Thích Nhất Hạnh
Phần 10
Khai sáng trí tuệ.
Chương 59
Nhảy cao mấy cũng rơi lại vào trong lưới.
Vườn
xoài của y sĩ Jivaka rất rộng rãi và thanh tịnh. Rải rác trong
vườn có những tịnh thất nhỏ của các vị nữ khất sĩ. Buổi chiều
ấy, có một vị nữ khất sĩ trẻ tên là Subha đến xin tham
vấn Bụt. Hồi sáng, cô đã bị một thanh niên đón đường và suýt bị thanh niên
ấy xâm phạm đến tiết hạnh. Ni cô xin Bụt đặt ra
một pháp chế để bảo đảm thêm sự an ninh cho giới
nữ khất sĩ. Bụt hỏi đầu đuôi câu chuyện. Ni cô thuật lại
với tất cả chi tiết.
Hôm
qua đi khất thực về ngang một khu hẻo lánh, Subha bị một thanh niên
đón đường. Biết là mình đang lâm vào tình trạng nguy hiểm, ni
cô theo dõi hơi thở để duy trì sự bình tĩnh. Nhìn
thẳng vào người thanh niên, cô hỏi:
-
Thưa ông, tôi đâu có làm điều gì lầm lỗi mà ông lại chặn đường tôi? Tôi chỉ là
một người xuất gia tu hành theo giáo pháp của Bụt. Tại
sao ông lại ngăn không cho tôi đi về tu viện?
Người
kia nói:
-
Cô còn trẻ và đẹp lắm. Tại sao cô lại đi hủy hoại đời mình bằng cách cạo đầu,
mặc áo vàng và sống như những người tu khổ hạnh? Này ni cô, đáng lý
cái thân hình xinh đẹp của cô phải được khoác lên một chiếc sari
lụa mua từ Kasi.Tôi chưa thấy ai xinh đẹp bằng cô. Tôi muốn cho cô
nếm mùi dục lạc của thân xác. Cô đi với tôi đi.
Subha
vẫn bình tĩnh:
-
Ông đừng có nói bậy. Người tu hành đã quyết tìm niềm vui nơi cuộc
sống giải thoát và giác ngộ. Năm thứ dục
lạc chỉ đưa tới tội lỗi và khổ đau. Ông hãy tránh đường cho
tôi đi. Tôi sẽ rất cảm ơn sự hiểu biết của ông.
Người
thanh niên kia nói:
-
Cô có hai con mắt rất đẹp Tôi chưa thấy người đàn bà nào có đôi mắt đẹp như cô.
Tôi dại gì mà để cô đi. Thôi cô hãy đi với tôi. Và người thanh niên đưa tay ra
định nắm lấy cô.
Subha
lùi lại một bước. Cô nói:
-
Này ông kia, ông đừng chạm tới tôi. Ông đừng chạm tới một người tu phạm
hạnh. Tôi đã chán ngấy đời sống dục vọng và hận
thù cho nên tôi muốn đi tu. Ông nói tôi có hai con mắt đẹp. Thôi để tôi
móc hai con mắt của tôi đưa cho ông. Thà rằng tôi mù còn hơn là để ông chạm
tới.
Subha
nói với giọng cương quyết. Người thanh niên kia nao núng. Anh ta biết
vị ni cô này có thể nói và làm ngay. Anh ta lùi lại một bước.
Subha
tấn công thêm:
-
Ông đừng vì dục vọng là tạo thêm tội ác. Ông không biết đức vua
Bimbusara đã ra lệnh trừng phạt nặng nề những kẻ phạm
pháp hay sao. Chính tôi, tôi đã chứng kiến những tội
phạm bị hành xử. Nếu ông không tỉnh táo, nếu ông cưỡng đoạt tới phạm
hạnh, và sanh mạng của tôi, ông cũng sẽ bị bắt và hành xử như
những tội phạm ấy.
Người
thanh niên tỉnh ngộ. Anh ta hình dung ra được cảnh khổ
do dục vọng điên cuồng gây ra. Anh ta tránh sang một bên đường
cho Subha đi. Rồi anh nói vọng theo:
-
Tôi xin lỗi sư cô. Tôi chúc sư cô tu hành cho tới
khi thành đạt.
Subha đi
thẳng, không ngoái nhìn trở lại, lòng dặn lòng sẽ trình lên
Bụt trường hợp mình.
Sau
khi nghe kể chuyện, Bụt khen ngợi niềm quả cảm và sự thông
minh của nữ khất sĩ Subha. Người nói:
-
Người con gái đi một mình ở nơi vắng vẻ thì nguy hiểm lắm. Đó là một
trong những lý do tại sao ngày xưa tôi đã ngần
ngại chưa muốn cho giới nữ xuất gia. Này Subha! Từ hôm nay trở đi, đi
đâu vị nữ khất sĩ cũng không được đi một mình. Lội qua một dòng
sông, đi vào thôn xóm, băng qua một cánh đồng hay một khu rừng, vị
nữ khất sĩ không được đi một mình. Ngủ cũng vậy. Trong tu
viện, trong tịnh xá, trong thôn lạc hay dưới gôc cây, người nữ khất
sĩ không được ngủ một mình. Phải ngủ với một vị nữ khất
sĩ khác để có thể bảo vệ cho nhau.
Rồi
Bụt quay lại nói với thầy Ananda:
-
Ananda thầy nên ghi nhớ điều này và yêu cầu các vị lãnh
đạo ni chúng đưa điều này vào giới luật của các vị
nữ khất sĩ.
Rời
vườn xoài của y sĩ Jivaka, Bụt lên đường đi Nalanda. Cùng đi với Người,
có rất đông các vị khất sĩ. Bụt và các vị khất sĩ đi lặng
lẽ và trang nghiêm; ai nấy đều theo dõi hơi
thở và nuôi dưỡng chánh niệm. Phía sau lưng các vị, có hai thầy
trò vị du sĩ Suppiyo cùng đi. Họ nói chuyện vang lên suốt cả dọc
đường. Đệ tử của du sĩ Suppiyo là thanh niên Bramadatta. Đề tài
của câu chuyện là Bụt và giáo pháp của Người. Du sĩ Suppiyo cố
ý nói lớn để những vị khất sĩ có thể nghe. Tất cả những lời ông
nói đều nhắm tới sự kích bác Bụt và giáo pháp của Người.
Trong khi đó, thì lạ thay, thanh niên Bramadatta lại hết lòng bênh
vực cho Bụt. Branmadatta dùng những lý luận và hình ảnh rất
khéo léo để tán dương Bụt và giáo đoàn. Khéo léo đến nổi tất cả
các vị khất sĩ đi trước đó đều có cảm tình với chàng.
Chiều
hôm ấy, Bụt ghé vào nghỉ đêm ở Ambalatthika. Ambalatthika là một khu vườn rừng
rất sum suê và xinh đẹp, chỗ nghỉ mát của gia đình hoàng gia.
Vua Bimbasara đã ngỏ ý là các vị tu sĩ của bất cứ giáo
phái nào nếu cần sử dụng Ambalatthika thì đều có
quyền sử dụng để nghỉ ngơi. Đêm đó hai thầy trò du sĩ Suppiyo cũng
nghỉ đêm tại đấy.
Sáng
hôm sau, các thầy khất sĩ bàn tán với nhau về thái độ hôm
qua của hai thầy trò vị du sĩ. Bụt nghe được những câu bàn
tán ấy. Người bảo:
-
Này các thầy, khi nghe người ta công kích tôi, phỉ
báng tôi, công kích và phỉ báng giáo
pháp và giáo đoàn khất sĩ, các thầy đừng buồn, các thầy đừng
sinh lòng phẫn uất, tức tối hay phiền muộn. Điều ấy có hại cho các
thầy. Khi nghe người ta khen ngợi tôi, khen ngợi giáo
pháp và giáo đoàn khất sĩ, các thầy cũng không nên mừng
rỡ, thích thú và mãn ý. Điều này cũng có hại cho các
thầy. Thái độ đúng đắn là đừng để tâm vào những lời nói hay hành
động của người khác mà hãy chú tâm vào chánh niệm, nếu ai đó muốn góp ý về tôi,
về các vị khất sĩ, hay về giáo pháp, các vị hãy xét xem những điều ấy đúng hay
sai, đúng ở chỗ nào, sai ở chỗ nào. Có như thế quý vị mới có dịp học
hỏi để đạt được nhiều tiến bộ.
Này
các vị khất sĩ! Phần lớn là những người khen ngợi Bụt, Pháp và Tăng là những
người chỉ thấy được những cái đẹp cái hay nhỏ bé của giáo
pháp và giáo đoàn thôi. Như là nếp sống phạm
hạnh, công phu trì giới, đời sống đạm bạc, thái
độ thanh thoát của chúng ta. Còn số người thấy được cái cao siêu
mầu nhiệm nhất của giáo pháp mà đem lời ca ngợi thì ít
lắm. Tôi muốn nói đến trí tuệ thực chứng của đạo giác
ngộ. Trí tuệ này siêu việt, vi diệu, mầu nhiệm, vượt khỏi
tầm tư duy và ngôn ngữ của người thường. Thấy được, hiểu
được và chứng được trí tuệ ấy mới có thể biết và thấy được giá
trị thật của đạo giải thoát.
Này
các vị khất sĩ! Trong thế gian có bao nhiêu chủ thuyết và bao nhiêu
luận chấp. Người ta không ngớt công kích và cải vả nhau vì sự khác
biệt của những chủ thuyết và luận chấp ấy. Các vị khất sĩ, như tôi đã thấy
và đã nghe, đã có ít nhất là sáu mươi hai luận chấp làm căn
bản cho hàng ngàn chủ thuyết hiện giờ có mặt trong các giới
tư tưởng và tôn giáo. Các vị nên biết rằng trước cái thấy của
đạo giác ngộ giải thoát, tất cả sáu mươi hai luận chấp ấy đều có
những chỗ mắc kẹt, đều có những chỗ sai lầm (7).
Ví
như một người đánh cá giỏi, khi quăng lưới xuống hồ, bắt được hết tất cả tôm cá
trong hồ vào cái màn có mắt lưới sít sao, ông ta nhìn những con tôm con cá đang
cố nhảy lên cao để rồi lại rơi mình vào trong lưới, và nói: “dù các ngươi nhảy
cao đến mấy các ngươi cũng vẫn còn nằm trong lưới của ta”. Ông ta nói
đúng. Hàng trăm hàng ngàn học thuyết đang hiện hành và tranh
chấp lăng xăng trong giới triết học và tôn
giáo này đều mắc kẹt trong cái lưới của sáu mươi hai luận chấp ấy, không
thể nào vượt thoát ra nổi. Các vị khất sĩ! Đừng đi vào trong cái
lưới mê hồn ấy để mất hết thì giờ và cơ hội tu
tập đạo giải thoát. Đừng đi vào cái lưới của sự hý
luận.
Này
các vị khất sĩ! Tất cả những luận chấp kia đều phát sinh do sự lừa gạt
của tri giác và của cảm thọ. Vì không tu tập chánh
niệm, vì không quán chiếu nên người ta không biết được chân
tướng của tri giác và cảm thọ, do đó đã bị tri
giác và cảm thọ lừa gạt. Nếu thấy được nguồn gốc và bản
chất của tri giác và cảm thọ, người ta sẽ thấy được tự
tính vô thường và duyên sinh của vạn vật, người ta sẽ không
bị vướng vào lưới u mê, tham ái, lo âu, và sợ hãi, người ta sẽ
không bị vướng vào cái lưới của sáu mươi hai luận chấp.
Hôm
ấy đại đức Ananda đã nổ lực ghi nhớ hết những lời Bụt dạy.
Thầy đi bách bộ và thầm lặng trùng tuyên lại những lời Bụt nói.
--------------------
(7)
sáu mươi hai luận chấp được trình bày trong kinh Phạm Võng. Phạm Võng tức
là cái lưới vĩ đại thu tóm tất cả những chủ thuyết sai
lạc trong cuộc đời. Tương truyền kinh này vốn do đức Phật Lô Xá Na tuyên thuyết, đức Phật
Thích Ca nói lại dưới gốc cây Bồ đề, vì thế kinh được xếp vào thể loại kinh Hoa Nghiêm. Bởi lẽ không rõ sự thực lịch sử về việc lưu truyền và người phiên dịch,
do trong lời văn phần nhiều dẫn dụng các kinh khác, nên cũng được suy đoán là
không phải dịch từ bản tiếng Phạn, mà là do người Trung quốc ngụy tạo và thời đại
biên soạn có lẽ vào khoảng những năm cuối đời Lưu Tống.
Phân tích nội dung của cả sáu mươi hai luận chấp và vạch ra những sai
lầm của các luận chấp này. Có mười tám luận chấp về quá khứ: bốn
chủ trương thuyết thường trú, bốn chủ trương thuyết vừa
thường trú vừa vô thường, bốn chủ trương thuyết hữu
biên và vô biên, bốn chủ trương thuyết ngụy biện và
hai chủ trương thuyết không có nhân quả. Có bốn mươi bốn luận
chấp về tương lai: mười sáu chủ trương là còn tri giác sau khi chết,
tám chủ trương là không còn tri giác sau khi chết, tám chủ trương là
không phải còn cũng không phải không còn tri giác sau khi chết, bảy
chủ trương thuyết đoạn diệt và năm chủ trương
thuyết hiện tại là niết bàn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét