Ajahn Sumedho
PHẦN II - TÂM TỈNH THỨC
CHƯƠNG 12
SỐNG VỚI THỰC TẠI
Trong đạo Phật, Chân Lý hay Sự
Thật còn được gọi là "Dhamma" hay Pháp. Pháp
bao gồm tất cả cái có và cái không có. Khi suy nghĩ theo quan điểm nhị
nguyên, chúng ta thường cho là một sự vật hoặc phải là cái gì đó hoặc
không là cái gì hết, nhưng khi quán Pháp, tâm chúng ta phải mở rộng và tiếp thu
tất cả, tiếp thu cái tổng thể trong đó quan hệ giữa cái có và cái không có
tồn tại và vận hành. Nếu chúng ta không thấy và biết được tổng thể nầy,
cuộc sống của chúng ta sẽ hoàn toàn tùy thuộc hay hoàn toàn bị điều kiện
bởi những kinh nghiệm sống riêng lẻ của chúng ta, và chúng ta sẽ có xu hướng
xem những kinh nghiệm sống riêng lẻ và bị điều kiện nầy là thực tại và
chân lý. Và vì thế trong cuộc sống, chúng ta sẽ trôi lăn từ kinh nghiệm nầy đến
kinh nghiệm khác, và những kinh nghiệm nầy hoàn toàn không liên hệ gì đến
những gì vượt lên trên hoặc nằm ngoài chính bản thân của chúng.
Khi chúng ta không thấy được
mối quan hệ thật sự của các Pháp, đời sống của chúng ta sẽ trở nên phức tạp và
khó khăn vì tâm chúng ta bị phân liệt, chia chẻ, và tản mạn. Chúng ta sẽ chỉ
biết phản ứng với sự việc nầy và sự việc nọ -- với điều kiện nầy và với
tình cảm nọ -- và chúng ta sẽ tự hỏi tại sao mình vẫn đau khổ mặc dù trong
cuộc sống mình có tất cả. Chúng ta thường nghĩ rằng nếu có tất cả, chúng ta
sẽ được hạnh phúc và an toàn, nhưng chúng ta vẫn bất toại nguyện vì chúng
ta luôn có nhu cầu cần được gắn bó với một cái gì đó, luôn khao khát
được trở về với một nguồn cội nào đó. Tâm con người luôn
mong được tự do và giải thoát khỏi những tình cảm cô đơn, bị chia cắt
và cô lập mà họ luôn cảm thấy một cách khẩn trương và bức xúc.
KHÁT KHAO ĐƯỢC TOẠI NGUYỆN
Giáo lý của Đức Phật dạy chúng
ta quán tưởng trên cuộc sống làm người của chúng ta, bắt đầu với tình cảm
bị cô lập, chia cắt, cô đơn, và xa cách mà tất cả chúng ta đều
có. Nếu chúng ta không quán tưởng trên chính cuộc sống của chúng ta hay cố
gắng tìm hiểu nó thì cuộc đời của chúng ta sẽ chỉ là một chuỗi dài của
những kinh nghiệm vô nghĩa, và càng cảm nhận được sự vô nghĩa nầy, chúng
ta lại càng cảm thấy bị chia cách và cô đơn hơn.
Chúng ta thường đi tìm một
người nào đó và mong rằng người đó sẽ mang lại hạnh phúc và toại
nguyện cho chúng ta, một người mà chúng ta có thể nương tựa, một người mà sẽ
không bao giờ làm chúng ta thất vọng. Chúng ta thường xây dựng một hình ảnh
lãng mạn về một người nào đó được tạo hóa dành sẵn riêng cho chúng ta; và
khi gặp được họ, chúng ta sẽ sống mãi trong niềm hoan lạc và hạnh phúc.
Nhưng ngay cả nếu chúng ta gặp "đúng" được người đó, chúng ta cũng sẽ
thất vọng khi chúng ta mong đợi là người đó sẽ thỏa mãn những nhu cầu của
chúng ta. Người ấy sẽ không làm chúng ta toại nguyện vì họ cũng là một con
người riêng lẻ và sống cách biệt với chúng ta, họ không phải là ta. Nếu chúng
ta quyến luyến và bám víu vào họ và khi họ chết đi, chúng ta sẽ cảm thấy
vô cùng lẻ loi, đơn côi và mất mát vì chúng ta đã mất đi chỗ
tựa. Bất cứ cái gì biệt lập với chúng ta, bất cứ cái gì đến với chúng
ta, cuối cùng rồi sẽ bỏ chúng ta mà ra đi. Vì thế đòi hỏi một
người khác thỏa mãn những nhu cầu của chúng ta sẽ chỉ làm tăng thêm tình
cảm đơn côi, thất vọng, buồn phiền, đau đớn, và tuyệt vọng trong chúng ta
mà thôi.
Từ đó, trong đời sống tu tập
tâm linh, chúng ta không đi tìm sự hợp nhất với một người nào đó trong thế
giới của giác quan và cảm thọ nầy. Chúng ta không đòi hỏi những người khác
phải thỏa mãn những nhu cầu của chúng ta; chúng ta cũng không mong cầu bất cứ điều
gì từ bất cứ người nào khác. Thậm chí, chúng ta cũng không đi tìm
Thượng Đế như một thực thể nào đó nằm bên ngoài, đến giúp, và
cứu vớt khi chúng ta gặp khó khăn. Chúng ta buông bỏ tất cả những sự can
thiệp hay gia hộ từ bề trên, và chúng ta không mong chờ hay đòi
hỏi điều đó. Thay vào đó, chúng ta bắt đầu xem xét lại chính bản
thân của sự hiện hữu, sự tồn tại, và sự sống, để chúng ta có thể chứng
nghiệm và hiểu được cuộc sống mà hình như luôn bị chia cắt và cô lập nầy.
ĐẶT NGHI VẤN VÀ XEM XÉT TỤC ĐẾ HAY
THỰC TẠI CHẾ ĐỊNH
Sự chia cách giữa con người chỉ là
bề ngoài mà thôi, nhưng văn hóa chúng ta lại cho đó là sự thật. Đối với nhiều
người, "thế giới thật" của họ là những thực tại thể hiện trong cuộc
sống hằng ngày như đi làm, sinh hoạt với gia đình, quan hệ với bạn bè. Nói
khác đi, đó là tất cả những gì tốt và xấu xảy ra trong xã hội. Chúng ta
xem những điều nầy là thật vì chúng ta hằng ngày sống và chung đụng
với nó. Chúng ta phải lo săn sóc thân thể, làm ăn sinh sống, sống hòa
hợp với những người chung quanh, học cách nuôi dạy con cái, và làm tất cả việc
thế gian khác mà xã hội đã quy định.
Tôi không nói rằng tất cả những sinh
hoạt xã hội có tính chế định nầy đều là hư ảo và không thật sự tồn tại.
Cái thế gian được xã hội chế định nầy là cái mà trong đạo Phật
gọi là Tục Đế là có thật và hiện hữu tự nó, nhưng nó không phải là sự thật
tuyệt đối mà trong đạo Phật gọi là
Chân Đế. Tục Đế là thế giới của sự thay đổi, biến chuyển,
thế giới của những bóng dáng, thế giới của sự sống và sự chết; nó gồm
những gì sinh rồi diệt, đến rồi đi. Đó là cái mà chúng ta gọi là thực
tại được chế định hay Tục Đế vì hình như nó không thật đối với chúng ta. Nhưng,
trong khi hành thiền, chúng ta không thể mù quáng xem tục đế là sự thật
tuyệt đối chỉ vì nó vận hành theo nhịp sống đời thường của chúng
ta; trái lại, chúng ta chọn một thái độ khác -- chúng ta nghi
vấn, quan sát và xem xét nó.
Chúng ta cần đặt nghi vấn và
xem xét Tục Đế, chứ không nên coi thường, tìm cách đẩy nó qua một bên
và không để ý đến nó. Chúng ta phải thật sự quan sát và xem xét nó.
Đây chính là điều mà chúng ta làm trong lúc hành thiền. Chúng ta bắt đầu
xem xét cái mà hình như rất tầm thường đối với một người bình thường, tầm
thường đến nỗi không ai thèm để ý đến nó. Nhưng, chúng ta nên
thận trọng trong khi hành thiền vì chúng ta dễ có khuynh hướng đi tìm
những cái gì mới lạ hoặc ngoại lệ và độc đáo và xem việc để ý đến
những cái bình thường đường như là không cần thiết. Vì thế, tôi yêu
cầu bạn hãy cố gắng đặc biệt chú ý đến những cái bình thường của
cuộc đời.
Thí dụ, bạn có thể quán tưởng trên
những cảm giác sinh khởi trong thân thể vật chất nầy. Đây là những cảm giác rất
vi tế, vừa dễ chịu, vừa đau khổ. Hay bạn có thể tự hỏi cá tính của bạn là gì;
Nó có phải thật là chính bạn hay không? Xin khoan vội đánh giá nhân cách
bạn là tốt hay xấu, mà hãy thật sự tìm hiểu: Nhân cách là gì? Hãy tìm hiểu
những cảm thọ. Cảm thọ là gì? Tâm bạn có khả năng cảm nhận được điều gì -- yêu
và ghét, phấn chấn, tuyệt vọng, sợ hãi, ganh tỵ hay bị ám ảnh bởi những tham ái
và si mê? Tôi không muốn nói là bạn không nên ghét và chỉ nên yêu. Tôi chỉ yêu
cầu bạn xem xét bản chất của những tình cảm nầy và khả năng cảm nhận những tình
cảm nầy của bạn như một con người.
Hãy quán sát tình cảm khi
bạn được khen ngợi. Ghi nhận những tác động của nó trong tâm khi
có người khen bạn là một người rất xinh đẹp hay một người tuyệt
vời. Bạn có thể quán sát tình cảm vui sướng và hạnh phúc khi được khen,
thay vì bị tình cảm này lôi cuốn và sai khiến. Nếu có người thật sự
chống đối và tìm cách chỉ trích bạn, bạn có thể tức giận, bất mãn, hay
buồn khổ; nhưng bạn vẫn có thể ứng xử theo một cách khác, bạn có thể quán tưởng
những tình cảm nầy. Bạn có thể vượt lên trên thế giới của cảm thọ bằng cách
chấp nhận và quán sát nó, thay vì bị nó chế ngự hay phán đoán nó.
QUÁN SÁT NHƯNG KHÔNG PHÁN ĐOÁN
Chúng ta ai cũng có những mẫu
người đàn ông hoặc đàn bà lý tưởng. Chẳng hạn như người đàn ông
lý tưởng thì phải can đảm và không bao giờ được run sợ. Người đàn
bà lý tưởng thì phải luôn yêu thương và hiền thục; phải không bao giờ được
ganh tỵ hay dữ dằn đối với con cái. Khi những lý tưởng ấy hiện lên trong
tâm chúng ta hay tâm của người khác, chúng ta sẽ có những đánh giá: "Ồ,
tôi không được phép nghĩ như thế " hay "Bà ta quả là một người
kinh khủng, đầy ganh ghét và sân hận" hay "Ông ta là một kẻ hèn
nhát, luôn lo bảo vệ bản thân mình."
Nền văn hóa của chúng ta khuyến
khích và nuôi dưỡng trong chúng ta thói quen đánh giá, phán xét, và phê
bình chính chúng ta và người khác. Nhưng con đường của Đức Phật là
con đường không phán xét, không ức chế, không đè nén, không theo bên nầy
hoặc bên kia, mà chỉ thuần ghi nhận. Đây là cách sống của một người có tâm tỉnh
thức: Vị ấy chỉ quán sát và ghi nhận những gì đang xảy ra trong dòng sông
tình cảm không ngừng trôi chảy nầy; Vị ấy có tình cảm và trí thông minh, có khả
năng tư duy và trí nhớ. Và nhờ quán tưởng như thế, chúng ta có thể tha thứ,
buông bỏ, và giải thoát chúng ta khỏi gánh nặng của cuộc sống và tất cả những đau
khổ luôn đi kèm với những si mê và lầm lạc do tham ái và dính mắc mang lại.
Con người là chúng sanh có khả năng
tỉnh giác và tỉnh thức trong giây phút hiện tại, có khả năng biết được cái đang
xảy ra tại đây và ngay bây giờ. Khi có cái nhìn tỉnh thức về thực tại nầy,
chúng ta sẽ không còn nhắm mục tiêu đi tìm một cái gì đặc biệt trong
đời nữa. Vì làm như thế, chúng ta sẽ không còn tỉnh thức nữa; lúc đó,
tâm chúng ta sẽ chỉ lo đi tìm một cái gì đó để hiểu biết. Tâm tỉnh giác
là tâm có công năng tiếp thu và đón nhận, nhưng nó không thụ động và thiếu
thông minh. Tâm tỉnh giác có cả hai, vừa thông minh hiểu biết, vừa có khả năng
tiếp thu và đón nhận.
Là con người, ai cũng có trí thông
minh. Nhưng chúng ta có khuynh hướng sử dụng trí thông minh một cách sai lạc vì
chúng ta có thói quen chấp chặt vào những tư tưởng, quan điểm và ý kiến
của chúng ta. Chúng ta có những ảo tưởng rất là thông minh và xuất chúng về
chính chúng ta và về cái thế giới mà chúng ta đang sống. Nhưng khi
chúng ta buông bỏ tất cả và sống với hiện tại, tâm chúng ta sẽ chỉ còn lại sự
thấy biết sáng suốt, không bị bóp méo hoặc nhiễm ô bởi những tham ái và sợ hãi.
Trí thông minh của chúng ta hoạt động một cách tối ưu, sáng suốt, và chiếu
rọi. Đây chính là điều mà chúng ta muốn nói đến khi chúng ta nói chúng ta quy y
Phật, một con người hoàn toàn tỉnh thức hay một Bậc Toàn Giác. Chúng ta sẽ hiểu
bản chất thật sự của sự đau khổ. Chúng ta tu tập cách đi ra khỏi
khổ đau, cách chấm dứt khổ đau, và để rồi cuối cùng, sẽ không còn dấu vết
gì của khổ đau cả.
CHẤP NHẬN THỰC TẠI
Vì vô minh và thói quen suy nghĩ của
tâm mê muội, chúng ta thường có ảo tưởng hay hiểu sai lạc về cuộc đời
và đây chính là nguồn gốc của sự đau khổ. Vì thế, thay vì cứ tập
trung trên những ảo tưởng nầy, chúng ta hảy nhìn vào thực tại, nhìn cái gì
cũng được, và rồi chúng ta sẽ thấy đây chính là quy luật của cuộc
sống, đây chính là "thực tại như nó đang xảy
diễn." Qua pháp quán tưởng, chúng ta mang thực tại vào ý thức. Quán
tưởng nhắc nhở chúng ta rằng đây chính là thực tại như nó đang xảy
diễn. Chúng ta sẽ không nói thực tại nên xảy diễn hay không nên xảy diễn
theo một cách đặc biệt nào đó. Ngay cả nếu thực tại đang
diễn ra là hết sức khủng khiếp, chúng ta cũng không nên phán xét nó khủng khiếp
như thế nào mà chỉ nên chấp nhận thực tại như nó đang xảy diễn.
Sử dụng khả năng quán tưởng theo
cách nầy sẽ rất hữu ích khi bản thân chúng ta lâm vào một hoàn cảnh khó khăn,
hay khi chúng ta suy nghĩ và quan tâm về tình hình thế giới. Đây là thực tại
như nó đang xảy diễn, phải không các bạn? Tôi không nói là chúng ta không nên
quan tâm về những gì đang xảy ra. Tôi chỉ nói là chúng ta hãy nhấp
nhận thực tại như nó đang xảy diễn để chúng ta có thể thật sự hiểu biết
nó. Chúng ta không thể hiểu bất cứ một vật gì nếu chúng ta chỉ lo tìm cách
bát bỏ hay không chấp nhận nó. Nếu muốn hiểu một cái gì đang thối rữa và
hoại diệt, chúng ta phải chấp nhận sự thối rữa và hoại diệt của nó. Điều nầy
không có nghĩa là chúng ta yêu thích nó; chúng ta không thể yêu thích cái hư
thối, vì sự thối rữa là thật đáng ghê tởm; nhưng chúng ta có thể chấp nhận nó.
Và khi đã chấp nhận sự thối rữa rồi, chúng ta sẽ bắt đầu hiểu được
nó.
Hãy áp dụng cách quán tưởng vừa nêu
trên vào những trạng thái tâm sinh khởi trong tâm bạn. Nếu bạn đánh giá
trạng thái tâm suy đồi và xấu xa đang có trong bạn bằng cách nói,
"Chao ôi, tôi là một người hết sức xấu xa, tôi không nên có tư tưởng như
thế, tôi không nên có tình cảm như thế, con người tôi quả là hư đốn,"
và như thế là bạn đã không chấp nhận trạng thái tâm lúc ấy. Bạn đã đánh
giá và phán đoán nó, và hoặc là bạn đổ lỗi cho một người nào đó,
hoặc đổ lỗi cho chính bản thân bạn. Đó không phải là chấp nhận; đó chỉ là
phản ứng và phán đoán.
Khi bạn càng phản ứng vì vô minh và
lầm lạc, nói khác đi, khi bạn càng tìm cách bát bỏ và đè nén những gì
bạn cho là xấu xa và đáng ghét, chính những cái xấu xa mà bạn tìm
cách đè nén nầy lại càng bám sát theo bạn. Sự chống ghét và ức chế sẽ ám
ảnh bạn như những bóng ma, và như thế, bạn sẽ bị lôi cuốn vào cơn lốc đau
khổ do chính bạn tạo nên. Chấp nhận một sự vật không có nghĩa là đồng
ý với nó hay yêu thích nó, mà là một thái độ thiện chí sẳn sàng
chịu đựng những gì khó chịu, và một khả năng chịu đựng được sự xấu xa ghê
tởm cùng với sự đau đớn đi kèm với nó. Qua sự chịu đựng, bạn sẽ thấy
là điều kiện hay trạng thái tâm xấu xa đó có thể sẽ chấm dứt; và rồi bạn
sẽ có thể buông bỏ nó. Bạn chỉ có thể buông bỏ những sự vật khi nào bạn chấp
nhận nó. Nếu không, cuộc đời bạn sẽ chỉ là một chuỗi dài của những phản
ứng -- phản ứng trốn tránh nếu đó là những gì xấu xa, và phản ứng chấp
chặt, luyến ái nếu đó là cái gì tốt đẹp, thoải mái, và dễ chịu.
HÃY BUÔNG BỎ QUÁ KHỨ
Trong xã hội, chúng ta được
huân tập để tin rằng ký ức hay trí nhớ là vật sở hữu thật sự của chúng ta, hay
thuộc về chúng ta. Chúng ta thường quên đi những sự kiện tầm thường trong
cuộc sống hàng ngày, và chỉ nhớ rất rỏ những sự kiện thật tốt đẹp trong
đời như khi chúng ta được một giải thưởng nào đó hay đang đắm say trong
một mối tình lãng mạn nào đó. Chúng ta cũng thường nhớ lại những điều
xấu xa mà chúng ta đã làm hay người khác đã làm tổn thương đến
chúng ta.
Sự chấp thủ và dính mắc sẽ xảy ra
khi chúng ta cất giữ những ký ức rồi cho chúng trồi lên và tái diễn lại trong
tâm, hay khi chúng ta tìm cách triệt tiêu và dẹp bỏ chúng; Đây là hai hình thức
của sự dính mắc và chấp thủ. Điều nầy mới nghe có vẽ nghịch lý, nhưng sự thật
là chúng ta đang bám chặt vào cái mà chúng ta đang tìm cách triệt tiêu và dẹp
bỏ. Khi chúng ta càng muốn quên đi một cái gì đó, tâm chúng ta
càng dính mắc vào vật đó. Chính vì thế mà những sự vật nầy được
xem như là những bóng ma ám ảnh chúng ta, vì thật ra chúng ta đang bám
chặt vào chúng.
Lấy một thí dụ, khi một người
nào đó làm một cái gì hết sức kinh khủng đối với bạn và bạn rất giận
anh ta về việc nầy, nhưng bạn quyết định là thôi, bạn sẽ bỏ qua và không
suy nghĩ về việc nầy. Bạn cứ thử đẩy sự kiện trên ra khỏi tâm bạn bằng
cách cố gắng không nghĩ về nó nữa. Có thể bạn sẽ làm được như thế trong
một giây phút nào đó, và rồi thình lình nó lại bùng dậy trong tâm bạn. Bạn
lại muốn dẹp nó sang một bên, nhưng chính cái ý muốn dẹp bỏ đó sẽ làm sinh
khởi tiến trình chấp thủ trong tâm bạn. Vì thế những gì bạn nên làm không phải
là tìm cách đẩy sự sân hận ra khỏi tâm; bạn phải chấp nhận cơn giận.
Bạn sẽ tìm thấy sự an tịnh và lắng
dịu qua việc chấp nhận sự đau đớn mà bạn đang chịu đựng và cuối cùng
buông bỏ nó; sự lắng dịu và thoải mái không đến từ việc tìm cách bát bỏ
sự đau khổ mà từ việc để cho sự đau khổ tự nó xảy diễn ra trong tâm
bạn. Bất cứ cái gì mà bạn chấp nhận chịu đựng đến lúc nào đó, nó
sẽ ngừng nghỉ, và sự ngừng nghỉ nầy sẽ mang lại một cảm giác thoải mái dễ chịu
vì bạn đã để cho mọi sự vật trôi chảy và chuyển động theo đúng
bản chất của nó. Lúc đó bạn đang sống một cách hài hòa và nhu thuận
với cuộc đời, với thiên nhiên, và vạn pháp.
Quá khứ chỉ là ký ức được tái
diễn trong tâm ngay trong phút giây hiện tại, phải không các bạn? Hiện
tại, chỉ có hiện tại thôi; cho dù bạn ở đâu, cũng chỉ có giây phút hiện
tại. Bất cứ cái gì mà bạn nhớ lại -- những gì bạn đã làm, hay những
gì người khác đã làm -- chỉ là ký ức. Ký ức đến rồi đi trong tâm,
ngay trong giây phút hiện tại. Hoàn toàn không có quá khứ và chỉ có những
chúng sinh chưa giác ngộ mới tin có quá khứ mà thôi.
Chúng ta tin có quá khứ vì chúng ta
có thể nhớ lại quá khứ. Tuy nhiên, tôi đề nghị bạn hảy nhìn quá khứ dưới
một nhãn quan khác. Thay vì nhìn quá khứ như là "cái của bạn" và như
là "một thực tại," bạn hãy nhìn quá khứ như là chính nó, như là cái
gì đó đến rồi đi qua tâm trong giây phút hiện tại. Đó mới thật sự là
cái gì đang xảy diễn. Thực tại là tất cả những gì bạn nhớ lại trong quá
khứ đang đến rồi ra đi trong tâm bạn. Ký ức sẽ không sống lâu hoặc
kéo dài nếu bạn không bám vào nó. Ký ức chỉ đến rồi ra đi, thế thôi.
CÓ CÁI NHÌN ĐÚNG VỀ TƯƠNG LAI
Tương lai là gì? Tương lai là cái mà
chúng ta không thể nhớ lại được. Bạn không thể nhớ được tương
lai vì nó chưa xảy ra. Vì thế nên sự việc phải xảy ra trong hiện tại trước rồi
nó trở thành quá khứ -- trở thành một ký ức để chúng ta có thể nhớ
lại. Chúng ta không biết tương lai, nhưng tương lai chứa đựng những
khả năng gần như vô hạn, phải không các bạn? Chúng ta có thể quên
hẳn đi hiện tại để sống với những lo âu về tương lai như "Tôi sẽ làm
gì khi những người thân yêu từ bỏ tôi và ra đi? Tôi sẽ làm gì nếu tôi
bị bịnh ung thư? Tôi sẽ làm gì nếu tôi bị thua lỗ tất cả tiền tài và của cải?
Cái gì sẽ xảy ra nếu tôi không thành tựu đạo quả trước khi lìa bỏ
cõi đời nầy?"
Thật ra, cái chết chỉ xảy ra trong
hiện tại; chúng ta không thể chết trong tương lai vì tương lai chưa
xảy đến. Nhưng tương lai chứa đựng khả năng mất mát, chết chóc,
hay tật bệnh, và chúng ta biết là hiện nay chúng ta đang ngày càng trở nên
già yếu. Đây không phải là những viễn ảnh lạc quan, vui vẻ và dễ chịu phải
không các bạn? Trong tương lai, sẽ luôn có viễn ảnh của sự già, bệnh, và chết.
Tương lai cũng có niềm hy vọng là mọi việc đều sẽ xảy ra như ý chúng ta
muốn -- chúng ta sẽ không bị đau đớn, chúng ta sẽ được khỏe mạnh cho
đến lúc chết, những người thân yêu sẽ ở bên cạnh chúng ta, và mọi việc đều
sẽ ổn thỏa. Tuy nhiên, cho dù chúng ta cố bám chặt vào những hy vọng và
mong cầu tốt đẹp trên, nỗi lo âu vẫn xuất hiện ngay
sau đó. Chúng ta lo âu là những gì trái ngược lại với điều chúng
ta mong đợi sẽ vẫn xảy ra.
Tôi ghi nhận điều này từ kinh
nghiệm của bản thân mình: ngay lúc mà tôi nói, "Hy vọng là mọi việc sẽ ổn
thỏa," thì ngay liền sau đó, tôi lại lo là mọi việc sẽ không ổn thỏa.
Nếu tôi nói, "Hy vọng chúng ta sẽ có những ngày nắng ấm," thì liền
ngay sau đó, tôi lại nghĩ ngược lại, "Đây có thể là một trong những
mùa hè ẩm ướt khủng khiếp, thậm chí sẽ không có được một ngày nắng
ấm" Khi bám víu vào một hy vọng ở tương lai, chúng ta sẽ lo sợ
là điều trái ngược sẽ xảy ra ngay liền sau đó.
Tương lai là sự chờ mong và hy vọng.
Chúng ta có thể bi quan hay lạc quan, nhưng bi quan và lạc quan thường đi
đôi và hỗ trợ lẫn nhau. Cho dù có lạc quan đến đâu đi nữa, bạn sẽ vẫn phải
đấu tranh với xu hướng bi quan đang kéo ngược bạn lại ngay sau đó. Ngày
nào mà chúng ta chưa giác ngộ, đây sẽ là kinh nghiệm của chúng ta về tương
lai. Kinh nghiệm sống với niềm hy vọng và nỗi lo sợ luôn đi đôi với
nhau. Chỉ khi nào chúng ta hiểu được sự vận hành của các pháp và sống
tỉnh thức với trí tuệ, sáng suốt, và thông minh, chúng ta mới thoát khỏi sự chi
phối của hai lực tâm lý song hành và đối nghịch nầy. Với cái nhìn trí tuệ
nầy về tương lai, chúng ta sẽ không có gì để lo âu cả.
THỨC TỈNH VÀ SỐNG TRONG HIỆN TẠI
Bạn có thể tự nói với mình,
"Không có sự đau khổ; không có gì để lo âu cả; không có
gì để sợ hãi cả." Nhưng nếu bạn càng chấp chặt vào những dòng chữ
nầy, chắc chắn bạn sẽ gặp những gì trái ngược lại. Đức Phật nói có sự đau khổ,
nhưng Ngài cũng nói là có con đường đi ra khỏi khổ đau. Ngài nói: "Ta
thuyết giảng cho chúng sanh hai điều: khổ đau và con đường
đi ra khỏi khổ đau." Và Ngài dạy chúng ta về thực tại, tại đây
và ngay bây giờ, chứ không phải về kiếp sau. Ngài không dạy rằng, "Nếu các
con là những người con trai và con gái nhỏ ngoan ngoãn trong kiếp này, các con
sẽ được hưởng phước trọn vẹn trong kiếp sau." Trái lại, Ngài
dạy, "Ngay bây giờ -- tại đây và ngay bây giờ -- trí tuệ là sống
trong hiện tại." Và nơi nào có trí tuệ và sự sáng suốt sẽ không còn
khổ đau.
Khi tỉnh giác và sống với thực tại,
chúng ta sẽ không khổ đau nhưng vẫn còn sự cảm nhận. Sẽ vẫn có hợp và tan,
sinh khởi và hoại diệt trong cuộc sống ở cõi dục giới nầy. Sẽ vẫn có những bước
thăng trầm, những lúc lên cao và xuống thấp trong thế giới của giác quan và cảm
thọ. Nhưng những điều nầy không còn là "tôi" và "của
tôi" nữa. Chúng ta sẽ không còn chấp chặt hay tìm cách chối bỏ chúng. Tất
cả các pháp đang xảy diễn như nó đang xảy diễn. Chỉ có sự thấy và
biết. Chỉ có những điều kiện được sinh ra rồi diệt đi chứ không còn những
phản ứng trước một hoàn cảnh cá biệt nào -- những phản ứng gắn liền với sự mê
lầm, không thấy được quan hệ giữa hoàn cảnh đó với cái tổng thể của
các pháp hữu vi và pháp vô vi trên thế gian nầy.
Khi chúng ta càng tự nhắc nhở chúng
ta hãy luôn tỉnh giác về sự vận hành của các pháp, và càng hành thiền, chúng ta
sẽ ngày càng tin tưởng giáo pháp và tăng cường khả năng gìn giữ và sống theo
giáo pháp. Và rồi chúng ta sẽ có cách ứng xử thích hợp với những vụ việc mà
chúng ta gặp trong hiện tại. Đây không phải là sự thông minh cá nhân; đây không
phải là sự thông minh mà bạn thường nghĩ đến khi bạn cho là mình thông minh và
khôn khéo. Sự thông minh hay trí tuệ nầy không bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa xã
hội bên ngoài, nhưng nó luôn có công năng tiếp thu, đón nhận cuộc đời và học
hỏi từ kinh nghiệm trong suốt cuộc đời của chúng ta.
Với khả năng tỉnh thức và quán tưởng
về cuộc đời, chúng ta sẽ không còn bị kẹt trong ảo tưởng thân nầy là tự
ngã của tôi. Chúng ta sẽ không còn đòi hỏi hay mong cầu được thỏa mãn
từ những cái không thể nào thỏa mãn chúng ta được. Chúng ta sẽ không
còn đổ lỗi cho chúng ta hay người khác. Tất cả những thói quen suy
nghĩ nầy sẽ từ từ tan biến đi, và chỉ còn lại sự đối đãi, cách ứng xử
chân thật và nhạy cảm với cuộc đời, và sự hiểu biết của tâm tỉnh thức
trước sự vận hành của các pháp. Chúng ta sẽ hiểu lời dạy của Đức
Phật: Hãy thể nhập thực tại, sống với thực tại, và qua đó hiểu được
thực tại.
***
------------------------------
Câu hỏi:
* Làm
thế nào để chính niệm trong đời sống vô cùng bận rộn ngày nay?
Trả lời: Chính niệm là khả năng tỉnh thức và tỉnh giác cho dù bạn ở
bất cứ nơi nào. Là cư sĩ, các bạn thường không được môi trường chung quanh
khuyến khích và hỗ trợ thực hành chánh niệm, vì người đời thường không
quan tâm đến giáo pháp. Tuy nhiên, trong thiền viện, sẽ có những quy tắc
và lề lối hỗ trợ bạn làm việc nầy. Đây là một thuận lợi của đời sống tu viện.
Chúng ta phải chính niệm về sự vận
hành của các pháp cho dù cuộc sống của chúng ta là như thế nào đi nữa và
không nên đổ lỗi là vì không có những điều kiện hỗ trợ nên chúng ta
không thể chính niệm được. Nếu bạn ở một nơi mà công việc đòi
hỏi bạn phải sống theo một lề lối nào đó hay phải làm một số công tác
nào đó, thì bạn không thể chờ đợi là cuộc sống sẽ tĩnh lặng và giản
dị. Áp lực nặng nề của công việc sẽ không giúp bạn lắng tâm hay sống an tịnh
với môi trường chung quanh. Nhưng bạn vẫn có thể chánh niệm về cuộc sống bận
rộn đó, và qua sự chánh niệm đó, bạn có thể thiết lập trong thân và
tâm một sự an vui và tĩnh lặng cho dù điều kiện sống chung quanh rất ư là
kích động và tạo nhiều áp lực nặng nề.
Đôi khi chúng ta lý tưởng
hóa đời sống ở các tu viện, nhưng đời sống tu viện không thể nào hoàn hảo.
Đôi khi tăng chúng sống hòa thuận nhau, trong đó mọi người đều hành động và ứng
xử một cách trưởng thành và chân thật. Được gần những bạn đồng tu mà bạn có thể
tin tưởng và kính trọng quả là một điều an lạc và bạn có thể trở nên quyến luyến
và dính mắc với sự an lạc đó. Rồi khi có một vị tăng khó chịu
nào đó đến ở tu viện và không thuận theo nội quy của tăng đoàn, bạn sẽ nỗi
giận và nghĩ rằng, "Tôi không chịu được điều nầy. Chúng ta
phải đuổi vị tăng phá hoại nầy ra khỏi tu viện để bảo vệ tăng đoàn quý báu
của chúng ta nơi đó mọi người sống thuận thảo và cùng nhau tu tập. Chúng
ta không muốn bất cứ phần tử phá hoại và chia rẽ nào len lỏi vào tăng
đoàn." Nhưng chính những tư tưởng nầy sẽ làm chúng ta đau
khổ. Vì thế, chúng ta phải tập mở rộng tâm thức để sẵn sàng chấp nhận
những phá hoại và đổ vỡ trong đời sống tu viện.
Thí dụ, bạn có thể dính mắc với bầu
không khí tĩnh lặng của những khóa thiền dài ngày. Trong thiền đường yên
lặng, nơi đó mọi người ngồi yên tĩnh, bất cứ tiếng động nào, dù nhỏ đến
đâu đều có thể nghe được. Vì thế, bạn có thể bực mình khi nghe tiếng lạo
xạo của một cái áo khoát ny-lông hay một ai đó ồn ào trong
khi ăn uống. Bạn nghĩ, "Trời ơi, tôi chỉ mong vị đó không
làm ồn nữa." Lúc đó, bạn đang khởi tâm sân hận với cái thực tại
ồn ào đang xảy diễn, bởi vì bạn muốn sự yên lặng tuyệt đối được
tiếp tục duy trì. Và khi sự yên lặng bị phá vỡ, bạn thấy rằng mình đã bị
dính mắc với sự yên lặng. Khi nói chúng ta chấp nhận tất cả khả năng phá vỡ sự
tĩnh lặng của thiền viện không có nghĩa là bạn sẽ tông cửa chạy ra khỏi
thiền đường và tìm cách phá phách để chấm dứt sự tĩnh lặng, nhưng là
mở rộng tâm để chấp nhận tất cả khả năng phá vỡ sự tĩnh lặng thay vì bám
chặt vào sự tĩnh lặng mà bạn đang chiêm ngưỡng.
Tâm chánh niệm cho phép chúng ta mở
rộng để đón nhận tất cả khả năng -- những gì chúng ta yêu thích và cả
những gì chúng ta không yêu thích. Rồi chúng ta có thể bắt đầu chấp nhận
dòng chảy không ngừng nghỉ của cuộc đời, chấp nhận sự thay đổi và chuyển
hóa của cuộc sống như chính nó mà không sân hận hay chán nãn khi nó không xảy
ra theo như ý chúng ta muốn. Thật ra, chúng ta sẽ chỉ thoải mái và hòa thuận
với cuộc đời khi chúng ta có thể chấp nhận được toàn bộ cuộc đời, cả
cái xấu lẫn cái tốt, như chính nó. Nhiều người dễ trở nên bực mình, nhút
nhát và co cụm lại vì họ không muốn chung đụng với những gì làm họ
kích động hoặc bực mình. Họ nghĩ, "Chao ôi, tôi không đến đó
được vì tôi rất phiền muộn về những gì xảy ra ở đó." Nhưng khi
chánh niệm, bạn sẽ không quan tâm là bạn có bị phiền muộn và bất mãn hay không.
Bất mãn là một phần của cuộc sống. Bạn không đi tìm sự bất mãn nhưng bất
mãn sẽ xảy ra. Và nếu nó xảy ra, bạn sẽ học từ kinh nghiệm bất
mãn đó. Đó là một phần kinh nghiệm của cuộc sống làm người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét