, giàu hay nghèo, có công ăn việc làm hay
thất nghiệp.
Điều quan trọng nhất là năng lực
quán tưởng. Quán tưởng trên chính con người và cuộc sống của bạn. Cuộc sống của
bạn hiện nay ra sao? Có phức tạp lắm không? Làm thế nào để sống đơn giản?
Bạn có luôn chạy theo tiền bạc, hay sống phức tạp không? Hãy hết sức thành
thật quán sát và tự hỏi bạn những câu hỏi nầy. Hãy hành thiền và dùng trí tuệ
hỗ trợ khi bạn suy tưởng về những vấn đề nầy.
HÀNH THIỀN
Đôi khi người ta xem hành thiền là
một gánh nặng đè thêm trên cuộc sống vốn đã quá bận rộn và quá nhiều công việc
nầy. Tuy nhiên thay vì xem hành thiền là một gánh nặng, bạn có thể
thay đổi cách nhìn. Và cách nhìn hay quan điểm là những gì chúng ta
luôn có thể thay đổi. Ngày nào mà bạn vẫn cho rằng hành thiền là một
công việc mà bạn phải làm thì nó sẽ là gánh nặng; nó sẽ là cái gì đó mà
bạn phải làm mặc dù bạn rất bận. Bây giờ, bạn chỉ cần thay đổi thái độ và
lấy quyết định là đối với bạn, hành thiền cũng quan trọng như việc
ngủ nghỉ vào ban đêm hay ăn uống vào ban ngày. Dù đôi khi, chúng
ta có cảm tưởng hành thiền là không quan trọng tý nào. Nhưng thật ra, về lâu
dài, hành thiền là quan trọng nhất, quan trọng hơn cả việc ăn uống và ngủ
nghỉ. Hành thiền là quan trọng vì nó cho bạn có dịp nghỉ ngơi và thoát khỏi tất
cả bổn phận và trách nhiệm nặng nề trong cuộc sống. Nó giúp bạn buông bỏ mọi
việc và có thì giờ để ngừng lại và quán sát chính bạn. Nó giúp bạn
thấy được những gì đang ám ảnh bạn -- tất cả năng lực, tình cảm,
trạng thái phóng dật và trạo cử, hoài nghi và lo âu -- thay vì bị chìm đắm
trong đó. Nếu làm đúng, hành thiền sẽ giúp bạn không chìm đắm và
chạy theo những tâm bất thiện nầy, mà ngược lại, có thể ghi nhận được
chúng. Hành thiền sẽ giúp bạn để những tâm sở nầy xảy ra và cuối cùng
buông bỏ chúng. Nếu làm được như thế thì hành thiền sẽ trở thành điều
mà bạn luôn hướng đến, giống như bạn mong chờ một bữa ăn vậy. Bạn sẽ
thật sự yêu thích hành thiền vì nó cho bạn cơ hội phá vỡ những vòng lẩn quẩn
phát sinh từ những xung lực tâm ý mù quáng mà bạn thường bị mắc kẹt trong cuộc
sống hàng ngày.
GIỮ GIỚI
Trong bất cứ quá trình tu tập nào,
chúng ta phải tuân thủ một số nguyên tắc đạo đức để cuộc sống được trong
sạch và ổn định. Ngũ giới (tiếng Pali là panca sila)
là nền tảng đạo đức của người Phật tử tại gia. Đó là:
- không sát sanh;
- không trộm cắp;
- không tà dâm (ngoại tình
và đa dâm)
- không nói dối; và
- không dễ duôi uống ruợu và các
chất say.
Chúng ta có thể giữ, và với thời
gian, hoàn thiện các giới nầy. Giới đầu tiên bao gồm sự bất bạo động
và không sát sanh. Phần lớn chúng ta không ai phạm giới giết người cả. Tuy
nhiên, có những lúc, tự nhiên chúng ta tác ý muốn hãm hại một người
nào đó -- ít nhất, tôi đã có kinh nghiệm nầy. Nhưng rất may là ý
nghĩ trên không bao giờ ám ảnh tôi, vì thế tôi không bao giờ phạm giới sát sanh
cả. Nhưng bạo động là một việc khác, phải không các bạn? Chúng ta lớn lên
trong một xã hội rất là bạo động, nhất là bạo động đối với những sinh
vật yếu kém hơn chúng ta. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu tại sao
chúng ta lại để cho con người giết hại các sinh vật khác như thế.
Khi tu tập, chúng ta phải
sống để chung quanh chúng ta không còn bất cứ hình thức bạo động nào,
ngay cả bạo động với các loài côn trùng hay súc vật. Càng sống thu
thúc, cẩn thận và để ý đến đời sống của các sinh vật khác, chúng ta càng
cảm thấy mình đáng được tôn trọng hơn, được an vui và hạnh phúc. Khởi tâm
giết hại và diệt trừ các côn trùng như gián hoặc chuột -- những sinh vật gây
trở ngại và khó chịu cho đời sống -- là một trạng thái bất an. Chúng
ta có thói quen sát hại những sinh vật mà chúng ta không muốn gần gũi.
Nhiều người cho là con người có
quyền giết những côn trùng mà họ không ưa thích. Nhưng tâm bất bạo động
(tiếng Pali là ahimsa) sẽ giúp bạn thấy được sự bình yên và
tĩnh lặng; nó sẽ giúp bạn nhạy cảm và cởi mở trong quan hệ với những sinh vật
khác. Do đó, giới không sát sanh (tiếng Pali là panatipata)
hướng dẫn chúng ta ứng xử và quan hệ với những sinh vật khác trong đời
sống hàng ngày.
Giới thứ hai (tiếng Pali là adinnadana)
là không trộm cắp hay không lấy của không cho. Rõ ràng, giới thứ hai nầy áp
dụng cho những trường hợp thô thiển như cướp nhà băng hay lùa bắt súc vật của
người khác. Nhưng nó cũng có nghĩa vi tế hơn, đó là tôn trọng tài sản của
người khác. Khi giữ giới thứ hai, bạn sẽ không mất thì giờ thèm thuồng nhìn
ngắm tài sản của người khác. Trong xã hội chúng ta ai cũng tranh đua để có
cái mà người chung quanh có. Vì thế, rất khó cho chúng ta không thèm muốn và
ham thích những gì thuộc về người khác; Chúng ta được khuyến khích bằng
mọi cách để ganh tỵ với tài sản của người khác. Vì thế, chúng ta thường khởi
tâm tham và luôn muốn có cái gì đó tốt đẹp hơn. Đây không phải là tâm
thanh tịnh. Đây không phải là cách sống thích hợp cho sự phát triển tâm linh.
Vì thế chúng ta nên tôn trọng tài sản và những gì thuộc về người khác.
Giới thứ ba (tiếng Pali là kamesu
micchacara) là không tà dâm. Ngày nay, con người có quá nhiều mặc cảm tội
lỗi, sợ hãi, và lo âu vì xã hội chúng ta không hiểu và không tôn trọng đời
sống tình dục. Chúng ta thường cho là tình dục phải như thế nầy hoặc thế nọ;
thậm chí chúng ta không thể thấy được nhu cầu tình dục ở mức độ tự
nhiên và bản năng của nó. Trái lại, chúng ta tạo ra vô số vấn đề và
chia cắt nhân cách chúng ta ra nhiều mảnh bằng cách ca ngợi, chống ghét, sợ
hãi, hay bị ám ảnh về tình dục. Chúng ta không còn biết ranh giới và chuẩn mực
của đời sống tình dục. Quán tưởng trên giới thứ ba nầy giúp chúng ta
hiểu được đời sống tình dục của chúng ta -- điều nầy không có nghĩa là
chúng ta phải có quan hệ tình dục thật sự để hiểu nó, mà trái lại, chúng ta có
thể ý thức và tỉnh giác về những đòi hỏi và năng lượng tình dục mà tất cả chúng
ta đều có. Bạn quán tưởng trên những đòi hỏi và năng lượng tình dục
nầy để hiểu và trực diện nó một cách liêm sĩ và đáng kính
trọng. Nói khác đi, chúng ta tập xem tình dục không phải là cái gì
chia cách con người và không phải là cái mà con người có thể lợi dụng để
phục vụ quyền lợi ích kỷ của mình.
Trong đời sống tu viện, chúng
tôi chọn giải pháp dễ dàng cho vấn đề tình dục -- chúng tôi sống độc
thân, không lập gia đình. Đời sống tại gia thì phức tạp hơn. Chúng ta phải
thành thật và thẳng thắn xem xét vấn đề tình dục và không dùng nó để
thỏa mãn dục lạc, để thoát ly những khó khăn trong cuộc sống, hay để giải quyết
những thói quen đòi hỏi ám ảnh chúng ta. Nếu tình dục bị dùng để
chà đạp người khác hay sỉ nhục chính chúng ta, thì nó sẽ gây không biết
bao nhiêu là sợ hãi, đổ vỡ, và chia rẽ giữa con người. Hành động
ngoại tình luôn gây đổ vỡ phải không các bạn? Ngay trong trường hợp
của một số hôn nhân hiện đại, trong đó các thành viên đồng ý là mỗi
người có thể sống theo cách riêng của mình, nhưng cuộc sống đa dâm hay
ngoại tình không thể giúp chúng ta phát triển đời sống tâm linh. Nó
không tạo và nuôi dưỡng sự kính trọng và tin tưởng giữa các thành viên trong
gia đình mà chỉ mang lại bất mãn, nghi kỵ, ganh tỵ và chia cách. Tình dục
là một xung lực tâm lý rất mạnh thuộc về bản năng trong cơ thể của chúng
ta. Chúng ta phải hiểu, hiểu mà không phán đoán, và tôn trọng
nó để có thể dùng nó phục vụ lợi ích, chứ không phải để phá hoại con
người.
Giới thứ tư (tiếng Pali là musavada)
là tránh xa sự nói dối, nói lời phù phiếm, vô ích, và tất cả những lời nói do
sự thất niệm gây ra. Giới nầy thật ra rất khó giữ vì chúng ta có quá nhiều thói
quen nói năng tiêu cực. Thường ngày, để duy trì một cuộc trao đổi và
nói chuyện, chúng ta hay ngồi lê đôi mách và nói những lời vô ích phải
không các bạn? Xã hội cho phép chúng ta nói về những gì người khác đang
làm, nói những chuyện tào lao, cường điệu, nói không ngừng và nói
chỉ để có chuyện để nói. Chúng ta cũng có thể nói những lời rất hung
dữ và ác độc. Mặc dù chúng ta có thể theo đuổi những lý tưởng
cao đẹp như bảo vệ giống cá voi sắp bị diệt vong, xây nhà bảo vệ thú vật,
giúp đỡ những người nghèo… nhưng chúng ta vẫn có thể dùng cái lưỡi của
mình để đã thương và hãm hại người khác. Khi tu tập, chúng ta phải cẩn
thận trong lời nói để không làm người khác đau khổ. Dĩ nhiên,
lời nói của chúng ta thỉnh thoảng có thể làm phiền muộn người khác. Đây là điều
không thể tránh được. Nhưng chúng ta nên tránh nói với tâm ý
ác độc. Chúng ta nên trách nhiệm về nội dung lời nói, cách nói, và
những đề nghị hay góp ý của chúng ta với người khác.
Giới thứ năm (tiếng Pali là surameraya
majjapamadatthana) là không dễ duôi uống rượu và dùng các chất say. Có
người cho là theo Trung Đạo, chúng ta có thể uống rượu nhưng uống vừa phải
và điều độ để không bị say. Có người khác như các tăng ni theo Phật
giáo nguyên thủy chẳng hạn thì không được uống bất cứ chất say nào, trừ
khi đó là chất thuốc trị bịnh. Giới nầy quan trọng vì trong khi tu tập,
chúng ta không nên để các chất ma túy và chất say ảnh hưởng và
tác động đến tâm thức của mình.
Có người sẽ nói, "Ồ, khi dùng
chất ma túy LSD, tôi có những kinh nghiệm hết sức là thần bí và huyền diệu.
Lúc đó, tôi thấy mình như hòa làm một với vũ trụ." Ai có thể bát bỏ
và chối từ những cảm nhận của người hút ma túy? Tôi không đủ khả năng để
bài bát những gì họ thật sự cảm nhận hay nghĩ là họ đang cảm
nhận. Nhưng để phát triển đời sống tâm linh, thân thể chúng ta không
nên tùy thuộc vào các chất hóa học hay ma túy. Ngay cả những lúc hết sức khổ
sở, sầu muộn, sa đọa, và tuyệt vọng, chúng ta cũng phải sẵn sàng
bắt đầu tu tập với tình trạng đó, thay vì dùng ma
túy để xua đuổi những đau khổ và tuyệt vọng của mình.
Khi hành thiền, chúng ta
bắt đầu với những trạng thái hiện tại của thân và tâm và quán sát nó;
chúng ta chấp nhận nó như là nó. Cho dù biết rằng hành thiền không thể nhanh
chóng đưa chúng ta hòa nhập vào vũ trụ như ma túy và cần sa, nhưng chúng
ta vẫn không dùng ma túy. Ma túy và cần sa không phải là Trung Đạo cho dù
chúng rất hiệu quả ngay lúc đó. Trí tuệ, sự hòa hợp và thống nhất với
vũ trụ chỉ có với Chánh tư duy nghĩa là với cái nhìn mọi vật như chính nó, chứ
không phải bằng ma túy. Chánh tư duy sẽ giúp chúng ta thấy rằng tuyệt vọng chỉ
là một điều kiện của tâm thức mà chúng ta có thể buông bỏ, chứ không phải
là cái mà chúng ta phải tiêu diệt và triệt hạ.
KHẲNG ĐỊNH VÀ GÌN GIỮ NỀN
TẢNG ĐẠO ĐỨC CỦA CHÚNG TA
Trong lịch sử loài người, đây
một thời kỳ đặc biệt bất bình thường, trong đó hình như ai cũng có thể làm
bất cứ điều gì, ngoại trừ bạo động giết người -- và ngay cả việc
giết người cấm kỵ này cũng ngày càng trở nên bình thường và phổ quát! Điều nầy
quả thật đã nuôi sống các tờ báo hàng ngày với những tin giật gân về các vụ
giết người đẫm máu! Trong quá trình tiến hóa của nhân loại, chúng ta đang
ở vào thời điểm mà con người không biết làm thế nào để đem thế giới
xích lại gần nhau. Mặc dù có Liên Hiệp Quốc, chúng ta cũng không tin ở
hiệu năng của tổ chức nầy; chúng ta không thể nương tựa vào sự lãnh đạo
của Liên Hiệp Quốc. Không có một định chế hay cơ sở nào mà mọi người trên
thế giới ngày nay có thể kính trọng và ngưỡng mộ.
Về tôn giáo, chúng ta bị chia thành
nhiều nhóm -- và những nhóm nầy lại nổi tiếng về tranh giành và giết hại lẫn
nhau! Những người có cùng một đức tin vẫn có thể giết hại lẫn nhau, vì thế
ngay cả một tín ngưỡng chung cũng không mang lại đoàn kết và thống nhất. Những
gì chúng ta cần làm để xây dựng nền tảng chung cho hòa bình nhân loại
chính là tôn trọng và thực hành năm giới vừa nêu trên -- chỉ thế thôi. Cho dù
chúng ta theo thuyết nhất thần hoặc đa thần, vô thần hay hữu thần và
Thượng Đế của chúng ta là nam hay nữ, miễn là chúng ta tôn trọng, giữ gìn
và thực hành những gì có thể thật sự thực hành; đó là năm giới vừa nêu
trên. Đây là điều quan trọng nhất trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Chúng ta thường hiểu về giới như cái
gì tiêu cực không nên làm; như không sát sanh hay bạo động; không trộm
cắp; không tà dâm; không nói dối; không dễ duôi uống rượu và các chất say. Khi
thọ giới bằng tiếng Pali, chúng ta dùng chữ "veramani," có
nghĩa là "cố ý tránh xa." Tuy nhiên, giữ giới trong đạo
Phật không có nghĩa là chọn một tư thế tuyệt đối đúng đắn rồi phán rằng,
"Ngươi không được làm như thế." Trái lại, điều quan trọng là
người giữ giới tự nguyện tránh xa việc giết hại các chúng sanh khác. Về tâm lý,
việc áp đặt giới sẽ tác động trên bạn như thế nào? Khi vừa nghe
Thượng Đế phán rằng, "Ngươi không được sát sanh," tự nhiên chúng
ta sẽ phản ứng ngược lại và nghĩ đến việc sát sanh. Lịch sử của chúng
ta là đầy máu và nước mắt, và nhân danh Thượng Đế, con
người đã chém giết nhau rất nhiều. Nhưng giữ giới không sát sanh
là điều để chúng ta suy tưởng. Khi thọ giới không sát sanh, bạn nghĩ
rằng, "Từ bây giờ tôi sẽ cẩn thận hơn, tôi sẽ sống thế nào để không
hãm hại mạng sống của những chúng sanh khác." Đó là lời cam kết mà bạn
tuyên bố và tự hứa. Không phải Thượng Đế ra lệnh bạn mà đó là cái
gì đến từ tấm lòng, từ sự tự trọng và liêm sỉ của bạn như một con người,
từ tấm lòng bi mẫn, và từ sự tôn trọng sinh mệnh của người khác. Do đó,
bạn không sát sanh, không phải vì sợ sẽ bị trừng phạt nhưng vì những suy nghĩ
và hiểu biết về cuộc đời, vì nhận thức rằng những chúng sinh khác cũng
muốn được sống như bạn.
Khi tu viện Chithurst của chúng tôi
vừa mua hồ Hammer, có một vị ở gần đây sống bằng nghề câu cá. Đã có
lần tôi ghé thăm và xem ông ta bắt cá. Ông là một người bắt cá chuyên nghiệp.
Ông đứng trên bờ suối, còn tôi đứng trên cây cầu đá
nhỏ. Một con cá lớn bị mắc lưỡi câu và đang vùng vẫy để thoát
chết. Con cá sợ hãi kinh khủng và đang tuyệt vọng tìm cách thoát khỏi
lưỡi câu. Ông câu cá rất khôn ngoan và thủ đoạn. Ông để con cá
bị mắc lưỡi câu vào lại trong nước và cho nó bơi một lúc rồi lại kéo nó lên bờ.
Ông làm như thế nhiều lần cho đến lúc con cá mệt lã. Cuối cùng ông kéo con
cá lên và đập mạnh vào đầu nó.
Về sau, một câu lạc bộ câu cá nhiều
lần đến thuyết phục tôi cho họ sử dụng hồ. Họ nói, "Chúng tôi sẽ
không bắt cá đâu. Chúng tôi chỉ bắt cá lên rồi sẽ thả xuống nước ngay
vì đây là trò chơi giải trí của chúng tôi. Như ông đã biết, thật ra
chúng tôi không muốn ăn thịt cá hay làm bất cứ điều gì khác; chúng
tôi chỉ muốn câu cá lên rồi thả cá xuống nước." Nhưng khi thấy được
sự sợ hãi khủng khiếp của con cá mắc câu, chúng ta chợt nhận ra rằng đó
cũng sẽ là cảm giác khi thình lình chúng ta cắn phải lưỡi câu và khi ai đó
bắt chúng ta ra khỏi nước. Chúng ta cảm nhận rằng chúng ta sẽ phản ứng y
hệt như con cá. Cho dù đối với người thợ câu, con cá chỉ là một sinh vật
ngu si và đần độn, không có chút tình cảm gì và mạng sống của nó là
không đáng kể, nhưng nó là một sinh vật đang kinh sợ. Con
cá đó kinh sợ khủng khiếp cho mạng sống của nó; đó là phản ứng tự nhiên mà
tất cả sinh vật đều có, ngay cả con người.
Khi suy tưởng theo cách nầy, bạn sẽ
thấy là nỗi lo sợ khủng khiếp không phải là chuyện riêng của một chúng sanh
nào đó. Nỗi lo sợ của con cá cũng giống hệt như nỗi lo sợ của chúng
ta khi mạng sống bị đe dọa. Bạn sẽ bắt đầu tôn trọng sinh mạng
của các loài thú vật; bạn sẽ hiểu là thú vật cũng có tình cảm và nhạy cảm. Sợ
hãi là tình cảm mà tất cả chúng ta ai cũng trải qua trong cuộc đời, và
chúng ta có thể thấy được điều nầy trong đời sống của các thú vật khi
chúng trải qua kinh nghiệm sợ hãi đó. Từ những suy nghĩ đó,
chúng ta sẽ không muốn làm bất cứ chúng sanh nào sợ hãi cả. Chúng ta sẽ không
tác ý hãm hại mạng sống các chúng sanh khác.
Nền tảng đạo đức nầy tự nó sẽ
nói lên tiếng nói cho tất cả truyền thống tôn giáo. Chúng ta cần
khẳng định và gìn giữ nó vì đây là con đường dẫn đến hòa bình
thế giới. Chúng cần một thỏa thuận về đạo đức và luân lý chứ không cần một
thỏa thuận về việc giảm trừ vũ khí hạt nhân. Thỏa thuận về việc giảm trừ vũ khí
sẽ không giải quyết được vấn đề nếu chúng ta vẫn chưa đồng ý với nhau thế
nào là một hành vi đạo đức đúng đắn, hợp lý và tử tế đối với chúng ta
như những con người hay những siêu cường. Thế giới ngày nay vẫn chưa nhất trí
về một hệ thống đạo đức đúng đắn và đáng tôn trọng cho con
người. Cho dù bạn theo tôn giáo nào đi nữa, năm giới của đạo
Phật mà tôi vừa mô tả chính là bản hướng dẫn chúng ta trên đường tiến
đến hòa bình thế giới. Sự thỏa thuận, cho dù chỉ thỏa thuận trên giới đầu
tiên không sát sanh, cũng là một tiến bộ vô cùng to lớn cho nhân loại. Chỉ thỏa
thuận về việc không cố ý sát hại mạng sống của con người tự nó là một việc làm
cao quý và tốt đẹp, cao quý và tốt đẹp hơn cả thỏa thuận giảm trừ vũ
khí hạt nhân. Do đó, giới đầu tiên là quan trọng nhất.
BỐ THÍ VÀ RỘNG LƯỢNG
Là Phật tử, chúng ta cần mở rộng
trái tim của mình. Ngoài việc cố ý tránh xa những hành động và lời nói
nhằm hãm hại người khác, chúng ta phải rất rộng lượng. Đức bố thí (tiếng Pali
là dana) rất được ca ngợi trong đạo Phật. Ở tất cả các
nước Phật giáo, bạn sẽ thấy dân chúng vô cùng rộng lượng và bố thí. Trẻ
con được khuyến khích bố thí từ lúc mới lọt lòng mẹ. Bạn sẽ thấy các bà mẹ
bồng bế trẻ con đến những nơi chư tăng đi bát để các em dâng những mẩu
thức ăn nhỏ xíu vào bát của chư tăng. Vì được tập bố thí từ lúc nhỏ
nên đạo lý chia sẻ những gì mình có với người khác đã trở thành một
phần bản chất của các em.
Đức tính bố thí và rộng lượng của
nhân dân Thái lan đã gây ấn tượng sâu sắc trong đời tôi. Nếu tôi gặp năm em bé
nhỏ trong làng và cho một trong năm em đó một lon nước ngọt, thì không cần ai
bảo, trong mười lần, chín lần các em sẽ tự chia lon nước ngọt với nhau để
cùng uống. Về phần tôi, khi còn ở tuổi đó, tôi không thể làm như vậy. Tôi
sẽ nói, "Ông ấy cho tôi thì nó là của tôi." Và nếu chị tôi muốn uống
một chút, tôi sẽ nói, "Chị không được uống đâu." Nhưng ở
Thái Lan, đặc biệt là ở miền quê nơi mà những giá trị truyền thống
của đạo Phật vẫn còn được duy trì và gìn giữ, trẻ con được hun
đúc và huân tập ngay từ nhỏ tinh thần bố thí vô cùng cao thượng và đẹp
đẽ. Chúng rất hoan hỷ chia nhau chai nước ngọt. Ngay cả nếu mỗi em
chỉ được uống một ngụm nhỏ, chúng cũng vô cùng sung sướng. Chúng rất
thưởng thức ngụm nước nhỏ ấy. Khi suy nghĩ về việc ấy, bạn sẽ thấy rằng thà
uống một ngụm nước nhỏ mà hoan hỷ và sung sướng còn hơn là một mình uống cả
chai nước, và không chia cho ai cả.
Hiện nay, sự phồn vinh của các nước
phương Tây, sự nghèo đói của các nước Thế giới thứ ba và tình trạng bốc
lột trong đó chúng ta (các nước phương Tây) kiểm soát phần lớn nền kinh tế
các nước nầy đã làm nảy sinh nhiều vấn đề. Về mặt đạo đức, tình
trạng một bên có quá nhiều thuận lợi còn một bên không có gì cả quả là không
ổn; và điều nầy không thể tiếp tục lâu dài. Bất cứ cái gì bất công và bất
hợp lý sẽ sụp đổ và thay đổi. Là những người có lý tưởng đạo đức
và chính trực, chúng ta không muốn tình trạng nầy tiếp tục. Tôi nhận định
rằng tôi thà có một mức sống thấp mà chia sẻ của cải vật chất với người chung
quanh hơn là tích trữ, giành giật cho mình tất cả và sống cuộc đời vật chất
giàu sang.
Bố thí là một hành động hiến
dâng cao đẹp; đó là một thái độ cởi mở, rộng lượng, và dâng hiến. Đó không
phải là hành động chiếm hữu và giành giật cho riêng mình. Bố thí luôn thể hiện
bằng hình tượng một bàn tay mở rộng. Đó là cho ra những gì mình có dư, và thậm
chí cho ra những gì mà mình yêu quý và cần thiết. Đây là một đức tính cao đẹp.
Nó sẽ hỗ trợ và nâng cao đời sống tu tập của chúng ta.
CON ĐƯỚNG PHÁT TRIỂN TÂM LINH
Việc làm mang lại nhiều phước báu
sau cùng là phát triển tâm (tiếng Pali là bhavana). Bố thí (dana)
và Trì giới (sila) chuẩn bị nền tảng cho con đường phát triển tâm
linh. Bhavana -- đó là con đường tu tập để phát triển tâm
chánh niệm, suy nghĩ với trí tuệ, tinh thần cởi mở tiếp nhận cuộc sống, và học
tập về cuộc sống -- là một tiến trình phát triển không ngừng xuyên qua cuộc
sống làm người nầy của chúng ta. Đó không phải là việc mà bạn chỉ làm trong
những khóa thiền dài ngày. Bhavana hay Phát triển tâm là nếp
sống của chúng ta -- sống với chánh niệm, trí tuệ, tỉnh giác, và cởi mở. Đó là
cách nhìn cuộc đời sáng suốt và rõ ràng như chúng ta đang sống thật và thể
nghiệm nó và có thể giúp chúng ta ứng xử với những thay đổi của cuộc đời
với đôi mắt trí tuệ. Nếu tự đóng kín mình trong thế giới nhỏ bé và
ích kỷ, chúng ta sẽ không thể nào thích ứng được với những đổi thay của
cuộc sống. Chúng ta sẽ cảm thấy bị đe dọa và hoảng sợ khi
có điều gì bất thường hay những đổi thay làm chúng ta mất tự tin.
Nhưng với tâm mở rộng để tiếp nhận cuộc đời và quán tưởng sự vận hành của
các pháp, chúng ta có thể thích ứng với bất cứ hoàn cảnh nào -- cho dù hoàn
cảnh nầy xấu hơn hay tốt hơn. Tâm từ bi, tính liêm khiết và lòng tự trọng sẽ là
bản chỉ đường cho chúng ta. Nó sẽ giúp chúng ta điều chỉnh hợp
thời và đúng lúc với bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc đời.
Trong đời sống thường ngày,
chúng ta thường không hội đủ những điều kiện thuận lợi để phát triển đời
sống tâm linh, vì thế, bạn phải tập sử dụng những gì mình đang có vào việc
tu tập. Có thể bạn sẽ thấy hoàn cảnh sống hàng ngày là chướng ngại, quấy rầy và
ngăn cản bạn, rồi bực bội và bất mãn với nó. Nếu bạn cho là phải có
những điều kiện thật đặc biệt mới tu tập được, thì bạn sẽ thấy những sinh
hoạt hàng ngày như làm việc ở cơ quan, lau dọn nhà cửa, chăm sóc gia đình là
một gánh nặng lớn. Hoàn cảnh chung quanh sẽ luôn là những chướng ngại trừ khi
nào bạn thay đổi cách nhìn và sử dụng chúng cho việc tu tập. Chúng ta phải
có Chánh Tư Duy, hay Hiểu biết đúng đắn để thấy được những gì
cần được khéo léo sử dụng cho việc tu tập trong cuộc sống hàng ngày.
***
------------------------------
Câu hỏi:
* Giới
luật của đời sống tu viện hỗ trợ việc tu tập như thế nào?
Trả lời: Đối với chư tăng ni, giới luật ở tu viện là chiếc xe
đưa họ đến Niết Bàn. Một khi đã lên xe rồi, bạn phải chấp nhận những giới
hạn của nó, và nó sẽ đưa bạn đến nơi mà bạn muốn đến, do đó, bạn nên
ở lại trên xe đó. Đôi khi, bạn không muốn ở lại trong xe -- bản thân
tôi đã từng muốn đổi xe khác -- nhưng chỉ cần phó thác
cuộc đời cho chiếc xe đó, cuộc sống của bạn sẽ trở nên vô cùng đơn
giản. Bạn sẽ không đổi hướng nầy hay hướng nọ. Chiếc xe chạy
suốt và thẳng đến mục tiêu của nó. Đó là lý do tại sao Đức Phật thiết lập
giới luật của đời sống tu viện: Ngài nhận ra rằng thiết lập giới luật là một
hành động bi mẫn vì nó giúp chúng ta tiến đến mục tiêu duy nhất: đó là sự
giải thoát.
Trong đời sống tại gia, người
ta luôn có khuynh hướng đổi xe. Họ chọn một chiếc xe rồi nhàm chán với nó.
Họ bỏ xe đó và đi chiếc khác. Vì thế, cuối cùng họ không đi
đến đâu cả. Đây chính là vấn đề.
Chúng ta phải nhận ra rằng chúng
ta đang sống trong một xã hội nhiễu loạn và gần như mất phương hướng;
nhưng cũng chính xã hội ấy lại chứa đựng nhiều tiềm năng cho sự phát triển
tâm linh con người. Xã hội phương Tây có khuynh hướng cung cấp cho con
người những thú vui giải trí không thể nào kể xiết được, với những trò
chơi kỹ thuật cao cấp và những thú vui nho nhỏ, những lôi cuốn và hấp dẫn nhằm
thỏa mãn dục lạc con người. Những thú vui nầy hấp dẫn và đưa bạn từ lạc
thú nầy đến lạc thú khác.
Nhưng dần dần, ngày càng nhiều người
phương Tây nhận ra rằng họ không cần những thú vui giải trí nữa -- họ đã
có đủ chán rồi. Họ nhận ra rằng có một cái gì đó quan trọng và
cao quý hơn là kinh nghiệm chỉ làm một con người trôi dạt không phương hướng
trong một xã hội tràn ngập những tiện nghi vật chất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét