Ajahn Sumedho
PHẦN I - TIẾP CẬN VỚI PHÁP
CHƯƠNG 3
QUY Y TAM BẢO
Quy y Phật, Pháp, Tăng hay Quy Y Tam
Bảo là truyền thống của tất cả hệ phái trong Đạo Phật. Tam Bảo
là đối tượng quan trọng để chúng ta hướng lòng thành tín và quán tưởng
trong khi thực hành giáo pháp.
QUY Y PHẬT
Trong ba ngôi Tam Bảo, Phật là nơi
nương tựa đầu tiên và thường được thể hiện bằng tôn ảnh của Ngài
trên điện thờ. Người ta có thể hỏi tại sao các Phật tử lại dựa vào
hình ảnh của Phật. Đó có phải là một hình thức sùng bái thần tượng không? Những
hình tượng nầy có oai lực thiêng liêng gì? Xin thưa không có gì cả; Đó chỉ là
một hình tượng để chúng ta quán tưởng.
Khi ngắm nhìn và chiêm bái tôn ảnh
của Đức Phật, bạn sẽ thấy rằng đó là hình ảnh của một người điềm đạm,
tỉnh giác, và an tịnh. Ngài nhìn ra thế gian và thấy tất cả mọi vật. Ngài ý
thức về cuộc đời nhưng không mê đắm hay dính mắc trong đó. Ngài
không đam mê cũng không buồn chán. Ngài thể hiện năng lực của một người
hoàn toàn bình tĩnh và có thể nhìn thấu suốt mọi vật đúng theo bản chất
của nó, và chiêm ngưỡng tôn ảnh của Đức Phật là cách tốt nhất để gợi
lên trong tâm bạn những đức tính cao đẹp của Ngài. Khi chiêm ngưỡng tôn
ảnh của Đức Phật, bạn sẽ cảm thấy an tịnh và tĩnh lặng. Từ đó, được
gần những hình tượng của Đức Phật, chúng ta sẽ cảm thấy an vui; Tôn
ảnh và tôn tượng của Đức Phật mang lại sự an lạc cho tâm hồn chúng ta.
Khi tiếp cận với những hình
tượng đầy lòng căm thù hoặc đam mê mãnh liệt hoặc những đối
tượng quyến rũ và gợi cảm, dĩ nhiên chúng ta sẽ say đắm và bị
kích động. Khi ngắm nhìn vật gì, con người thường dễ bị đồng hóa
với cái ấy. Đây là quy luật. Khung cảnh xung quanh thường tác động
vào tâm chúng ta. Vì thế nên khi hành thiền nhiều hơn, bạn sẽ thích sống trong
một khung cảnh bình yên thay vì một nơi lao xao và đầy kích động.
Mỗi buổi sáng, tại các tu viện, các
tăng ni thường dâng đèn, hương, và hoa cúng dường Đức Phật. Chúng ta
cũng nên suy nghĩ về ý nghĩa của những vật phẩm cúng dường nầy. Bông hoa là một
trong những vật phẩm đẹp đẽ và dễ thương nhất mà chúng ta có thể dâng hiến
cho con người vì bông hoa là một trong những gì đẹp nhất mà trái đất
nầy có thể tạo ra. Nơi nào có hoa tươi thì nơi ấy càng thêm xinh đẹp;
bông hoa không bao giờ làm mất đi giá trị hay phá hủy bất cứ vật gì. Và trong đạo
Phật, bông hoa là hiện thân của sự trong sạch về đức hạnh. Trong các
tôn ảnh của Đức Phật, Ngài thường ngự trên tòa sen. Ở vùng Đông nam
Á, hoa sen mọc trong các đầm trũng và ao hồ, vươn lên từ bùn nhơ và
nước đục. Nhánh sen vượt lên trên tất cả những gì nhơ bẩn và nhớp
nhúa để đem lại cho trái đất nầy một bông hoa tuyệt đẹp. Hình tượng
nầy cũng giống như một người có đức hạnh. Một người sống và trách
nhiệm về những việc mình làm luôn là một người cao quý để chúng ta gần gũi
và thân cận. Đi đến đâu vị ấy cũng được mọi người hoan hỷ chào đón; Vị ấy
làm đẹp và làm tăng vẻ đẹp cuộc đời. Trong khi những người ích kỷ,
thiếu đức hạnh, cẩu thả cũng giống như cỏ dại mọc tràn lan trên
trái đất nầy. Điều nầy giải thích tại sao trong đạo Phật người ta
dùng biểu tượng Đức Phật ngự trên tòa sen. Đó là vì Trí tuệ của Phật chỉ đến từ
sự trong sạch về đạo đức.
Con người có thể sống ở rất nhiều
trình độ và cảnh giới. Như phần lớn loài người, chúng ta sống với những
bản năng sinh học của cơ thể, thuận theo những nhu cầu của loài vật như ăn, ngủ
và sinh sản để duy trì nòi giống. Chúng ta có thể sống thấp hơn trình độ
ấy và bị ám ảnh triền miên bởi những dục vọng rất thấp hèn. Ngày nay, nhiều
người sống theo cách này. Mà thật ra, khi sống như thế, họ không còn là con người
nữa; họ chỉ là những bóng ma sống chập chờn trong cõi u minh luôn bị đè
nặng và hành hạ bởi những cơn đói khát và thèm muốn không thể nào thỏa
mãn được. Đó là trường hợp của những người nghiện xì ke ma túy hay
nghiện ruợu. Hay họ có thể sống như loài quỷ dữ hung hãn và
ác độc luôn tìm cách tiêu diệt và hãm hại người khác. Vì thế, mang
tấm thân làm người không nhất thiết là bạn sẽ sống thật sự như con người. Làm
người không phải dễ. Cảnh giới của loài người là nơi mà đạo lý có ảnh
hưởng rất sâu rộng và vì thế làm người cũng hàm ý là có một đời sống đạo
đức và tâm linh đi kèm theo sắc thân vật lý nầy.
Chỉ khi nào chúng ta quyết định
lấy trách nhiệm cho cuộc sống, chúng ta mới có thể trở thành con người trọn
vẹn. Muốn được làm người theo nghĩa thật sự, chúng ta phải để tâm sức
vượt lên chính mình. Sống có trách nhiệm đòi hỏi công sức; nó không
phải là cái gì tự trên trời rơi xuống nếu chúng ta không tự mình cố gắng vươn
lên. Chúng ta phải chọn lựa. Chúng ta phải quyết định về hướng đi của cuộc
đời mình rồi để hết tâm lực và công sức vào đó. Nếu không, chúng
ta sẽ chỉ sống theo sự thôi thúc bản năng và sẽ bị đưa đẩy vào cảnh giới ngạ quỷ, súc sanh với những tham đắm và thấp hèn. Khi để tâm sức sống theo hướng đã chọn, chúng
ta sẽ vươn lên cao hơn. Đây chính là biểu tượng của hoa sen hay bất cứ loại hoa
nào khác trên đời nầy.
Khi quy y Phật, chúng ta nương tựa
vào trí tuệ của Ngài. Chữ Buddha hay "Phật" thật sự nghĩa là người có
trí tuệ; Nó có nghĩa là "người biết được sự thật" hay "cái
biết", "cái giác." Khi đã trở thành Phật tử, bạn nên hiểu
là bạn đang đi trên đường đạo và bạn đã lấy trí tuệ làm chỗ
nương tựa. Chúng ta có được trí tuệ là nhờ biết quan sát và suy tưởng các
pháp thế gian. Trí tuệ là cái gì đã có sẳn. Nó không phải là cái mà bạn
phải đi tìm và sẽ bắt gặp. Trái lại, nó là cái có sẳn và cần được sử
dụng. Nếu nghĩ rằng hành thiền sẽ đưa chúng ta đến trí tuệ
thì đây là một điều sai lầm. Hành thiền là học cách sử dụng cái
trí tuệ đã có sẳn trong người chúng ta. Vì thế khi hành thiền, bạn quán sát
và suy tưởng về các Pháp hay sự thật về bản chất của các Pháp. Khi bạn quán sát
và suy tưởng về các Pháp, đó chính là lúc mà bạn đang sử dụng trí tuệ
của bạn. Trí tuệ không phải là cái mà bạn chưa có và phải đi tìm.
Trái lại, nó là cái có sẵn nhưng bạn lại ít khi sử dụng hay thường không ý thức
về nó.
Trong khi tụng đọc kinh điển
hàng ngày tại các tu viện, chúng ta thường tôn vinh các ân đức của Phật
như Arahant (A la hán); Sammasambuddha (Chánh
biến tri). Đây là những từ Pali để diễn tả những gì thật sự thanh tịnh và giác
ngộ. Sammasambuddha có nghĩa là người giác ngộ vì vị ấy đã
biết được bản chất thật sự của vạn pháp. Arahant là từ để
chỉ một con người toàn hảo, một con người thấy rất rõ và không còn bị mê lầm
bởi những hình tướng bên ngoài và những điều kiện giới hạn của tâm thức.
Đức Phật cũng có danh hiệu là Vijjacaranasampanno (Minh
hạnh túc), nghĩa là người có trí tuệ và đức hạnh toàn hảo. Ngài không phải
là người chỉ hiểu đúng nhưng lại làm sai. Ngày nay, nhiều tu sĩ Phật giáo
bị mắc phải bịnh này. Họ có trình độ viết sách, giảng dạy và hiểu biết,
nhưng đức hạnh của họ lại không đi đôi với trình độ hiểu biết
nầy. Nhưng Đức Phật thì khác. Ngài hiểu biết như thế nào thì sống như
thế đó; Ngài sống đúng danh hiệu Vijjacaranasampanno hay
thật sự là người toàn hảo về cả trí tuệ lẫn đức hạnh.
Một ân đức khác của Phật
là Lokavidu (Thế gian giải), nghĩa là người thông suốt thế
gian, và hiểu đúng thực chất của thế gian. Thế thì cái thế gian
mà Đức Phật thông suốt nầy ở đâu? Khi bạn suy tưởng về câu hỏi nầy,
"Thế gian nầy ở đâu?" Bạn sẽ khám phá ra rằng thế gian nầy
không ở đâu xa lạ mà chính là ở trong tâm của bạn. Tuy nhiên, thông thường
chúng ta lại không nhìn thế gian theo góc độ nầy; ngược lại, chúng ta
thường cho thế gian là trái đất hay hành tinh đang nằm ngoài chúng
ta. Bạn nhìn vào bản đồ thế giới và thấy có nước Thụy Sĩ màu xanh, nước
Anh màu hồng. Bạn xem Á châu, Úc châu, và Mỹ châu là thế gian, là cái mà bạn có
thể biết được vì bạn thấy nó trên bản đồ hay đã học về nó trong môn
lịch sử và địa lý. Nhưng thế gian nầy thật sự chính là tâm của bạn và
bạn biết được thế gian nầy là nhờ bạn biết được tâm của mình. Nhờ
quán sát và suy tưởng về những trạng thái tâm, bạn sẽ biết thế gian đúng
như thực tướng của nó, khi nó thật sự sinh khởi với những lo âu, sợ hãi, ham
muốn và khát vọng, quan điểm, ý kiến và nhận thức sinh ra rồi mất đi
trong tâm của. Đó chính là ý nghĩa của danh hiệu Lokavidu hay
Thế gian giải của Đức Phật.
Đức Phật còn có danh hiệu là Sarathi,
nghĩa đen là người điều khiển cỗ xe ngựa, nghĩa bóng là người biết
cách điều ngự, thuần phục những chúng sanh chưa thuần phục. Điều nầy
có nghĩa là khi chúng ta quy y Phật, chúng ta tự nguyện nương tựa vào sự lãnh
đạo và hướng dẫn của trí tuệ chứ không phải của sự ngu dốt và si mê. Chúng ta
hướng về trí tuệ của Đức Phật và tiếp nhận sự giáo hóa của trí tuệ nầy.
Qua việc mở rộng tâm thức để tiếp nhận sự hướng dẫn của trí tuệ, chúng ta
tu tập để khéo léo sống cuộc đời thánh thiện. Chúng ta sẽ tập sống tốt và
lương thiện trong tấm thân nầy và trong xã hội nầy. Chúng ta tu tập để trở
thành người hữu ích thay vì là nỗi phiền muộn hay tai họa cho thế gian. Đức
Phật cũng là thầy dạy (sattha) cho cả chư thiên và nhân loại (Thiên nhân
sư). Điều nầy có nghĩa là Đức Phật giáo hóa tất cả chúng sinh nào có đức hạnh
trong sạch muốn thấy và hiểu biết thế gian một cách đúng đắn, nói khác đi, muốn
thấy được chân lý tối thượng.
QUY Y PHÁP
Chúng ta có thể nhân cách
hóa Đức Phật, hay nói khác đi, chúng ta có thể chiêm ngưỡng Đức Phật
qua hình tượng của một con người. Nhưng với Pháp thì khác. Pháp không có tính
chất của con người hay cá nhân riêng biệt. Bạn không thể xây dựng một hình ảnh
con người về Pháp. Pháp thường được thể hiện qua biểu tượng của một
bánh xe (tiếng Pali là dhammacakka, nghĩa là bánh xe Pháp hay Pháp
luân). Pháp có nghĩa là sự thật, sự thật về bản chất của vạn pháp. Vì thế, Pháp
bao gồm tất cả -- con người, thú vật, ác quỷ, thánh thần -- tất cả những gì mà
chúng ta có thể nghĩ đến hoặc nhận thức được, và Pháp cũng có nghĩa là
chân lý bất tử. Pháp bao gồm mọi vật -- cái biết, sự thật, các nhân duyên,
những kinh nghiệm của sáu giác quan, sự trống rỗng, và tất cả hình thái thể
hiện ra bên ngoài mà chúng ta thường gọi là sắc. Tóm lại, tất cả đều là
Pháp hay Pháp là tất cả.
Hành thiền là cách thức để
chúng ta tự khai mở và tiếp cận với Pháp. Khi hành thiền, bạn sẽ tiếp cận với
sự thật. Vì thế khi đọc tụng các ân đức của Pháp, chúng ta tụng rằng
là Pháp "được tự chứng ngộ như thật tại đây và ngay bây giờ" (sanditthiko),
"được chứng ngộ ngay mà không chờ đợi thời gian" (akaliko),
"khuyến khích người khác đến xem và tự chứng nghiệm" (ehipassiko),
"sẽ đưa đến giải thoát" (opanayiko),
"phải được chứng nghiệm tự mình" (paccattam), "chỉ
có thể được thấy và biết được nơi tâm của các bậc thượng trí" (veditabbo
vinnuhi). Những từ nầy là để chỉ tất cả những gì đang được chứng
nghiệm tại đây và ngay bây giờ. Khi tiếp cận với sự thật, chúng ta không
nhắm đến một cái gì cá biệt, chẳng hạn như chú ý đến một đề mục riêng
biệt rồi đặt câu hỏi: "Đây có phải là sự thật không?". Tiếp
cận với sự thật là mở rộng chứ không phải là thu hẹp tâm vào một đối
tượng. Vì thế nên việc quy y Phật và Pháp nhắc nhở chúng ta phải luôn luôn
tỉnh thức . Tỉnh thức để chúng ta không chỉ tập trung trên đề mục nầy
và chối bỏ đề mục khác; tỉnh thức để chúng ta không bị kẹt trong thói quen
dễ duôi, tham đắm hoặc đè nén và ức chế của tâm. Khi tâm chúng ta thật sự khai
mở -- nghĩa là khi tâm chúng ta mở rộng và tiếp cận với thực tại hay với những
gì xảy ra tại đây và ngay bây giờ -- chúng ta sẽ cảm thấy an lạc vì chúng
ta không còn đi tìm một cái gì cá biệt để bám víu
vào đó. Chúng ta không còn chạy loanh quanh nữa; chúng ta ngừng cuộc
săn đuổi điên loạn của tâm thức. Vì thế, tiếp cận với Pháp là con đường
dẫn đến sự an lạc và tĩnh lặng mà chúng ta phải tự mình chứng nghiệm. Chúng ta
phải tự mình thấy và biết được sự thật; chứ không chờ đợi người
khác chứng nghiệm rồi dạy lại cho chúng ta.
Phật và Pháp không phải là những khái niệm nho nhỏ và dễ thương để chúng ta tụng đọc; Trái lại, Phật và Pháp là những khái niệm để chúng ta quán tưởng và suy ngẫm. Đó là những lời dạy để chúng ta xem xét và áp dụng vào cuộc sống thật của mình. Thay vì nghĩ về Đức Phật như một vị tiên tri nào đó sống cách đây 2.500 năm, chúng ta nên nghĩ về Đức Phật như người đại diện cho cái trí tuệ có sẵn trong mỗi người chúng ta và trí tuệ nầy sẽ giúp chúng ta tiếp cận và thấy được Pháp trong giây phút hiện tại. Chúng ta không cần đến núi Hy Mã Lạp Sơn để tìm Đức Phật. Chúng ta chỉ cần khai mở tâm thức để tiếp cận với những gì đang xảy ra chung quanh ngay giây phút nầy và ngay tại đây. Đó chính là chúng ta đã quy y Phật và Pháp. Quy y không có nghĩa là đi tìm một cái gì đó ở một nơi nào đó mà là mở rộng tâm thức để tiếp cận với thực tại. Quy y là quan sát mọi vật đúng với thực chất của nó, chứ không phải như chúng ta nghĩ về nó một cách mơ hồ và huyền ảo.
QUY Y TĂNG
Tăng là một xã hội, hay
cộng đồng của những người có đức hạnh, những người đang thực hành giáo
pháp, sử dụng trí tuệ, và quán tưởng về sự thật. Khi quy y Tăng, bạn không
nương tựa vào con người hay những khả năng riêng của bạn nữa mà vào một cái gì
lớn hơn. Tăng là một cộng đồng mà trong đó cá nhân của bạn không còn
quan trọng nữa. Cho dù bạn là nam hay nữ, trẻ hay già, có học hay không có học,
hay là cái gì đi nữa, khi đã nương tựa vào tăng đoàn thì những tính chất
nầy không quan trọng nữa. Tăng đoàn là những người thực hành giáo pháp,
sống đời phạm hạnh, suy tưởng về sự thật và sống với trí tuệ.
Quy y Tăng có nghĩa là bạn tự nguyện
từ bỏ những tính chất, nhu cầu và ước vọng riêng tư của mình. Bạn khước từ
những điều nầy hầu mang lại lợi lạc cho Tăng đoàn, những người đang
thực hành giáo pháp, đang trên đường đến gần với sự thật, và chứng
ngộ được sự thật.
ĐẢNH LỄ TAM BẢO
Trên đây là ba nơi nương tựa mà
chúng ta thường gọi là Tam Bảo. Đó là những bảo vật vô giá mà chúng ta đem hết
lòng thành kính và trong khi thành kính đảnh lễ, chúng ta mở rộng và hiến dâng
đời mình lên Tam Bảo. Tinh thần hiến dâng và lòng thành kính là những tình cảm
tốt đẹp của con người. Người mà không biết kính trọng, hay nói
khác đi, không biết thương mến và biết ơn kẻ khác, thường gây khó chịu và
làm người khác xa lánh. Người hay than phiền, phê phán người khác, đòi
hỏi, bướng bỉnh và kiêu mạn thường là những người mà chúng ta không thích gần
gũi. Thái độ tự phụ cho "Tôi là người giỏi nhất, tôi sẽ không
cúi đầu trước bất cứ ai" là một thuộc tính xấu xa của con người.
Thành kính lễ bái Tam Bảo được
thể hiện qua việc mở rộng tâm thức và quỳ lạy để hiến dâng đời
mình đến Tam Bảo. Đó là một động tác thuộc về thân trong đó chúng ta
thật sự dâng hiến chúng ta, thân thể và hình hài con người nầy của chúng ta đến
Chân lý tối thượng. Chúng ta cuối đầu đảnh lễ Phật và đặt dưới chân
Ngài những gì chúng ta tin tưởng và gắn liền với cuộc sống chúng ta. Nói
khác đi, chúng ta dâng hiến chính cuộc đời của chúng ta cho Chân lý tối
thượng.
Đây là cách nhìn của chúng tôi về
truyền thống lễ bái Tam Bảo trong Phật giáo nguyên thủy. Nếu thấy thích hợp,
bạn có thể hành trì theo cách nầy. Nếu thấy nghi thức trên không bổ ích, bạn
không cần phải làm theo. Chúng ta không thể áp đặt điều nầy trên bất cứ ai
cả; đó là việc mà bạn có thể làm hoặc không làm. Tất cả đều tùy vào bạn.
Tuy nhiên, tu tập theo truyền thống nầy đòi hỏi chúng ta phải làm một số
cố gắng, và khi được nhuần nhuyễn hành trì với tâm chánh niệm, truyền
thống nầy sẽ mang lại cho cuộc sống của chúng ta nhiều nét đẹp. Chúng
ta sẽ có tác phong thanh nhã, dáng vấp oai nghi và thấm nhuần tinh thần hòa hợp
của Tăng đoàn. Chúng ta sẽ hòa với nhau làm một thay vì là một nhóm gồm những
cá nhân riêng lẻ, trong đó mỗi người làm theo mỗi cách, tùy theo tình cảm
và sở thích riêng của mình. Chúng ta hòa nhập vào truyền thống này
qua động tác lễ bái để chuyển đạt tinh thần hiến dâng, tình thương, lòng
biết ơn, và sự kính trọng của chúng ta đối với Tam bảo.
TINH THẦN CỞI MỞ TIẾP THU CÁC TRUYỀN
THỐNG TÔN GIÁO
Các bạn đến từ các tôn giáo
khác đôi khi cảm thấy không thoải mái với những biểu tượng của đạo
Phật. Tình cảm nầy không nhất thiết xuất phát từ niềm tự hào về tôn giáo
hay thái độ cố chấp mà chỉ vì các bạn ấy chưa quen với các biểu tượng Phật
giáo. Trong một vài trường hợp, có bạn cảm thấy là khi đảnh lễ Tam Bảo, họ
đang phản bội lại truyền thống tôn giáo của họ như Ky Tô giáo chẳng hạn.
Nhưng tôi hy vọng cách trình bày về ý nghĩa của việc lễ bái Tam Bảo
trên đây sẽ giúp bạn có cái nhìn đúng đắn về bất cứ truyền thống tôn
giáo nào. Sự hiểu biết nầy sẽ giúp bạn xử lý đúng đắn những truyền thống
của Phật giáo và Ky Tô giáo. Đối với tôi, tinh thần của tất cả tôn giáo đều là
một. Tôi không cho Đạo Phật là truyền thống tôn giáo duy nhất. Theo tôi, ý
nghĩa tối hậu của tôn giáo là -- và phải là -- hướng về chân lý tuyệt đối
và giúp loài người cởi mở và tiếp thu được chân lý tuyệt đối ấy.
Nhưng người đời thường lẫn lộn và làm rối rắm vấn đề vì họ đã
quên mất ý nghĩa tối hậu nầy, và bị kẹt vào các truyền thống tôn giáo như thể
tự nó là cứu cánh thay vì chỉ là phương tiện giúp con người tiếp cận với chân
lý tuyệt đối. Thay vì dùng các truyền thống và nghi thức lễ
bái để mở rộng tâm thức và tiếp thu chân lý, họ lại sử dụng và bám chặt
vào đó.
Khi đã bị dính mắc và ràng buộc
vào đạo Phật, tâm bạn sẽ bắt đầu khép lại. Rồi bạn sẽ trở thành
tín đồ của một tông phái mang tên là Đạo Phật. Trong đạo
Phật lại có nhiều hệ phái và bạn có thể trở thành Phật tử Đại thừa để đối
lại với Phật tử Tiểu thừa, hay Phật tử Kim cang thừa, hay Phật tử Thiền
tông Trung Hoa hay Nhật Bản. Đạo Phật có đủ loại biến dạng của nó. Ở nước Anh,
chúng ta có tất cả các loại: Tín đồ Ky tô giáo theo đạo Phật, Tín đồ Phật
giáo theo Ky tô giáo, Tín đồ Do Thái giáo theo đạo Phật, Tín đồ Phật
giáo theo Do Thái giáo, các nhà khoa học hiện đại theo đạo Phật, người Anh
theo đạo Phật vân vân… Rồi lại có Phật tử nhưng thật ra không phải là Phật
tử vì họ không chịu quy y Phật và Tăng mà chỉ quy y Pháp. Chúng ta có thể gọi
họ là tín đồ của Pháp (Dhammaist).
Vì thế, sự quyến luyến, trói buộc,
và dính mắc sẽ dẫn đến chia cắt; nó sẽ dẫn đến phân liệt và chia
rẽ. Những gì bạn quyến luyến và dính mắc sẽ trở thành pháp môn mà bạn sùng bái.
Khuynh hướng bè phái chia rẽ là một trong những vấn đề lớn của nhân loại,
cho dù đó là bè phái về tôn giáo hay chính trị hay bất cứ cái gì khác. Khi
có người nói, "Cách của tôi là đúng và những cách khác là sai,"
hay "Cái của tôi là tốt nhất và những cái khác là tồi," đó chính
là sự trói buộc và dính mắc. Ngay cả những gì bạn đang có là cao cả và
tốt đẹp nhất, nhưng nếu bạn bám chặt vào cái cao cả và tốt đẹp nhất
nầy, bạn vẫn là người vô minh và mê muội. Vì thế, bạn có thể có tất cả mọi cái
tốt đẹp nhất và thanh cao nhất trên đời nhưng bạn sẽ vẫn bị đắm chìm
trong mê muội và không thể giác ngộ được.
Tôi không bao giờ muốn tạo cảm tưởng
Phật giáo nguyên thủy là con đường hay nhất và là cách duy nhất. Bởi vì
"hay nhất" và "duy nhất" là những tính chất mà chúng ta
thường dính mắc. Phật giáo nguyên thủy cho chúng ta một quy ước, một truyền
thống, một cái gì đó để giúp bạn tự khai mở, suy tưởng và học tập cách sử
dụng nó trên đường tu tập. Cho dù bạn thích nó, không thích nó,
phản đối nó, bực bội vì nó, thật sự yêu thích nó, hay lãnh đạm với
nó -- xin bạn hảy ghi nhận những trạng thái tâm nầy khi nó sinh khởi trong
tâm bạn thay vì đứng về pháp môn nầy hoặc pháp môn kia và chống đối
lẫn nhau. Và rồi bạn có thể quán tưởng về các trạng thái tâm nầy. Nó cho
bạn một cái gì đó để bạn có thể quán tưởng ngay trong chính con người của
bạn. Nó là cơ hội để bạn hướng về chân lý tối thượng.
***
------------------------------
Câu hỏi:
* Theo
lời Sư giảng, việc quy y Tam Bảo đòi hỏi người Phật tử phải có tâm tín
thành rất mạnh. Tuy nhiên, dựa vào những gì tôi đọc được, Đạo Phật chủ
yếu rất trí thức, thường thiên về triết học và lý luận. Vì thế, xin Sư
giảng thêm về tầm quan trọng của đức tin trong việc thực hành giáo pháp,
và làm thế nào chúng tôi có thể phát triển tâm tín thành nếu hiện nay chúng tôi
không lễ bái cúng dường hay thậm chí chưa tin ở bất cứ điều gì cả.
Trả lời: Theo tôi nghĩ, đối với phần lớn chúng ta, đức tin
nơi Tam bảo chỉ có thể phát sinh và lớn mạnh trong quá trình thực hành giáo
pháp; trong khi tu tập, bạn sẽ buông bỏ những quan kiến sai lầm và ngày càng
tin tưởng vào Phật-Pháp-Tăng. Bạn không cần phải tự thuyết phục rằng có cái gọi
là Phật-Pháp-Tăng mà bạn phải tin tưởng; niềm tin không thể xuất phát từ một ý
tưởng hay khái niệm. Khi tâm càng thanh tịnh, bạn sẽ càng tin tưởng vào cái mà
ngôn ngữ đời thường gọi là Phật-Pháp-Tăng. Nếu không có đức tin
nầy, nếu không nương tựa vào Tam Bảo, cho dù bạn có thiền định hay suy
tưởng về các pháp thế gian nhiều đến đâu đi nữa, Phật pháp vẫn chỉ là một lý
tưởng mà chúng ta mong đạt đến trong tương lai, hay chỉ là một phương pháp
trị liệu để con người giải tỏa những ẩn ức tâm lý của mình. Trong cả hai
trường hợp nầy, bạn sẽ không thể vượt lên trên cái thế gian hữu hạn và chứng
nghiệm được cảnh giới Bất sinh bất diệt ngay trong kiếp sống nầy. Nếu
bạn chỉ muốn sử dụng đạo Phật để sửa đổi tâm tánh, khắc phục những
quan kiến sai lầm, lo âu sợ hãi và khát vọng của tâm thức, Phật Pháp có thể
giúp bạn giải quyết và đương đầu với những vấn đề của xã hội vật chất nầy,
nhưng bạn không thể vượt lên trên thế gian nầy, nói khác đi, bạn sẽ không
đạt được quả vị giải thoát. Vì thế, bạn phải đặt trọn niềm tin trong
sạch và tuyệt đối nơi Phật-Pháp-Tăng. Tam Bảo không phải được
đặt ra chỉ để tôn thờ và lễ bái. Tam bảo được đặt ra để gợi ý, nhắc nhỡ,
và giúp chúng ta nhận ra được bản chất thật sự của Phật-Pháp-Tăng. Khi
quán tưởng về Tam Bảo, từ từ bạn sẽ buông bỏ tất cả những suy nghĩ và
quan điểm xuất phát từ cái nhìn tự ngã của mình.
* Xin
Sư đề nghị một vài phương pháp, chẳng hạn như tụng kinh hay lập điện
thờ Phật, khả dĩ có thể giúp chúng tôi phát sinh đức tin nơi Tam bảo hay làm
cho chúng tôi thấy đức tin một cách cụ thể hơn.
Trả lời: Vâng, các bạn có thể sử dụng bất cứ hình thức nghệ thuật,
biểu tượng, nghi thức, hay truyền thống nào trong đạo Phật mà bạn cảm thấy
thích hợp. Chúng ta cần nhớ rằng đối với xã hội hiện đại, biểu
tượng Phật-Pháp-Tăng không có ý nghĩa gì hết và khi có rất nhiều quan điểm
đi ngược lại truyền thống tôn giáo và tâm tín thành, người đời thường
xem đức tin nơi Tam Bảo là một loại đức tin ngây thơ và thô thiển. Vì
thế chúng ta cần phải sử dụng và phát triển các biểu tượng Phật giáo với cái
nhìn trí tuệ chứ không phải với cái nhìn dị đoan mê tín. Chúng ta sử dụng
biểu tượng Phật-Pháp-Tăng không phải với sự mê tín mà với cái nhìn trí tuệ,
nghĩa là chúng ta ghi nhớ, suy tưởng, và chánh niệm về các ân đức của các
biểu tượng nầy. Và nếu bạn phát huy đức tin trong sạch với Tam Bảo
tại đây và ngay bây giờ, đó chính là bạn đang sử dụng nó. Tam
Bảo trở thành phương tiện giúp chúng ta phát triển tâm chánh niệm thay vì chỉ
là những biểu tượng dựa trên niềm tin mù quáng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét