Ajahn Sumedho
PHẦN I - TIẾP CẬN VỚI PHÁP
CHƯƠNG 2
TỨ DIỆU ĐẾ
Lúc Đức Phật vừa đại ngộ dưới
cội bồ đề, Ngài nghĩ, "Chắc sẽ không có người hiểu được những gì ta
vừa chứng ngộ; nó quá vi tế. Vì thế, ta không nên bận tâm tìm cách giải thích;
Ta không hy vọng gì nữa về việc nầy và sẽ tiếp tục ngồi dưới cội
bồ đề."
Nhưng lúc đó, thần Phạm thiên
Sahampati, vị tượng trưng cho lòng bi mẫn với tất cả chúng sanh, hiện ra và
thưa với Phật, "Bạch Thế Tôn, con thấy vẫn có những người với đôi mắt
chỉ dính chút bụi mờ. Cung thỉnh Ngài giảng Pháp vì lợi lạc của số người
ít ỏi nầy." Đức Phật nghĩ, "Thế thì ta sẽ cố gắng. Ngồi mãi dưới gốc
cây bồ đề nầy không hữu ích cho ai cả. Vả lại, ta cũng chưa có
ý định làm gì khác." Rồi Ngài tự hỏi, "Thế thì ta nên giảng Pháp
cho ai?" Sau khi đắn đo suy nghĩ, Ngài quyết định đi đến thành
Benares tìm lại năm người bạn đã cùng tu khổ hạnh với Ngài và đã rời bỏ
Ngài ra đi khi họ nghĩ rằng Ngài không còn đủ ý chí để cùng tu khổ
hạnh với họ.
Khi Đức Phật còn ở bên
cạnh những người bạn nầy, Ngài là một nhà tu khổ hạnh siêu việt. Thân Ngài chỉ
còn như một bộ xương, hốc hác, với đôi mắt thụt sâu, vì Ngài tự ý
nhịn đói để nhiếp phục những cơn đói khát dữ dội. Ngài tu khổ hạnh
tuyệt hay đến nỗi ngày nào mà Ngài còn theo phép tu nầy, năm người bạn nầy
cho Ngài là một người kỳ diệu và phi thường. Tuy nhiên, cuối cùng Ngài nhận ra
rằng không ăn uống để bồi dưỡng cơ thể và để cho cơ thể bị bệnh hoạn
yếu đuối quả là phí phạm thời giờ, nên một hôm Ngài quyết định uống một
chút nước cháo. Khi năm người bạn thấy Ngài ăn cháo, họ phẫn nộ cho là
Ngài đã mất ý chí tu khổ hạnh nên từ bỏ Ngài và ra đi.
Đức Phật vẫn nghĩ có lẽ năm vị nầy
sẽ hiểu được những gì Ngài vừa chứng ngộ. Nên Ngài quyết định đi đến thành
Benares để tìm họ. Khi Đức Phật đến Lộc Uyển (Vườn Nai)
ở Saranath, gần thành Benares, vừa thoáng thấy Ngài, năm vị tu khổ hạnh đã
nhận biết ngay là Ngài đã chứng ngộ và hiểu biết một điều gì đó
rất sâu sắc và quan trọng, nên họ ngồi xuống và yêu cầu Ngài khai ngộ cho họ.
Thế là Đức Phật giảng bài pháp đầu tiên mà ngày nay chúng ta biết
dưới tên gọi Dhammacakka Sutta, Kinh Chuyển
Pháp Luân hay Bài Pháp Khởi Động Bánh Xe Của Sự Thật.
Bài pháp nầy là lời giảng dạy sâu
sắc. Nó là một bài pháp để chúng ta thực hành và chứng ngộ. Nó không
phải là một bài luận văn triết học xuất chúng; trái lại, nó là kim chỉ nam giúp
chúng ta trên lộ trình tu tập và giác ngộ. Và kim chỉ nam nầy chính là giáo lý
về Tứ Diệu Đế hay Bốn sự thật thánh thiện. Lời dạy của Đức Thế
Tôn về Tứ Diệu Đế là dành chung cho tất cả các hệ phái trong Đạo Phật và
nó là cái nhìn trực tiếp và xuyên thấu vào chính bản chất của sự vật.
KHỔ ĐẾ HAY SỰ THẬT THÁNH THIỆN
THỨ NHẤT
Khổ Đế là sự thật đơn
thuần về kinh nghiệm bất toại nguyện, bất mãn, khổ đau hay phiền não.
Sự đau khổ này, tiếng Pali gọi là dukkha, là điều mà
chúng ta có thể thấy một cách trực tiếp. Trong chúng ta, không ai mà không cảm
nhận tình cảm thất vọng, khó chịu, bất mãn, hoài nghi, lo sợ, hay tuyệt vọng
một lúc nào đó trong đời mình. Khổ Đế có nghĩa là không có gì là toàn
thiện hoặc hoàn hảo trong đời dù cho bạn có tất cả những điều bạn
muốn. Đau khổ không nhất thiết nghĩa là mẹ bạn không yêu thương bạn, mọi
người đều ghét bỏ bạn và bạn bị nghèo túng, hiểu lầm, lợi dụng và bốc lột. Bạn
có thể được mọi người quý mến, cha mẹ thương yêu và đối xử tuyệt
vời, có đầy đủ sắc đẹp, của cải và tất cả sự may mắn mà
người đời có thể có được. Nhưng bạn vẫn không toại nguyện. Bạn vẫn
cảm thấy có một cái gì đó không hoàn hảo, một cái gì đó chưa toàn
thiện, một cái gì đó chưa toại nguyện.
Không cần biết bạn có bao nhiêu của
cải, địa vị, ân sủng và may mắn trong cuộc đời, nội tâm bạn vẫn luôn
có tình cảm hoài nghi và tuyệt vọng. Vẫn luôn có quá trình già nua của thân
xác; vẫn luôn có bịnh tật và sự chết chóc trong tấm thân nầy. Và những vấn nạn
siêu hình vẫn dai dẳng ám ảnh: Tại sao tôi sinh ra trong cõi đời
nầy? Những gì sẽ xảy ra khi tôi chết? Chết là gì? Đây là những câu hỏi mà
chúng ta không thể trả lời: Tại sao tôi được sinh ra? Những gì xảy ra
khi tôi chết? Tôi sẽ lên thiên đàng hay xuống địa ngục, hay sẽ hoàn
toàn tịch diệt? Phải chăng tôi có một linh hồn bất tử? Có phải tôi sẽ tái sinh
thành con kiến hay con cóc? Tất cả chúng ta đều muốn biết những gì xảy ra
khi chúng ta chết. Có thể chúng ta sợ phải đương đầu với sự
thật nhưng vấn đề vẫn nằm đó và tiếp tục ám ảnh chúng ta.
Khổ Đế chỉ cho chúng ta thấy sự
đau khổ chung của loài người. Chúng ta đau khổ vì phải xa cách người mình
yêu mến, gần gũi người mình chán ghét, không được những gì mình mong muốn
và phải chịu đựng những thay đổi tự nhiên của cơ thể trong quá trình già,
bịnh và chết. Đây là số phận chung của con người mà chúng ta có thể quán tưởng.
Vì thế Đức Phật dạy, "Có một sự thật thánh thiện, đó là sự
khổ đau (dukkha)." Với lời dạy nầy, Ngài chỉ ra điều mà
tất cả chúng ta đều có thể biết được ngay bây giờ. Ở đây, vấn đề
không phải là tin ở sự khổ đau mà là trực tiếp trải qua sự khổ đau,
nỗi cơ cực, đau đớn, sợ hãi và lo âu của chính bạn.
Xin hỏi có ai mà không bao
giờ đau khổ không? Làm sao chúng ta có thể trực tiếp kinh nghiệm
những khổ đau nầy chính là con đường chứng ngộ tâm linh mà tôi muốn
trình bày cùng các bạn. Bạn bắt đầu đi trên con đường nầy bằng cách
chứng nghiệm những gì bạn có thể chứng nghiệm. Lúc đầu, bạn không nhắm đến
mục tiêu Niết Bàn hay trạng thái Bất Tử; bạn không chọn một quan điểm
triết học hay siêu hình. Vì nếu phải chọn một quan điểm hay lập trường
nào đó, bạn sẽ nhìn mọi việc lệch lạc. Thí dụ, nếu tin ở Thượng Đế,
bạn sẽ thấy Thượng Đế có mặt ở tất cả mọi nơi, nhưng nếu không tin ở Thượng Đế,
bạn sẽ không thấy Thượng Đế ở bất cứ nơi nào. Bất kỳ tư thế nào, khi đã
chọn, nó sẽ luôn bóp méo cái nhìn của bạn và bạn sẽ diễn giải kinh nghiệm của
mình qua cái nhìn lệch lạc đó. Nhưng phương pháp của Đức Phật
là, thay vì cho chúng ta một tư thế, một lập trường để từ đó chúng ta nhìn
mọi việc trên đời, Ngài chỉ cho chúng ta thấy sự khổ đau, điều mà ai
cũng có thể dễ dàng nhận biết trong cuộc sống.
Tôi đã từng nghe một vài người
nói rằng họ chưa bao giờ đau khổ cả. Tôi thật kinh ngạc là họ có thể
nói như vậy. Đối với tôi, cuộc đời nầy luôn có quá nhiều đau khổ. Nói điều
này không phải vì trong đời tôi đã gặp nhiều bất hạnh lớn lao. Thật ra,
tôi là một người rất may mắn. Cha mẹ tôi đối xử rất tốt với tôi và
tôi đã có nhiều thuận duyên trong đời; Không ai đối xử tệ
bạc hay nhục mạ tôi. Nhưng sống trên đời nầy tự nó là khổ. Đó
là dukkha. Dukkha là nỗi khổ gắn liền với cuộc
sống. Chỉ việc được sanh ra làm người tự nó là đau khổ. Nó là
nỗi khổ gắn liền với đời người cho dù bạn có tất cả và cuộc đời bạn
là vô cùng tươi đẹp và sung sướng.
Trong chúng ta có vài bạn phải chịu
nhiều bất hạnh, như gia đình xung đột hoặc tan vỡ Trong trường
hợp nầy, chúng ta có lý do để than vãn rằng, " Người đó làm
tôi đau khổ. Nếu người đó không có mặt ở đây thì tôi
sẽ được an vui." Chúng ta nghĩ là nếu xua đuổi được tất cả
những gì làm chúng ta đau khổ, chúng ta sẽ được hạnh phúc. Nhưng
sự đời không phải như thế. Phần lớn những người tìm đến Đạo Phật
ngày nay, trong mức độ nào đó, là những người được nhiều ân sủng
trong xã hội. Họ được giáo dục tốt, có nhiều may mắn tạo nên tiền của
và được đi du lịch nhiều nơi v.v… Nhưng dù có nhiều tiện nghi, khoái
lạc và may mắn, họ vẫn không toại nguyện.
Trước hết, dukkha hay
sự đau khổ phải được chứng ngộ, phải được thật sự cảm nhận trong tâm; nói
khác đi, nó phải trở thành một kinh nghiệm được nhận thức trọn vẹn
và đầy đủ. Chúng ta đang sống trong một điều kiện rất giới hạn,
đó là tấm thân thế tục nầy. Một tấm thân dễ bị tác động bởi khổ đau, dục
lạc, và nhiệt độ nóng lạnh. Nó sẽ già nua và năm giác quan của nó sẽ
suy yếu dần; Nó sẽ bệnh và chết. Và tất cả chúng ta đều biết những điều
nầy và biết rằng cái chết đang chờ tất cả chúng ta. Cái chết đang có mặt
tại đây. Cái chết là điều mà con người không thích nghĩ đến hay
tìm cách nhận diện. Nhưng nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Ngày nào mà chúng ta vẫn không hiểu
về luân hồi sinh tử hay về những chu kỳ của sự sống và sự chết, ngày nào mà
chúng ta vẫn không hiểu chính chúng ta, và ngày nào mà chúng ta vẫn còn sống
cuộc đời dễ duôi và ích kỷ, chúng ta sẽ tiếp tục đau
khổ. Khi đau khổ quá nhiều, chúng ta sẽ giật mình tự hỏi, "Tại
sao tôi đang đau khổ?" Đó cũng chính là lúc mà chúng ta bắt đầu
tỉnh ngộ.
Khổ Đế không phải là một lý
thuyết hay tín điều; nó là một tấm bảng chỉ đường. Nó không nói
là tất cả mọi việc trên đời đều khổ sở, sầu muộn và đáng ghê tởm; nó
cũng không khuyên chúng ta phải chối bỏ tất cả. Nó không nói là tất cả mọi vật đều
đang đau khổ, mà trái lại, theo lời của Đức Phật, nó nói rằng "Có sự
đau khổ trên thế gian nầy." Và sự đau khổ nầy là tại đây, ngay
trong cuộc sống nầy. Nó khuyên chúng ta không nên đổ lỗi cho ngoại cảnh là
nguyên nhân làm chúng ta đau khổ. Nó chỉ cho chúng ta thấy rằng không
phải vợ hay chồng, cha hay mẹ, nhà nước hay thế giới nầy làm chúng ta đau
khổ. Trái lại, nó chỉ cho chúng ta thấy rằng sự đau khổ đến từ chính
trong tâm chúng ta và rằng không ai khác hơn ngoài chính chúng ta đã tạo
nên sự đau khổ nầy.
TẬP ĐẾ HAY SỰ THẬT THÁNH THIỆN
THỨ HAI
Tập Đế hay Sự Thật Thánh Thiện
Thứ Hai dạy rằng Dukkha có nguyên nhân và nguồn gốc của nó.
Tập Đế xem xét và ghi nhận kỷ lưỡng và tường tận hơn sự
khổ đau. Tập Đế cho rằng đau khổ là do duyên sinh, hay nói khác đi,
đau khổ có được là nhờ vào nhiều điều kiện. Đau khổ không phải là một
sự thật tuyệt đối. Đau khổ là một sự thật thánh thiện; và chúng ta
cần chú ý đến điểm khác biệt nầy. Chúng ta không nói là trên đời nầy, mọi
vật đều đau khổ, nhưng chúng ta nói là có nỗi khổ luôn gắn liền với cái thế
gian mà chúng ta đang sống và với những giới hạn của kiếp sống nầy. Khi
nhìn khổ đau từ góc cạnh nầy, chúng ta sẽ thấy được những giới hạn của
chúng ta và những gì chúng ta bị dính mắc và trói buộc cuộc đời của chúng
ta trong đó.
Thân thể là một trong những sự vật
mà chúng ta bị dính mắc. Theo quy luật tự nhiên, sắc thân con người là
cái được sinh ra, lớn lên, già nua và chết. Nó không phải là của riêng ta,
thế mà chúng ta vẫn luôn xem nó là của riêng. Thí dụ, khi bạn nói không thích
diện mạo của tôi, tôi nghĩ ngay rằng, "Anh chàng nầy không thích khuôn mặt
của tôi. Khuôn mặt nầy chính là tôi đấy. Như vậy là anh ta không
thích tôi rồi. Tôi rất bất mãn anh ta về việc này." Nếu tôi đồng hóa
sắc thân nầy với chính tôi, thì khi có người mạ nhục nó, tôi sẽ buồn phiền.
Nhưng nếu tôi nhận ra rằng sắc thân nầy không phải là của tôi thì mặc kệ ai nói
gì về khuôn mặt của tôi cũng không sao. Khuôn mặt của tôi là như thế đó
ngay ở thời điểm đó, nó giống như vậy, nó không phải là cái gì của riêng tôi.
Nó thuộc về thế giới tự nhiên, và theo quy luật tự nhiên, nó sẽ già rồi chết.
Khi chúng ta bớt đồng hóa với thân thể nầy, chúng ta sẽ bớt gặp khó khăn
với nó. Thân thể vốn dĩ có được là nhờ vào nhiều điều
kiện. Cứ để nó là nó, thế thôi.
Nếu có được cái nhìn như thế về
thân thể, chúng ta cũng sẽ bớt gặp khó khăn với những người chung
quanh. Chúng ta thường gặp khó khăn với người khác khi chúng ta mang
cái nhìn "đây là tôi và kia là bạn." Nếu không đồng ý với
nhau về một vấn đề nào đó, chúng ta sẽ cãi vã với nhau dữ dội. Chúng ta
bám chặt vào cái nhìn của mình về người khác và từ đó cảm thấy thất vọng
khi người khác không sống theo cái nhìn nầy. Trong đời sống, chúng ta đã
bao lần trải qua những quan hệ đầy ảo tưởng, chúng ta mong mỏi và
chờ đợi nhau rất nhiều để rồi hoàn toàn thất vọng? Chúng ta chờ đợi,
khao khát, rồi thất vọng, vì hầu như không ai trên đời nầy có thể làm cho
chúng ta hoàn toàn hạnh phúc và thỏa mãn. Nếu chúng ta quan hệ với
cuộc đời theo cách nầy, nghĩa là muốn người khác sống theo ý của mình,
chắc chắn mọi người sẽ bằng cách nầy hay cách khác làm chúng ta thất vọng. Và
chúng ta cũng sẽ luôn thất vọng với chính mình vì chúng ta sẽ không bao giờ
trọn vẹn trở thành những gì mà chúng ta mong ước.
Tập Đế khuyên chúng ta không
nên để tâm đến ý kiến hay quan điểm của mình về các sự vật mà nên ghi nhận
sự bắt đầu hay sự sinh khởi của các sự vật nầy. Chúng ta thường không
nhìn thấy sự sinh khởi của các sự vật. Khi ngắm nhìn một sự vật nào đó,
chúng ta liền khởi tâm yêu thích và chạy theo nó hoặc ghét bỏ và chống lại nó.
Tuy nhiên, để thấy được sự sinh khởi của sự vật, chúng ta phải thật sự tỉnh
thức và chánh niệm. Và khi thấy được rằng khổ đau có sự bắt đầu của nó hay
là một cái gì do duyên sinh, chúng ta sẽ đổi cái nhìn về chính sự khổ đau.
Tập Đế quán tưởng sự sinh khởi
của khổ đau bằng cách xem xét ba loại tham ái. Tiếng Pali gọi ba tham ái
nầy là kama tanha (ái dục), bhava tanha (ái
hữu), vibhava tanha (ái vô hữu hay ái diệt). Kama
tanha hay ái dục là lòng tham đắm dục lạc, những thú vui thuộc về
giác quan; bhava tanha hay ái hữu là lòng ham muốn
trở thành một cái gì đó, một nhân vật nào đó và vibhava tanha hay
ái vô hữu là ước muốn dứt bỏ hay hủy diệt một cái gì đó.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta
có thể thấy được cả ba loại tham ái nầy. Khi cảm thấy buồn chán, bạn
liền đi tìm một món gì đó để ăn, hay mở máy truyền hình để xem,
hay uống một cái gì đó, hay gặp một người nào đó để trò chuyện. Tất cả những
hoạt động nầy thể hiện lòng tham muốn những thú vui thuộc về giác quan hay
ngũ dục. Nhưng sau khi đã nhàm chán với ngũ dục, bạn có thể quay sang tìm
cách cống hiến đời mình cho văn học bằng cách trở thành một nhà văn nổi
tiếng, cho việc nấu nướng bằng cách trở thành một người đầu bếp tài ba,
hay cho việc tu tập bằng cách trở thành một đấng giác ngộ. Tất cả
những mơ ước nầy là ái hữu, nghĩa là mong trở thành một cái gì đó. Và
khi nhàm chán với dục lạc, với sự thành đạt trên đời, bạn chỉ muốn
chối bỏ chính sự hiện hữu của bạn. Ngủ nhiều là một hình thức
chìm đắm trong vibhava tanha hay ái vô hữu, tức là muốn
chối bỏ hay quên bẵng đi cuộc sống nầy. Nhưng khi vừa thức dậy sau
một giấc ngủ dài, bạn lại bắt đầu mơ ước trở thành một thành một cái
gì đó hay được sống trong dục lạc và vì thế bạn lại tìm một cái gì đó
để ăn, để hút, để uống, để ngắm nhìn, để đọc, để suy tư, cho đến khi bạn
trở nên nhàm chán và tìm cách quên đi chính những kinh nghiệm
nầy! Thưa bạn, khi bị ám ảnh, kinh sợ hay giận dữ về một điều gì, có
phải bạn tìm cách diệt trừ ngay những tình cảm này? Bạn la hét với chính bạn,
"Tánh tôi rất nóng nảy. Tôi không chịu được nữa." Bất cứ
lúc nào sân hận, ganh tỵ và sợ hãi v.v… khởi lên trong tâm, bạn đều tìm
cách trừ khử chúng. Đó chính là vibhava tanha hay ái vô hữu,
ái diệt, tức là ham muốn dứt trừ một trạng thái tâm mà bạn không ưa thích.
Ba loại tham ái nầy là điều
kiện sinh khởi của khổ đau. Tập Đế dạy chúng ta rằng dính mắc vào
tham ái là nguồn gốc hay nguyên nhân của dukkha. Khi tỉnh thức
và chánh niệm, chúng ta sẽ thấy sự sinh khởi của khổ đau, và cùng
lúc đó, chúng ta sẽ thấy được sự dính mắc của chúng ta với tham ái.
Nhưng cả ba loại tham ái
nầy đều có sự bắt đầu. Chúng sinh khởi, và do đó, không
phải là những điều kiện thường hằng của tâm thức; chúng không phải là
sự thật tuyệt đối.
DIỆT ĐẾ HAY SỰ THẬT THÁNH
THIỆN THỨ BA
Sự Thật thánh thiện thứ ba hay
Diệt Đế là sự thật của sự chấm dứt khổ đau. Khi thấy và
biết được sự chấm dứt khổ đau, chúng ta sẽ có khả năng nhìn xuyên thấu và
chịu đựng tác động của một số tham ái, thay vì chỉ biết chạy theo
thói quen chống lại hay tìm cách thỏa mãn chúng. Chúng ta sẽ bớt dính mắc vào
tham ái và bớt chăm lo thỏa mãn những tham muốn của mình. Chúng ta để cho
tham ái chấm dứt một cách tự nhiên. Chúng ta trải qua và chịu đựng được sự
nhàm chán hay đau đớn, hoài nghi và tuyệt vọng, và hiểu rằng chúng sẽ chấm
dứt. Nếu hiểu theo nghĩa đen thì thái độ chấp nhận và chịu đựng
khổ đau nầy có vẻ thụ động, bi quan và yếm thế. Nhưng nếu nhìn từ một
góc độ khác, khả năng chịu đựng, trải qua và thấy được sự chấm dứt
của khổ đau nầy sẽ giúp chúng ta trưởng thành về tâm lý và tình cảm.
Người đời thường cho rằng mọi
việc sẽ tốt đẹp hơn. Chúng ta sẽ hạnh phúc và giàu có hơn, chúng ta
sẽ được nghỉ ngơi và vui chơi nhiều hơn, và rồi mọi việc trong đời
sống sẽ đẹp đẽ hơn. Chúng ta sẽ luôn luôn tiến về phía trước. Khi còn trẻ
và ngây thơ, chúng ta tin cuộc đời là như thế; chúng ta tôn thờ tuổi trẻ
cùng với sự thành hình, phát triển và tiến bộ gắn liền với tuổi trẻ. Nhưng ngày
nay, nhiều người đã mệt mỏi và chán ngán tất cả những gì gắn liền với cái
nhìn lạc quan "tếu" nầy. Họ xem thái độ trên là thể hiện sự non
nớt về tình cảm; và dưới con mắt của người Phật tử, sự mệt mỏi và chán ngán nầy
không phải là dấu hiệu bi quan mà là biểu hiện của sự trưởng thành về tình cảm
và tâm lý. Đó là dấu hiệu họ đang quan sát cuộc đời kỷ lưỡng hơn và đã hiểu quy
luật phát triển của cuộc sống. Khi bạn có khả năng thấy, ghi nhận và
hiểu được sự chấm dứt của khổ đau, trí tuệ sẽ phát sinh. Khi
hiểu được đầy đủ và trọn vẹn sự chấm dứt của khổ đau, chúng ta sẽ rất
bình thản, vì khi chúng ta để cho mọi việc chấm dứt một cách tự nhiên và
không tìm cách loại trừ nó, tâm chúng ta sẽ thanh tịnh và tĩnh lặng.
Khi bạn tìm cách trừ diệt sự lo sợ
hay giận dữ thì điều gì sẽ xảy ra? Bạn sẽ chỉ trở nên bồn chồn hoặc chán
nản và để dứt trừ trạng thái bồn chồn hay chán nản này, bạn lại tìm một
cái gì đó để ăn, để hút, để uống, hay đi làm một việc gì khác. Nhưng nếu
bạn biết chờ đợi và chịu đựng sự bồn chồn và thôi thúc của tham ái,
sân hận, hoài nghi, tuyệt vọng và những cơn dã dượi buồn ngủ, và nếu bạn quan
sát được sự chấm dứt của những trạng thái tâm lý nầy, tâm bạn sẽ bình tĩnh và
sáng suốt. Đây là điều mà bạn sẽ không bao giờ có được nếu bạn cứ luôn chạy
theo cái gì đó ở bên ngoài.
Đây là ý nghĩa và tác dụng của công
phu hành thiền. Nếu bạn ngồi thiền và kiên nhẫn chịu đựng, tâm bạn sẽ đi
vào tĩnh lặng. Sự tĩnh lặng nầy sinh khởi vì bạn không còn tìm cách để trở
thành một cái gì đó hay diệt trừ một cái gì đó. Đó là sự tĩnh lặng
nội tâm hay thoải mái trong tâm hồn trong đó bạn không còn gắng sức vùng
vẫy để trở thành một cái gì đó (ái hữu), để thỏa mãn dục lạc (ái
dục), hay để diệt đi những phiền muộn (ái vô hữu). Bạn sẽ trở nên
thoải mái với những trạng thái phiền muộn nầy. Bạn bắt đầu sống chung một
cách bình thản và dễ chịu với những đau đớn về thể xác, bồn chồn và khổ
tâm của mình v.v… Và rồi bạn thấy rằng tâm của bạn sẽ rất trong, rất sáng và
rất an tĩnh.
Bây giờ, chúng ta sẽ thấy là
những điều kiện được sinh ra rồi mất đi nầy là không có tự ngã. Thật ra,
thế giới vật chất chung quanh chúng ta là do nhiều điều kiện cấu
tạo; Thí dụ như tất cả những gì chúng ta thấy được, cả con mắt của
chúng ta, và nhãn thức chỉ sinh ra khi có sự tiếp xúc giữa con mắt của chúng ta
và những sự vật bên ngoài. Cũng tương tự như thế với những điều kiện của
tai và âm thanh, mũi và mùi hương, lưỡi và vị nếm, sắc thân và những xúc chạm
của nó với thế giới chung quanh. Thế giới tâm thức cũng bao gồm những điều
kiện này với tư tưởng và trí nhớ, tri giác và khái niệm. Tiếng Pali gọi tất cả
những điều kiện của thế giới vật chất và tâm nầy là Anatta hay Vô
ngã. Những điều kiện nầy không phải là ta, không phải là của ta, không
phải là cái ta thường hằng bất biến, và không phải là thực tại tuyệt đối
của thế gian. Chúng là những điều kiện luôn thay đổi. Ngay bây
giờ, bạn đang ý thức đầy đủ về tình cảm, tư tưởng hay bất kỳ phản ứng nào
khởi sinh trong thân bạn. Đây là những gì chúng ta có thể quan sát được. Và
chúng ta quan sát được gì từ những điều kiện nầy? Chúng ta quan
sát và thấy rằng chúng sinh ra rồi mất đi và không có tự ngã.
Thay vì thuyết phục chúng ta tin vào
cảnh giới Bất sinh bất diệt, vào sự Thật tuyệt đối hay một Đấng Thượng đế
nào đó, Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy những gì đang sinh khởi trong
thế gian nầy. Ngài khuyên chúng ta nên xem xét và quan sát những điều
kiện được sinh khởi trong thế gian vì đó là những gì mà chúng ta có thể
trực tiếp thấy và biết được. Ngài dạy rằng chánh niệm và tỉnh giác về
những gì được sinh khởi trong thế gian sẽ đưa chúng ta đến cảnh giới Bất
sinh bất diệt vì khi chánh niệm và tỉnh giác, chúng ta có thể trực tiếp kinh
nghiệm những gì được khởi động và phát sinh từ trạng thái Bất sinh bất
diệt và đang thay đổi và vận hành để trở về trạng thái Bất sinh bất
diệt.
Đức Phật gọi kinh nghiệm về cảnh
giới Bất sinh bất diệt nầy -- một kinh nghiệm không thể diễn tả bằng lời -- là
Niết Bàn (Nibbana), là sự tĩnh lặng hay sự mát mẻ. Cụm từ "Bất sinh
bất diệt" có thể gợi cho chúng ta ý nghĩa gần giống như sự tịch diệt hay
hư vô, nghĩa là một trạng thái không có linh hồn, tự ngã
hayThượng Đế. Cụm từ nầy cũng có thể gợi lên một ý nghĩa thật buồn
thãm và thê lương, nhưng đó không phải là điều Đức Phật muốn dạy
chúng ta. Đức Phật chỉ muốn dạy chúng ta thấy rằng những điều kiện sinh
khởi từ trạng thái Bất sinh bất diệt nầy là hết sức bất toại nguyện (khổ),
không ngừng thay đổi (vô thường), và không có tự ngã (vô ngã).
Ngài không đưa ra lý thuyết Vô Ngã và khuyên chúng ta phải tin
vào đó, nhưng Ngài chỉ cho chúng ta con đường mà nếu đi trên
con đường đó, chúng ta sẽ thấy được sự thật về đặc tính khổ, vô thường, và
vô ngã của vạn pháp. Khi quán sát những điều kiện sinh khởi trong thân và
tâm, bạn sẽ nhận ra rằng chúng đến rồi đi; chúng thay
đổi. Những điều kiện nầy không phải là chất liệu mà bạn có thể dùng
tay rút ra, nắm lấy và tuyên bố rằng: "Nó là của tôi." Khi có những
tiếng ồn khó chịu, nếu bạn nghĩ, "Tôi căm ghét những tiếng ồn nầy.
Trời đất nầy không thể dung chứa những tiếng ồn như thế. Tôi sẽ thưa
lên nhà cầm quyền sở tại để giải quyết việc nầy," thì rõ ràng là
bạn đang xem những tiếng ồn đó là của bạn. Nhưng khi bạn nhận ra được
sự thật là những tiếng ồn nầy đến rồi đi và sẽ thay đổi, và nếu bạn
kiên nhẫn quan sát điều nầy, thì ngay cả những gì khó chịu nhất cũng sẽ
làm cho bạn bình an và tĩnh lặng. Khi bạn sống hòa hợp với thế giới vật chất
nầy và với tất cả những gì bạn suy nghĩ, cảm nhận, thể nghiệm qua sự tiếp xúc
của năm giác quan và tâm thức với tâm an tịnh, tĩnh lặng và chánh niệm,
thì đó chính là cái mà tôi gọi là Kinh nghiệm không thể diễn tả bằng lời,
là cảnh giới Bất sinh bất diệt, và là quả vị Niết Bàn.
Vì thế chúng ta hành thiền. Hành
thiền là nhìn trực tiếp vào sự diễn biến tự nhiên của tất cả sự vật. Chúng ta
quan sát đặc tính chung của tất cả hiện tượng do nhân duyên sinh khởi: Chúng
sinh rồi diệt; đó là đặc tính vô thường (anicca); Chúng là bất
toại nguyện hay đau khổ; đó là đặc tính đau khổ (dukkha) và
sự đau khổ nầy có sự bắt đầu và chấm dứt của nó; và tự chúng không có cái
ngã; đó là đặc tính vô ngã (anatta).
ĐẠO ĐẾ HAY SỰ THẬT THÁNH THIỆN THỨ
TƯ
Sự thật thánh thiện thứ tư
hay Đạo Đế là Bát Chánh Đạo hay Con đường thánh thiện gồm có 8 chi
phần. Chi đầu tiên của Bát Chánh Đạo là Chánh Kiến hay Cái thấy
biết chân chánh (samma ditthi). Chánh kiến có được khi chúng ta
thấy và thể nghiệm được sự chấm dứt của khổ đau. Để có
Chánh Kiến, chúng ta phải luôn luôn chánh niệm. Chúng ta phải thấy rằng tất cả
sự vật đều sinh và diệt và không có tự ngã. Và cái biết nầy phải là cái biết
bằng kinh nghiệm trực tiếp và phải là cái nhìn xuyên thấu bên trong sự vật.
Chánh kiến dựa trên sự hiểu biết trực tiếp, sáng suốt và sâu sắc chứ không dựa
trên suy nghĩ, tư duy trừu tượng hay khái niệm. Ngày nào mà bạn không thật sự
thể nghiệm trực tiếp mà chỉ dùng suy nghĩ của mình để cho là mình
biết về các sự vật thì bạn sẽ luôn bất an và rối loạn. Lý do chủ yếu là vì sự
hiểu biết thuần lý chỉ dựa trên các ký hiệu và biểu tượng ngôn ngữ chứ không
dựa trên sự thể nghiệm trực tiếp những thực tại của cuộc đời.
Chi thứ hai của Bát Chánh Đạo
là Chánh Tư Duy (samma sankappa), hay thái độ chân chánh, ý định
chân chánh, mục đích chân chánh. Khi có được Chánh Kiến, tâm của
bạn sẽ tự nhiên hướng về Niết Bàn hay cảnh giới Bất sinh bất diệt, tức là hướng
về mục tiêu giải thoát. Bạn sẽ thấy là bạn vẫn còn bị những nghiệp lực và tập
khí như hoài nghi, lo âu hay sợ hãi chi phối và kéo bạn trở lại thế giới của
ngũ dục nhưng bây giờ bạn có thể nhận ra những nghiệp lực nầy. Bạn
biết được thực tướng của nó và sẽ không bị chìm đắm lâu trong
đó. Ngày trước, bạn có thể bị mất hút và chìm đắm hàng tuần trong
tuyệt vọng, hoài nghi, sợ hãi, hay đủ loại tham ái dục lạc. Nhưng
khi đã có cái nhìn trí tuệ và Chánh Kiến, bạn sẽ có Chánh Tư Duy hay
thái độ đúng. Có thể bạn vẫn chưa đủ quyết tâm để tinh tấn hướng
về sự giác ngộ, và vì thế, bạn vẫn có thể tiếp tục sống trong si mê và ảo
tưởng, nhưng bây giờ bạn chỉ si mê và ảo tưởng trong một thời gian ngắn mà
thôi.
Chánh Kiến và Chánh Tư Duy được
xem như là hai chi phần của Trí Tuệ (panna), và từ đó, Trí Tuệ sẽ
đưa bạn đến chi thứ ba, thứ tư, và thứ năm của Bát Chánh Đạo. Đó là Chánh
Ngữ hay lời nói chân chánh (samma vaca), Chánh Nghiệp hay
hành động chân chánh (samma kammanta), và Chánh Mạng hay đời
sống chân chánh (samma ajiva). Trong tiếng Pali, chúng tôi gọi ba chi
nầy là Sila hay Giới hạnh -- tức là phần đạo đức của Bát
Chánh Đạo. Sila nghĩa là làm điều thiện và tránh
làm điều bất thiện qua hành động và lời nói. Chánh Kiến và Chánh Tư
Duy sẽ hỗ trợ cho Giới hạnh vì khi thấy được sự thật về khổ đau, nguồn gốc
của khổ đau, và sự tận diệt của khổ đau, bạn sẽ không còn muốn làm và nói
những gì có thể gây thiệt hại cho mình và các chúng sanh khác. Bạn sẽ thấy mình
có trách nhiệm; bạn sẽ không lạm dụng hành động của mình và người khác hay
cố ý gây thiệt hại cho các chúng sanh khác. Bạn có thể vô tình làm hại người
khác nhưng thật sự trong tâm, bạn không có ý định hãm hại họ. Đó chính là
sự khác biệt.
Khi có Giới Hạnh, tình cảm chúng ta
sẽ quân bình và chúng ta sẽ thanh tịnh. Vì không giết hại, trộm cắp hay nói
dối, chúng ta sẽ không bị dày dò bởi tình cảm hối tiếc và mặc cảm tội lỗi, và
tâm chúng ta sẽ an vui, quân bình, buông xả và khiêm hạ. Tình cảm an vui và
thanh tịnh nầy sẽ đưa chúng ta đến chi thứ sáu, thứ bảy và thứ tám của Bát
Chánh Đạo. Đó là Chánh Tinh Tấn hay chuyên cần chân chánh (samma
vayama), Chánh Niệm hay quan sát chân chánh (samma sati), và
Chánh Định hay tập trung tĩnh lặng chân chánh (samma samadhi). Với
tinh tấn, chánh niệm và tập trung chân chánh, tâm chúng ta sẽ quân bình, buông
xả, không hưng phấn hoạt động cũng không thụ động trì trệ. Giống như một
em bé đang tập đi: bạn luôn bị mất quân bình và dễ bị trượt ngã. Nhưng
chính trong quá trình tập đi nầy, bạn sẽ dần dần phát huy năng
lực. Một em bé tập đi có sức mạnh là nhờ dựa vào cha và mẹ, bàn và
ghế, những cái trượt ngã và va chạm đau đớn và vào những nỗ lực
tự đứng lên để đi lại từ đầu. Rồi em sẽ đi được hai bước, bắt đầu tự
đi một mình, và cuối cùng em sẽ tung tăng chạy nhảy. Sự quân bình tình cảm
cũng đòi hỏi như thế. Khi có tâm quân bình, bạn sẽ thấy mọi việc dễ dàng,
bạn có thể đi, chạy, xoáy người và nhảy vọt lên cao.
Vì thế, chúng ta chia Bát Chánh Đạo thành ba phần: Sila (GiớI), Samadhi (Định), Panna (Tuệ) . Sila là đạo đức cá nhân, cách làm ăn sinh sống và ứng xử trong hành động và lời nói. Samadhi là sự cân bằng trạng thái tâm lý. Khi có được Chánh Định, bạn sẽ không còn bị ham muốn ích kỷ, ái dục và lòng tham muốn chiếm đoạt chi phối nữa. Sự cân bằng về tình cảm sẽ làm phát sinh hỷ lạc và từ tâm. Bạn sẽ quân bình và buông xả nhưng không thờ ơ lãnh đạm với cuộc đời. Tâm bạn sẽ không chứa đựng gì khác ngoài tình thương dành cho tất cả chúng sinh (metta). Tâm từ sẽ tự nhiên sinh khởi khi không còn cái ngã. Nhưng khi lòng ích kỷ trỗi dậy thì tình thương sẽ trở thành sự thèm khát, lòng bi mẫn sẽ trở thành sự thương hại, niềm hỷ lạc sẽ trở thành sự ham muốn ích kỷ. Khi không có cái ngã, niềm vui sẽ tự nhiên đến và lòng từ bi sẽ tự trào dâng trong tâm bạn. Panna là trí tuệ, là biết được sự thật để tiến đến sự hài hòa viên mãn giữa thể xác, tình cảm, và tinh thần. Với trí tuệ, ba nhân tố nầy hoạt động hỗ trợ nhau thành một thể thống nhất thay vì hoạt động như là những lực lượng đối nghịch và xung đột lẫn nhau.
SỰ THỂ NGHIỆM TRỰC TIẾP
Trong pháp hành của Phật giáo Nguyên
thủy, chúng ta chỉ tập trung quán sát Tứ Diệu Đế. Khi hành thiền và
chuyên cần giữ chánh niệm trong cuộc sống, chúng ta sẽ cảm nhận và thể nghiệm
trực tiếp bốn sự thật thánh thiện nầy. Vì thế nên khi có người hỏi Đức
Phật là Ngài tin tưởng và thuyết giảng về điều gì, Ngài trả lời: "Như
Lai thuyết giảng về sự khổ đau, nguồn gốc của khổ đau, sự chấm dứt của khổ
đau, và con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau." Các tu sĩ Bà La
Môn lại hỏi Đức Phật: "Thưa Ngài, có Thượng Đế hay
không?" "Điều gì sẽ xảy ra sau khi Đấng Giác Ngộ (ý
nói Đức Phật) tịch diệt?" Đức Phật chỉ trả lời vỏn vẹn,
"Tất cả những gì sinh ra sẽ diệt đi và không có tự ngã. Có sự
khổ đau, sự khổ đau có sự bắt đầu và chấm dứt của nó, và có con đường
để đi ra khỏi khổ đau. Đó là tất cả những gì ta thuyết giảng". Những
bộ óc thông minh, những nhà trí thức vĩ đại có đủ loại kiến giải về sự
thật tuyệt đối và đưa ra những hệ thống triết học không tưởng. Họ
nghĩ ra những hệ thống lý luận và lô gích rất thiện xảo và hùng hồn, nhưng họ
không biết gì về thân và tâm của họ. Họ không học và không nhận biết được
điều gì về cái thế giới vật chất và tâm đang không ngừng sinh khởi và
tác động trên chính cuộc đời của họ.
Những người chỉ biết sống với tư duy
trừu tượng có thể hỏi, "Bạn tin ở Thượng Đế hay không tin ở Thượng
Đế?" Nếu tôi nói, "Tôi không tin ở Thượng Đế," họ sẽ
hiểu lầm và cho tôi là một người vô thần. Nếu tôi nói, "Tôi tin ở
Thượng Đế," thì họ sẽ nói tôi không thật sự là một Phật tử. Sự ngộ
nhận nầy bắt nguồn từ sự kiện là họ chỉ quan tâm đến tư tưởng và niềm tin,
thay vì cố gắng trực tiếp thể nghiệm chân lý. Bạn không cần phải có đức
tin để biết là tất cả những gì sinh khởi sẽ hoại diệt và không có tự ngã. Đây
là cái nhìn thẳng vào bản chất của sự vật hay cái nhìn trí tuệ mà bạn chỉ có
thể biết một cách trực tiếp. Và đây chính là những gì Đức Phật muốn
chỉ cho chúng ta.
Cái gì là cái mà các chư Phật biết
và các chúng sanh chưa giác ngộ không biết? Xin thưa, chư Phật biết là bất cứ
cái gì sinh ra đều chấm dứt và không có tự ngã. Đó là trí tuệ trong Đạo
Phật. Nó có vẻ đơn giản quá phải không các bạn? Nó không có vẻ gì là
cao siêu cả nhưng nó là tất cả, bởi vì tất cả những gì chúng ta có thể
biết được, nói khác đi, tất cả những gì chúng ta biết, suy nghĩ, và thể
nghiệm qua các giác quan, tất cả những gì chúng ta đồng hóa, gắn chặt và
xem như là chính chúng ta, là tự ngã của chúng ta, là ta và là của ta, đều
thay đổi theo mô hình này. Nó sinh rồi diệt và không có tự ngã.
Thế thì cái ngã là gì? Nếu không
phải là sắc thân nầy hay tâm thức nầy, thì cái ngã là gì? Đức Phật để cho bạn
tự mình khám phá điều nầy vì Ngài biết là bạn sẽ bị ảnh hưởng nếu có ai đó mách
bảo bạn trước về việc nầy. Nếu tôi nói với bạn về điều nầy, bạn có tin tôi
hay không? Sự hiểu biết trực tiếp phải đến từ sự thể nghiệm trực
tiếp, bằng chánh niệm và trí tuệ. Và đây là con đường mà tất cả chư
Phật đều đi qua.
***
------------------------------
Câu hỏi:
* Khi
nói về sự chấm dứt của khổ đau, có phải Thiền sư muốn nói khổ đau về vật chất
lẫn tinh thần?
Trả lời: Sự đau khổ mà tôi muốn nói ở đây là
sự đau khổ do bạn tự tạo bắt nguồn từ sự vô minh của bạn. Khi vô minh
không còn thì bạn sẽ có cái nhìn chân chánh hay Chánh Kiến, lúc đó bạn vẫn
cảm thấy vui sướng hoặc đau nhức trong cơ thể, nhưng bạn không đau khổ vì nó nữa.
Nó chỉ tồn tại như chính nó hay như những cảm giác mà thôi. Khi bạn không
hiểu được chân lý nầy, bạn sẽ tự mình chuốc lấy đau khổ. Nếu
thân thể bạn bị bịnh tật hoặc đau đớn, bạn liền phản ứng và tìm cách chống
lại và loại trừ nó, và bạn cảm thấy sợ hãi, tức giận hoặc buồn rầu về cơn bịnh
hoặc tất cả những phiền toái mà cơn bịnh mang đến. Đó chính là sự đau
khổ do chúng ta tự tạo và tự chuốc lấy. Và rồi, vì có khuynh hướng phản ứng
chống lại nó, chúng ta lại tạo thêm những điều kiện khác khiến cho mọi việc
càng căng thẳng hơn.
Nếu bạn quan sát sự đau đớn của
thân thể -- thí dụ khi bạn ngồi thiền và đôi chân bắt đầu đau
nhức -- và bạn đang tập trung quan sát cảm giác đau nhức và chấp nhận
nó như chính nó thì bạn không còn bị đau khổ vì nó nữa. Sự đau khổ chỉ
đến khi bạn muốn diệt trừ nó, không muốn nó xảy đến cho bạn, và muốn đổi
tư thế ngồi. Đó chính là sự đau khổ do chúng ta tự tạo ra. Vì thế nên khi
ngồi thiền, bạn nên cân nhắc: mình bị căng thẳng về cái gì? mình đau
khổ vì cái gì? Bị nhức chân có phải thật sự là đau khổ hay
không? Nếu tập trung quan sát cảm giác đau nhức, bạn sẽ nhận ra rằng
cảm giác đau nhức chỉ là cảm giác đau nhức, nhưng bên cạnh đó, lại có
thêm phản ứng chống lại cảm giác đau nhức. Và càng không muốn bị đau
nhức, bạn sẽ càng đau khổ: "Chao ôi, tôi chịu không nỗi nữa rồi;
Tôi bị đau như vậy là đủ rồi." Bạn đang nỗi giận với
chính sự đau nhức của mình.
Bản thân tôi đã từng là người
rất sân hận. Sự đau nhức và khó chịu trong thân thể thường làm tôi rất bực
bội. Vì thân thể đau đớn, tôi hay tức giận người khác. Khi tôi trút
cơn giận vào người khác, họ lại nghĩ là tôi giận chính cá nhân họ. Họ than vãn,
"Ôi thôi! Sư Sumedho không thích tôi nữa!" Và nếu không đủ chính
niệm, họ sẽ nỗi giận và lại đi chửi rủa người khác. Và như cứ thế, sự
sân hận lại được lan truyền ra chung quanh.
Để có thể tập trung quan sát những
cảm giác của cơ thể, bạn phải chấp nhận nó. Bạn không nên tập trung quan sát
với mục đích xua đuổi nó. Làm như thế là không được và bạn sẽ
thất bại; đó vẫn là thái độ sân hận, chống đối và ghét bỏ. Bạn phải
chấp nhận nó. Và thật ra, bạn phải chấp nhận nó như cái mà sẽ ở với
bạn đến suốt đời. Khi bạn đã hoàn toàn chấp nhận nó, cảm
giác đau nhức thật vẫn tiếp tục tồn tại nhưng nó chỉ tồn tại như là một
cảm giác. Thậm chí bạn không thể nói nó là sự đau đớn. Nó chỉ là một
cảm giác, thế thôi. Ý tưởng cho nó thật là khủng khiếp và đau đớn cũng
không còn nữa, và từ đó những điều kiện hỗ trợ và làm gia tăng sự đau
đớn -- như là tình cảm chống ghét, tức giận, và thù hận -- sẽ từ từ
giảm đi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét