Ajahn Sumedho
PHẦN III - SỐNG ĐẠO
CHƯƠNG 14
TỰ DO CỦA TÂM THỨC
Nhiều người xem tự do là lý tưởng
của cuộc sống. Chúng ta ai cũng muốn được một số tự do nào đó như tự
do có thân mạng và đi lại, tự do tôn giáo, hay tự do trong đời
sống tình cảm. Không ai muốn bị tù đày, trói buộc, hay kiềm kẹp, vì
thế tự do trở thành một lý tưởng. Tự do là một khái niệm quan trọng mà chúng ta
cần quán tưởng vì không phải lúc nào chúng ta cũng hiểu đúng đắn ý nghĩa
của hai chữ tự do.
Trong cuộc sống, phần lớn chúng ta
dành rất nhiều thời giờ để sống cho lý tưởng của mình, và xã hội
nầy đã cung cấp rất nhiều lý tưởng để chúng ta theo đuổi. Tự do
là một trong những lý tưởng đó. Nhưng nếu chỉ theo đuổi mà không
hiểu với trí tuệ ý nghĩa thật sự của lý tưởng đó, không chóng thì chầy,
chúng ta sẽ thất vọng, vì hình như cuộc đời nầy không bao giờ cho chúng ta
tất cả tự do mà chúng ta mong muốn hay nghĩ là chúng ta đáng được thọ
hưởng.
ĐI TÌM TỰ DO TRONG THAM ÁI
Chúng ta có thể mãi mãi thất vọng
với cuộc đời, không phải vì cuộc đời nầy là xấu xa và đáng chán,
mà vì nó sẽ không cho chúng ta những gì chúng ta muốn hay nghĩ là chúng
ta đáng được thọ hưởng. Chúng ta thường nghe chính bản thân chúng ta
than phiền, "Cuộc đời nầy thật là không hợp lý và công bằng chút
nào." Chúng ta cho rằng những gì xảy ra trong cuộc sống phải luôn công
bằng và hợp lý. Tuy nhiên, khi nghĩ về điều nầy, bạn sẽ thấy là
trên đời nầy, có người sanh ra với tất cả những gì tốt đẹp nhất, có
người thì vô cùng khổ sở và bất hạnh. Quá nhiều bất công làm cho cuộc đời
nầy thật là phi lý phải không các bạn? Tại sao nước Mỹ không chịu giải trừ vũ
khí? Tại sao người dân các nước Trung Đông cứ luôn đánh nhau, bỏ bom và
phá hoại thành phố xinh đẹp như Beirut ? Tại sao châu Phi bị
nạn đói? Tại sao các nước Trung Mỹ luôn sống trong cảnh bất công và
nghèo đói? Thật là không công bằng chút nào phải không các bạn? Đời
sống quả thật là vô lý nếu nó cứ tiếp diễn như thế và chúng ta muốn nó phải
thay đổi. Tự do là cái mà chúng ta nhắm đến, nhưng chúng ta lại bị giới
hạn và kiềm chế bởi những định chế xã hội và điều kiện vật chất của
tấm thân làm người nầy.
Xuyên qua tất cả vấn đề trên,
chúng ta thấy một nghịch lý bao trùm. Đó là tự do hành động theo bản năng, dục
vọng, và tham ái hình như không mang lại tự do thật sự. Đây là điều mà tôi học
được từ kinh nghiệm bản thân. Khi tôi nghĩ là tôi đang được tự do theo
đuổi những gì mình muốn thì chính lúc ấy, tôi càng cảm thấy bấn loạn, mất
phương hướng, và trở thành nô lệ của dục vọng. Trên đời nầy, những lựa
chọn, những sự vật để lựa chọn, và những khả năng lựa chọn là vô tận. Đây là xã
hội mà chúng ta gọi là "xã hội tự do". Nhưng khi chúng ta cứ chạy
theo tất cả những lựa chọn và khả năng lựa chọn nầy, hình như chúng ta chỉ
chuốc thêm rối rắm và hỗn loạn.
Trái lại, ở những xã hội có ít lựa
chọn, đời sống rất đơn giản. Thí dụ, đời sống ở các tu viện rất
đơn giản vì ở đó không có nhiều lựa chọn. Buổi sáng khi thức dậy, tôi
không cần phải tự hỏi, "Sáng nay mình sẽ mặc áo gì?" "Mình sẽ
chảy tóc kiểu nào?" Đời sống tu viện quả thật không có nhiều lựa chọn. Vì
thế, nhiều người xem cuộc sống giản đơn nầy là một cực hình vì ở đó,
mọi việc đều bị cấm đoán: bạn không thể làm việc nầy, và bạn không thể làm
việc nọ. Nhưng giới luật nhằm đơn giản hóa đời sống tu viện là để
giúp bạn phát triển đời sống tâm linh. Bạn không phải bận tâm quyết định
và lựa chọn những kinh nghiệm sống liên quan đến ngũ dục. Khi đã
từ bỏ tất cả để vào sống ở tu viện, chấp nhận nó, và không còn mong muốn
những cơ hội để thực hiện những gì mình mơ ước, đời sống của bạn dĩ
nhiên sẽ đơn giản. Nó sẽ trực tiếp, thẳng tắp và rõ ràng.
Chúng ta không thể tìm tự do trong
tham ái và dục vọng mà chỉ có thể thấy được tự do trong giáo
pháp. Trong giáo pháp, đời sống không có những lựa chọn dựa trên cơ
sở yêu ghét, luyến ái và dính mắc. Và khi chúng ta không còn bận tâm với vô số
những lựa chọn -- lựa chọn về quan điểm, cơ hội, và tư tưởng mà chúng ta
thường gặp trong các xã hội phức tạp -- sự đơn giản tự nhiên
sẽ đến. Chính nhờ sự đơn giản và phương hướng đạo đức nầy
mà tâm chúng ta được giải thoát. Chúng ta có thể tiếp cận và mở rộng
với cuộc đời theo cách mà chúng ta không thể nào làm được nếu vẫn còn
bị ràng buộc bởi ái dục, bởi những lựa chọn dựa trên sự yêu ghét, và dính mắc
cá nhân. Khi tâm đã mở rộng với cuộc đời, chúng ta sẽ nhận ra rằng sự
tự do của tâm không tùy thuộc vào việc chúng ta có được tự do làm tất cả
những gì chúng ta muốn.
Bất cứ sự tham ái nào xuất phát từ
vô minh sẽ dẫn chúng ta đến một hành động hay một kinh nghiệm bất
thiện. Với tâm tham ái, chúng ta luôn muốn chiếm giữ, xua đuổi, loại
trừ, hay bám chặt vào một cái gì đó -- vì đây là bản chất của
tham ái. Ngay lúc mà tham ái đã đạt được những gì nó muốn, nó sẽ
bắt đầu muốn những thứ khác. Tôi chưa bao giờ thấy một lòng
tham được thỏa mãn vì công năng của tham ái là chiếm hữu và chỉ bằng cách
chiếm hữu, tham ái mới đem lại hạnh phúc và thỏa mãn nhất thời. Bạn có thể
hài lòng và toại nguyện trong một khoảnh khắc nào đó khi đã đạt được
những gì bạn muốn, nhưng rồi tham ái lại bắt đầu làm việc, lo tìm kiếm và
hướng về một cái gì khác để chiếm hữu và tiếp tục thỏa mãn bạn. Vì thế bạn
không thể nào thật sự toại nguyện ngay cả sau khi đã có những gì bạn muốn,
thậm chí sau khi có tài sản, của cải, quyền lực, danh vọng, và tất cả những gì
tốt đẹp nhất trên đời. Thí dụ, nếu bạn làm ra được nhiều
tiền thì liền ngay lúc ấy, bạn sẽ bắt đầu lo sợ bị mất tất cả tiền bạc và
tài sản. Nỗi lo sợ bị mất mát và lòng tham muốn lợi lạc của con người là vô
tận.
Ngày nào mà chúng ta còn sống với
những ảo tưởng trong đó ái dục xuất phát từ vô minh vận hành và và chi
phối, thì thế giới của chúng ta sẽ là thế giới huyễn ảo. Vì thế tham ái không
bao giờ mang lại tự do cho tâm; tham ái cho chúng ta hy vọng là sẽ có tự do
trong tương lai. Nhưng nổ lực tìm tự do qua con đường tham ái chỉ tạo thêm
trói buộc và ảo tưởng.
MỞ RỘNG TÂM ĐỂ TIẾP CẬN VỚI
PHÁP
Đức Phật nhấn mạnh việc nhìn xuyên
thấu và thấy được những ảo tưởng đang kiềm chế và giam hãm chúng ta bằng cách
xem xét và quán sát chính bản chất của tham ái, những đau khổ do tham ái mang
lại, và sự chấm dứt của tham ái. Khi quan sát tham ái, chúng ta thấy rằng nó
không là cái gì khác hơn là một luồng tâm thức đang di động hay một luồng
năng lượng tâm lý đang chi phối thân và tâm chúng ta. Nó không phải là một
người, hay một cái gì tuyệt đối, thường hằng và bất biến; nó sinh rồi
diệt, đến rồi đi -- đây chính là luồng năng lượng tham ái. Nếu chúng
ta không để cho luồng năng lượng tham ái tự nó ra đi, nói khác đi, nếu
chúng ta không buông bỏ nó, thì nó sẽ tạo ra luồng tham ái thứ hai, và luồng
tham ái thứ hai nầy sẽ tạo ra luồng tham ái thứ ba, và tiến trình tham ái cứ
thế mà tiếp tục nhân lên và sinh sôi nẩy nở đến vô cùng.
Trong đạo Phật, từ "mindfulness"
(tiếng Pali là sati) hay chánh niệm có nghĩa là "quan sát, cho
phép các sự vật hiện ra trong thân và tâm, ý thức về nó, và để cho nó tự
xảy diễn trong thân và tâm." Để có chánh niệm, bạn phải cố gắng sống với
thực tại, ngoại trừ khi có cái gì cực kỳ nguy hiểm và khẩn trương trước mắt mà
bản năng sinh tồn bắt bạn phải ngừng chánh niệm và chú ý đến nó.
Trong điều kiện bình thường, bạn phải nỗ lực quan sát những gì đang
xảy ra một cách khách quan, không thành kiến và phán đoán. Chúng ta
tập quan sát mà không phán đoán, thay vì tạo ra một cái gì đó rồi
biện minh hay bảo vệ nó. Khi có chánh niệm và trí tuệ, năng lực ghi nhận
và khả năng cởi mở tiếp thu của tâm sẽ tự động phát sinh. Chúng ta sẽ nhạy
cảm và tiếp nhận được sự vận hành của các sự vật; nói tóm lại, chúng ta sẽ
tiếp cận với Pháp, thấy Pháp, và sống với Pháp.
Vì thế, "Pháp" là một từ
có ý nghĩa rất bao trùm. Pháp có nghĩa là "cách thức các sự vật thật sự
tồn tại, không bị nhìn méo mó bởi bất cứ thành kiến nào." Pháp cũng có
nghĩa là "quy luật tự nhiên." Khi quán Pháp, chúng ta không nghĩ về
Pháp như một cái gì đó. Nếu chúng ta định nghĩa Pháp là cái nầy
hoặc cái nọ, thì lúc đó chúng ta đang tìm Pháp, chứ không phải quan sát
Pháp như nó đang xảy diễn, phải không các bạn? Đó không phải là cách
tiếp cận với Pháp hay chánh niệm về Pháp. Chánh niệm là mở rộng tâm để
thấy và biết được Pháp như nó đang xảy ra -- tại đây và ngay bây
giờ.
Chúng ta thường không để ý đến
không gian và thời gian. Thân chúng ta có thể ở đây mà tâm chúng ta lại ở
chỗ khác. Thời gian là bây giờ, nhưng chúng ta ít khi thật sự sống với cái bây
giờ; chúng ta phí nhiều thời gian trong đời để nhớ về quá khứ, hay mong
đợi, mơ tưởng, và lo sợ về tương lai. Chúng ta xây dựng những dự định về
tương lai và hồi tưởng về quá khứ, nhưng chúng ta không bao giờ ghi nhận Pháp
hay những gì đang xảy ra tại đây và ngay bây giờ -- Pháp chính là thực
tại đang xảy diễn. Từ đó, chúng ta cứ suy nghĩ về quá khứ và
tương lai, tiếp tục bị năng lực tham ái chi phối, và hướng về một cái gì khác ở
một nơi nào đó. Nếu chúng ta quán tưởng về điều kiện sống của
chúng ta tại đây và ngay bây giờ, thì chúng ta sẽ thấy, biết và hiểu được
tại sao các sự việc trên thế gian xảy ra như nó đang xảy ra trong hiện
tại.
ƯỚC NGUYỆN CỦA TÂM
Trong xã hội hiện đại, chúng ta
thấy con người tìm mọi cách để đấu tranh cho công bằng xã hội và xóa bỏ
hay ngăn chận những bất công tàn tệ. Đây là một việc làm cao thượng và trượng
nghĩa. Thế gian ca ngợi và ngưỡng mộ những việc làm nầy. Nhưng làm như thế vẫn
không đủ. Làm như thế chẳng khác nào dọn dẹp nhà cửa cho sạch sẽ và
ngăn nắp. Khi phòng nầy vừa dọn sạch, thì phòng kia lại dơ bẩn và bề bộn.
Làm như thế cũng giống như dùng bàn chải đánh răng để chà sạch thành phố
Luân Đôn vậy. Đây là điều không thể làm được. Bạn sẽ không bao giờ
hoàn thiện được cơ cấu xã hội để bảo đảm sự công bằng,
bình đẳng, và vị tha vì những cái xấu xa và bất thiện cứ lại hiện ra.
Xã hội chỉ có thể trật tự, ngăn nắp,
và công bằng khi tâm của những công dân trong xã hội ấy được trong
sạch. Ngày nào mà tâm con người còn đầy ắp những tham ái, khát vọng,
ảo tưởng, và vô minh, thì điều tối ưu mà chúng ta có thể làm được là
dùng luật lệ để bảo đảm một số tiêu chuẩn nào đó về công bằng xã hội.
Nếu ai đó không đáp ứng những đòi hỏi tiêu chuẩn nầy, họ sẽ bị luật pháp
trừng trị. Đó là điều tốt nhất chúng ta có thể làm. Chúng ta sẽ không bao giờ
có được bình đẳng hay công bằng và lòng vị tha trên thế gian, vì
những đức tính nầy chỉ có thể đến từ thế giới của Tâm. Chúng
không đến từ mắt, tai, mũi, lưỡi hay thân: chỉ có ở thế giới của tâm,
mọi việc mới trở nên công bình và bình đẳng, và từ đó, xã hội sẽ có
vị tha, công lý, và bình đẳng .
Thế thì ý nghĩa thật sự của Tâm là
gì? Tâm (tiếng Anh là heart) dùng để chỉ trái tim, một bộ phận
sinh học của cơ thể. Nó cũng có nghĩa là chất liệu tình cảm của con người.
Trái tim thường hàm ý về cảm thọ. Thí dụ, khi thất vọng nặng nề, chúng ta nói
"tim tôi bị vỡ (broken heart)." Chúng ta lại có thêm từ Trí
(tiếng Anh là mind). Trí để chỉ cái gì đó ít tình cảm
hơn. Trí bao gồm quá trình làm việc bằng trí óc, trí thức, lý luận và tư duy
trừu tượng; tuy nhiên, khi nói về khả năng cảm nhận và đáp ứng với tình
thương, chúng ta dùng chữ Tâm nhiều hơn chữ Trí.
Tất cả chúng ta ai cũng muốn có tự
do, bằng cách nầy hay cách khác. Chúng ta có thể hy vọng là người nào đó
sẽ đến với chúng ta, thỏa mãn tất cả những nhu cầu và làm cho chúng ta vui
sướng, như Cô bé Lọ lem mơ về vị Hoàng tử duyên dáng của mình. Có thể chúng ta
mong chờ một Đấng Cứu Thế, hay nếu là Phật tử, chúng ta sẽ hướng
về Đức Phật Di Lặc tương lai, hay nếu là người công dân bình thường, chúng
ta sẽ mong đợi một vị Thủ Tướng hay Tổng Thống lãnh đạo và đưa
đất nước đi trên con đường đúng đắn. Chúng ta luôn mong chờ một thế
lực nào đó ở bên ngoài, một ai đó chưa hề gặp ngoài kia có thể thỏa
mãn những nhu cầu của chúng ta. Trên bình diện văn hóa, đức tin tôn giáo hay
đời sống tâm linh hướng thượng sẽ đáp ứng khát vọng tự do của con
người. Vì những dục lạc của thế gian không bao giờ thật sự thỏa mãn nhu
cầu tự do của chúng ta, nên chúng ta tìm đến tôn giáo. Tôn giáo hướng
về sự thánh thiện và cao cả và chúng ta phải vươn lên để xứng đáng với tầm
vóc của nó. Khi một cái gì đó làm bạn hưng phấn và mẫn cảm, bạn sẽ
hướng thượng thay vì sa đọa. Khi sa đọa, chúng ta sẽ
chìm đắm trong sầu não, tuyệt vọng, cảm thấy mình xuống dốc và không còn
giá trị gì cả. Chúng ta gọi hiện tượng nầy là "bị đọa địa ngục (going
to hell)." Tim chúng ta vỡ nát, tinh thần suy sụp, và chúng ta sẽ
không còn mơ ước hay muốn vươn đến cái gì đó cao hơn mình nữa.
Sự sanh và các thức sinh khởi khi
sáu căn tác động với sáu trần luôn củng cố và duy trì cảm giác bị chia cách và
cô lập giữa con người. Các thức dựa trên các căn và trần là những gì độc
lập, khác biệt, và cách biệt làm cho chúng ta cảm thấy xa lạ với môi trường
chung quanh. Ở dục giới, luôn luôn có cảm giác bị cô lập, chia cách, căng thẳng
và xung đột với cuộc sống chung quanh. Chúng ta có thể mơ ước và vươn đến
những mục tiêu thế gian như giàu sang và danh vọng. Nhưng điều nầy vẫn
không đủ. Cho dù chúng ta đạt được một địa vị nào đó trong đời,
nhưng nếu suy nghĩ thật kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng địa vị thế gian cũng không
phải là cái mà chúng ta thật sự mong muốn. Chúng ta có khát vọng tự nhiên muốn
vươn đến cái gì cao hơn cuộc đời nầy. Khát vọng nầy là mơ
ước được hòa làm một với tất cả, đoàn tụ và thể nhập với tất cả,
không còn bị chia cắt và cô lập nữa. Trong đạo Phật, đây là khát vọng
hướng về Pháp, tiếp cận với Pháp, hướng về Chân lý. Vì thế, với mơ ước nầy,
chúng ta sẽ vươn lên cao thay vì bị ràng buộc và chìm đắm trong những đòi
hỏi và ham muốn dục lạc của mình.
HÃY CHẤP NHẬN THÂN MẠNG THẾ GIAN NẦY
CỦA CHÚNG TA
Thân thể con người là do tứ đại
cấu tạo thành: đó là đất, nước, lửa, và gió. Chúng ta phải sống nhờ vào thực
phẩm được trồng trọt, lớn lên, và gặt hái từ quả đất nầy. Chúng
ta cần nước, sức nóng của mặt trời, và không khí để thở. Khi chúng ta
lìa bỏ cõi đời, những yếu tố này lại trở về với lòng đất; chúng
không bay lên thiên đường. Vì thế, khi còn nương vào tấm thân
nầy để sống, chúng ta phải chấp nhận những giới hạn của nó, thay vì mong
muốn thoát ra và quay lưng chối bỏ trái đất đã nuôi dưỡng chúng ta. Chối
bỏ tấm thân nầy là một ước mơ hoang tưởng và ích kỷ. Lời tuyên bố, "Tôi
không thích thế gian này nữa. Tôi đã quá chán ngán tấm thân nầy. Tôi
muốn được sống trong cảnh giới huyền diệu nằm ngoài thế gian nầy." là
tư tưởng xuất phát từ cái nhìn sai lầm về sự hiện diện của một cái ngã độc
lập, từ tình cảm ghê tởm và chán ghét cái tự ngã cô lập đó, và khát vọng
muốn được có cuộc sống tốt đẹp hơn và vi tế hơn. Nó xuất phát từ tâm tham
ái chứ không phải là một ước mơ hướng đến một lý tưởng cao đẹp.
Khi hành thiền, một trong những bài
học quan trọng là tập chấp nhận trái đất và tấm thân mà chúng ta nương nhờ
vào để sống. Chúng ta tập quán thân rất nhiều; trong giai đoạn
đầu, công phu hành thiền chủ yếu là quán sát thân thể vật lý của chúng ta.
Chúng ta tập điều phục, an tịnh thân, tập xem trọng những nhu cầu thân thể
và không ép thân thể phải chiều theo những đòi hỏi của chúng ta. Nếu không
hiểu được sự vận hành của thân, chúng ta có thể rất tàn nhẫn, bỏ bê và coi
thường những nhu cầu của nó. Thí dụ trong lúc hành thiền và thân bị đau
nhức, chúng ta có thể ép thân ngừng hoạt động để đè nén sự đau
nhức. Chúng ta cũng có thể tìm cách đi vào trạng thái xuất
thần để quên phứt đi cơ thể. Nhưng khi cơ thể bắt đầu đau
nhức, đói khát, hay cần đi tiểu tiện, chúng ta lại ghê tởm và chán ngán nó. Làm
như thế là không công bằng và hợp lý phải không các bạn? Vừa mới đi vào
một trạng thái khinh an phỉ lạc rồi bất chợt, chúng ta lại phải đi nhà vệ
sinh. Làm như vậy thật là không hợp lý!
Nhưng khi hành thiền, mục đích
của việc quán thân không phải là để chiều chuộng hay chống đối lại cơ thể,
mà chính là để thấy, biết, và hiểu được cơ thể. Cơ thể là như
thế đó; tất cả cơ thể đều là như vậy. Chúng ta không nghĩ về cơ thể như
một cái gì của riêng mình. Cho dù nó đẹp đẽ hay xấu xí, chúng ta chỉ cần
quán thân thể như là thân thể. Chúng ta không nhìn thân thể của tôi để so
sánh với thân thể của anh: hiện tại chỉ có tấm thân vật lý nầy. Nó có
những cảm thọ như thế nầy; nó là như thế nầy; và nó vận hành như thế nầy, thế
thôi.
Khi chúng ta chấp nhận thân thể như
là thân thể, thì nó sẽ không còn là vấn đề khó khăn nữa. Thân thể sẽ
gây khó khăn nếu chúng ta không chấp nhận, chối bỏ, ca tụng và chiều chuộng,
hay làm điều không phải đạo với nó. Nếu chúng ta không chấp nhận nó,
cơ thể có thể sẽ đầy ắp những khó chịu và đau khổ và chúng ta phải
chịu đựng. Nhưng cơ thể tự nó sẽ không là trở ngại khi chúng ta chấp
nhận, hiểu, và biết nó. Đây chính là điều mà tôi muốn nói khi tôi khuyên các
bạn hãy chấp nhận thân mạng thế gian nầy, với tất cả những gì đến với nó: đó là
quá trình già, bệnh, và chết. Đã sanh ra thì phải lớn lên, già rồi chết. Mọi
việc đều phải xảy ra như thế. Khi chúng ta thấy được sinh, già,
bệnh, chết như là sự vận hành của Pháp, thì quá trình sanh tử không còn là
vấn đề nữa. Nó chỉ là Pháp thế thôi.
HƯỚNG ĐẾN SỰ THÁNH THIỆN
Thân thể tự nó không phải là cứu
cánh. Cho dù đẹp đẽ hay xấu xa, thân thể nầy thật sự không phải là chúng
ta, vì thế chúng ta khó mà hài lòng và toại nguyện với nó. Vì thân thể không
phải là chúng ta, nên chúng ta sẽ không bao giờ thật sự cảm thấy nó hay
trái đất nầy là mái ấm thoải mái hay là nơi nương tựa đáng tin cậy
của mình. Trong chúng ta, luôn có ước vọng hướng về một cái gì đó cao
thượng, vi tế và thanh thoát hơn.
Khi quan sát cuộc sống trên
trái đất nầy, chúng ta thấy những gì? Nếu nói về thú vật, chúng ta sẽ thấy
thú vật chỉ biết lo sống còn: chúng phải lớn, mạnh, khôn ngoan, gian xảo, hay
dựa vào số đông để tồn tại. Thú vật không thể thỏa thuận với nhau về
bất cứ điều gì vì thế không thể nói chuyện luật lệ với thú vật . Thí dụ
chúng không thể đồng ý là sẽ không giết hại lẫn nhau. Ngay cả con người
còn chưa được thỏa thuận đó, huống hồ là loài thú phải không các bạn? Con
người là những sinh vật rất độc ác, sẵn sàng giết hại lẫn nhau, và tàn sát
các sinh vật khác, nhưng con người vẫn có thể vươn lên cao hơn trình độ
loài thú. Nếu chỉ là thú vật thì con người không thể nghĩ được điều gì
tốt đẹp cả. Sẽ chỉ có luật rừng xanh và sự tồn tại của kẻ nào mạnh
nhất; con người sẽ không thể hình dung được cái gì cao hơn cảnh giới của
loài thú. Nhưng con người có thể vươn lên được. Con người có thể
nghĩ đến công lý và bình đẳng; tâm trí con người có thể
nghĩ đến những khả năng nầy. Và đó chính là ước vọng tâm linh
hướng về một cảnh giới cao thượng thay vì chỉ biết tồn tại và sống còn.
Một tâm hồn sa đọa và hạ tiện
sẽ lý luận rằng con người cơ bản chỉ là loài thú; sẽ chỉ có sự tồn tại của kẻ
mạnh nhất, đó là quy luật tự nhiên. Lý luận nầy cho rằng con người không
hơn con vật và chúng ta phải chấp nhận thực tế nầy. Chúng ta phải cố hết sức
tranh sống và giành giật cho chính mình để tồn tại. Một tâm hồn hạ
tiện và sa đọa sẽ biện minh rằng, "Tôi đã giành được phần của
tôi. Nếu bạn ngu ngốc và yếu ớt, không thể giành phần cho bạn, thì phải
ráng mà sống với số phận hẩm hiu của bạn; đây là điều đáng buồn nhưng cuộc đời
là như thế đó." Đây là cách suy nghĩ bi quan dựa vào thuyết định mệnh
của một tâm hồn thấp hèn. Nhưng từ tận đáy lòng, tôi biết rằng tôi muốn
vươn lên và hướng về một cái gì cao thượng hơn là cái nhìn bi quan trên, và tôi
thấy chung quanh tôi cũng có những người đang suy nghĩ theo chiều hướng
ấy. Con người là chúng sanh có thể hướng về sự thánh thiện.
Chúng ta nên hiểu chữ hai chữ thánh
thiện như thế nào? Đạo Phật không nói nhiều về sự "thánh thiện" hay
cảnh giới "thánh thiện." Nhiều người tìm đến đạo Phật sau khi đã
thất vọng ê chề với những gì thiêng liêng và thánh thiện mà người đời
thường ca ngợi. Tất cả những gì mà người đời nói về Thượng Đế và những gì
xảy ra sau khi chết đã làm họ chán ngấy. Họ hoàn toàn mất tin tưởng vào sự
thiêng liêng và thánh thiện. Họ muốn tìm một cái gì đó thực tế
hơn. Họ không muốn tìm một cái gì đó sau khi chết hay trong kiếp sau,
vì đó là những gì mà họ không thể thấy, biết và sờ
mó được. Nhưng nếu quả thật không có sự thiêng liêng và thánh thiện,
thì làm sao con người có thể nghĩ đến hay hình dung ra được khái niệm
nầy. Con người chỉ có thể suy nghĩ về sự thánh thiện khi nào họ đã
thật sự biết được và kinh nghiệm sự thánh thiện, dù chỉ là trong chớp mắt
hay trong một phút giây ngắn ngủi nào đó.
SỐNG THÁNH THIỆN VỚI TÂM TỪ, TÂM BI,
TÂM HỶ, VÀ TÂM XẢ
Tâm từ của một bà mẹ đối với
đứa con thân yêu là biểu hiện của sự thiêng liêng và thánh thiện phải không các
bạn? Đó là một kinh nghiệm thiêng liêng và thánh thiện. Đối với tôi, quên
mình để hiến dâng chỉ gì một người nào đó cần đến, hay nói khác đi,
hy sinh những đặc ân và tiện nghi cá nhân để phục vụ người khác là
một biểu hiện thánh thiện. Khi chúng ta thật sự ứng xử với cuộc đời một
cách công bình và chân thật, khi chúng ta không còn thành kiến và thiên vị, khi
có sự hoan hỷ, quân bình, và xả bỏ trong tâm, khi tâm thanh tịnh không bị những
phiền não chi phối, thì chúng ta sẽ tiếp cận với sự thiêng liêng và thánh
thiện.
Thay vì nói chúng tôi hướng về sự
thiêng liêng và thánh thiện, người Phật tử nói, "Chúng tôi muốn
tiến đến giải thoát và Niết bàn." Thế thì Niết bàn là gì? Niết Bàn là
trạng thái trong đó chúng ta không còn bám víu, chấp chặt và quyến luyến
vào bất cứ điều gì. Khi ở trong trạng thái đó, chúng ta sẽ là một
người vị tha đầy lòng từ, bi, hỷ, xả. Chúng ta sẽ tiếp cận với sự cao
thượng; chúng ta sẽ tiếp cận với sự thánh thiện; và chúng ta sẽ thể
nghiệm được sự thoải mái, bình yên, và khinh an thật sự.
Bạn chờ đợi gì ở một thánh
nhân? Thí dụ, khi nghĩ đến Chúa Jesus, có lẽ bạn sẽ nghĩ về lòng bi mẫn
bao la của Ngài. Do đó, nếu có một thánh nhân thì tâm bi mẫn phải là một
trong những đức tính của vị đó. Khi quán tâm, tôi thấy là khi tham ái
vắng bóng thì bi mẫn sẽ xuất hiện. Tôi không cố ý tạo ra tâm bi mẫn;
nó đến một cách tự nhiên. Khi không có tâm tham và ích kỷ luôn muốn chiếm
hữu một cái gì đó thì tâm bi mẫn trước những khổ đau và hỗn loạn của
chúng sanh sẽ xuất hiện. Tâm bi mẫn nầy không xuất phát từ một khái
niệm đạo đức cho đây là việc cần phải làm; không phải thế. Tâm bi
mẫn đến từ sự hiểu biết về sự vận hành của các pháp và về những đau
khổ xuất phát từ vô minh đang tồn tại trên thế gian nầy.
Trái lại, lòng thương hại bắt nguồn
từ nỗi lo sợ cho chính mình. Khi có ai đó mắc bịnh ung thư và chúng ta
nghĩ, "Ôi, tội nghiệp cho người ấy quá; tôi mừng là đã không mắc phải
bịnh ấy. Hy vọng là tôi sẽ không bao giờ bị ung thư cả." Khi nói
ra điều nầy, chúng ta đã áp đặt tư tưởng của mình trên người khác.
Chúng ta cho bị ung thư là bất hạnh và chúng ta may mắn vì đã không mắc
bịnh ung thư. Đó không phải là tâm bi mẫn. Tâm bi mẫn là tâm thật sự mở
rộng để tiếp cận với sự đau khổ của người khác, không phải là để mong
cầu lợi lạc, mà là vì ước nguyện sẵn sàng kiên nhẫn và chia sẻ nỗi khổ mà người
khác đang chịu đựng. Chúng ta sẵn sàng chia sẻ và chịu đựng
những bất hạnh, đau buồn, và khổ sở đang diễn ra chung quanh, mà không tìm
cách trốn tránh, buộc tội và đổ lỗi cho ai cả. Đó chính là tâm bi
mẫn; và tâm bi mẫn là một phẩm chất của sự thánh thiện.
Đối với tôi, tâm hoan hỷ xuất hiện
khi bạn tiếp xúc được với những điều Chân Thiện Mỹ trong cuộc sống. Đó là một
tình cảm rất tích cực và không xuất phát từ tham ái vì hoan hỷ và tham ái đối
nghịch và loại trừ lẫn nhau. Có tham ái thì không có hoan hỷ và ngược lại. Tâm
hoan hỷ là cái gì tự phát liên quan đến cái đẹp, cái thiện, và cái chân
thật hiện diện trong con người và trong tất cả sự vật tồn tại
trên đời. Có hoan hỷ thì ganh tỵ và ghen ghét hoàn toàn vắng mặt vì
những tâm sở bất thiện nầy xuất phát từ lòng tham muốn cá nhân. Nếu chúng ta
vẫn còn mang cái nhìn chấp ngã, thì khi thấy một ai đó thật sự có sắc đẹp
và đạo đức hoàn hảo, chúng ta sẽ khởi tâm ganh tỵ và nghĩ, "À, ông ta
tốt và giỏi hơn tôi." Rồi chúng ta lại tiếp tục suy nghĩ, "Ồ, ông ta
có thể giỏi, nhưng ông ta cũng có thể…" Chúng ta đang tìm cách hạ
thấp và dìm người đó xuống, phải không các bạn? Với tham ái, chúng ta
chỉ lo chiếm hữu những điều chân thiện mỹ và chỉ khi nào chiếm
hữu được, chúng ta mới có thể thưởng ngoạn chúng. Đó không phải là
tâm hoan hỷ. Đó chính là tham ái. Tâm hoan hỷ chân thật cũng là một phẩm chất
của sự thánh thiện.
Tâm quân bình và an tịnh chỉ xuất
hiện khi chúng ta lắng dịu và mát mẻ. Tâm quân bình và xả bỏ có thể tiếp cận
với cuộc sống và sự vận hành của các pháp mà không bị dính mắc. Lúc đó,
tâm sẽ quân bình, thấy biết, và chiếu sáng rạng rỡ. Đó cũng là phẩm chất của sự
thánh thiện.
Tự do là Niết bàn, là sự chứng
ngộ được trạng thái xả bỏ tất cả, lúc đó chúng ta sẽ thật sự sống với tâm
từ, bi, hỷ, và xả. Chúng ta có thể bàn về tự do dựa trên nguyên tắc công lý và
bình đẳng, nhưng nội dung chính của lý tưởng tự do mà tôi muốn
nói đến ở đây là ước vọng vươn lên của con người, hướng về sự thánh thiện
và hòa đồng với Đại thể.
Thế thì tự do của tâm là gì? Theo
tôi, đó là sự tự do lựa chọn hoặc đi vào con đường sa đọa hoặc
hướng đến sự thiêng liêng và thánh thiện. Bạn sẽ chọn hướng nào? Trong bất cứ
giây phút nào của cuộc sống, bạn cũng có thể làm sự lựa chọn nầy. Hoặc là bạn
sẽ tiếp tục than vãn về số phận của mình, suy nghĩ về tất cả những gì bạn không
yêu thích và tất cả những gì sai trái trên thế gian nầy, hoặc là bạn sẽ chánh
niệm và quán tưởng về Pháp, cố gắng hiểu nó, và nuôi dưỡng ý nguyện hướng về
con đường thánh thiện trong tâm mình.
***
------------------------------
Câu hỏi:
* Khi
nói đến tự do, tôi thường nghĩ đến cái gì đó rất hồn nhiên và tự
phát. Nếu phải luôn luôn chánh niệm, quán sát, và ghi nhận tất cả trước khi
hành động, thì điều đó có làm mất đi sự hồn nhiên và tự phát
trong chúng ta hay không?
Trả lời: Không, nhưng bạn vừa nêu lên một vấn đề thuộc về
ngôn từ. Khi bạn nói "quán sát và ghi nhận", điều này hình
như hàm ý là có một ai đó đang bận bịu làm một cái gì đó. Tuy
nhiên, chánh niệm không có nghĩa là bạn sẽ trở thành một người nào đó bận
bịu với việc quán sát đến nỗi bạn không thể ứng xử với hoàn cảnh chung quanh.
Sự hồn nhiên và tự phát phải đến từ tâm tín thành, phải không các bạn? Bạn
không thể dựa vào một khái niệm hay một tư tưởng nào đó về cuộc đời rồi cố
gắng trở nên hồn nhiên và tự phát.
Để trở nên tự phát và hồn nhiên, bạn
phải có đức tin, và trong đạo Phật, nền tảng của đức tin là Tam Bảo.
Khi đã tin tưởng vững chắc nơi Tam Bảo, chúng ta không cần phải nghi ngờ
hay lo âu về cuộc đời. Sự tự phát và hồn nhiên xuất phát từ niềm
tin đó, và niềm tin đó không dựa trên nhân sinh quan chấp ngã. Chỉ
thuần quán sát hay chánh niệm sẽ cho giúp chúng ta ứng xử với cuộc đời một
cách hồn nhiên, vì chúng ta đặt niềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng. Chúng ta
trở nên hồn nhiên, vì chúng ta không còn ảo tưởng về cái tôi cần phải được
bảo vệ. Toàn bộ tư tưởng sai lầm cho rằng "Tôi là một con người, tôi
phải luôn luôn cảnh giác để bảo vệ tôi khỏi những thế lực xấu ác, nếu
không tôi sẽ bị chúng áp đảo và chế ngự" sẽ hoàn toàn tan biến. Và sẽ chỉ
có sự thấy, hiểu biết, và tâm thanh tịnh mà chúng ta có thể tin tưởng và nương
tựa. Những gì còn lại của cuộc sống sẽ tự vận hành theo quy luật của nó và
chúng ta không cần phải can thiệp vào.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét