Thích Nhất Hạnh
Chương 48
Rơm phủ lên bùn.
Theo
đề nghị của đại đức Mahakassapa, một cuộc hội họp được tổ chức
tại giảng đường Kỳ Viên, quy tụ những vị đệ tử lớn của Bụt
và cả những vị đã từng là khởi xướng trong vụ tranh chấp ở
Kosambi. Mục đích của buổi họp là để rút ra kinh nghiệm và đề
ra những nguyên tắc ngăn ngừa những cuộc tranh chấp như
thế có thể xảy ra trong giáo đoàn. Đại đức Kahakasapa
làm chủ tọa buổi họp.
Mở
đầu buổi họp, thầy Anuruddha được đại đức Mahakassapa yêu
cầu trùng tuyên lại những điều mà thầy đã được nghe Bụt dạy tại công viên
Đông Trúc về sáu nguyên tắc sống chung hòa hợp. Thầy Anuruddha lập lại với
đầy đủ chi tiết sáu nguyên tắc ấy mà thầy gọi là pháp
chế Lục Hòa. Đại đức Moggallana rất mừng sau khi được nghe
pháp chế này. Thầy đề nghị tất cả các vị khất sĩ nên thọ
trì thuộc lòng sáu nguyên tắc sống chung hòa hợp.
Thầy
nói:
-
Sáu nguyên tắc này cũng cần được học thuộc để đem phổ biến tới
các trung tâm tu học khác.
Sau
bốn hôm góp ý và thảo luận, các thầy đã thiết lập được
bảy phương pháp để dập tắt các cuộc tranh chấp và họ
đem đệ trình lên Bụt. Họ gọi đó là thất diệt tránh
pháp (Saptadhikarana-samatha). Thất diệt tránh
pháp được xem như là những phương pháp đưa
tới sự hòa giải, được trình bày như sau:
Thứ
nhất là hiện tiền tỳ ni (samukha-vinaya). Theo nguyên tắc này, tất cả
những phát biểu về cuộc tranh chấp được nói ra
trong đại chúng, với sự có mặt của hai phía tranh chấp. Tránh tất cả
những sự phát biểu và bàn bạc riêng tư, tuyên truyền chỉ một phía và
do đó gây ra kiến thủ kiến và hận thù chia rẽ.
Thứ
hai là ức niệm tỳ ni (sati-vinaya). Ức niệm tức là nhớ lại.
Trong buổi họp có sự hiện diện của cả hai phía tranh
chấp, các đương sự phải thuật lại những gì đã thực sự xảy ra
và tuần tự trình bày tất cả những điều đó theo trí nhớ của
mình, với tất cả những chi tiết, và nếu có thì đưa ra những bằng chứng xác
thực. Đại chúng sẽ im lặng lắng nghe hai bên để có đủ
mọi dữ kiện mà thẩm sát vấn đề.
Thứ
ba là bất si tỳ ni (Amudha-vinaya). Bất si có nghĩa là không cố chấp,
không ngu dốt hoặc tâm trí không bình thường. Trong buổi
họp mặt có sự hiện diện của cả hai phía tranh
chấp, đại chúng trông chờ các đương sự bày tỏ thiện
chí hòa giải của mình với tất cả khả năng của mình. Thái
độ ngoan cố được xem như là một hành động tiêu
cực căn bản. Trong trường hợp đương sự nêu lên lý
do là vì mình ngu dốt không biết, hoặc vì mình tâm trí bất
thường cho nên đã vô tình phạm vào giới luật thì đại
chúng phải nương vào đó để giảm luật án cho đẹp lòng đôi bên.
Thứ
tư là tự ngôn tỳ ni (tatsvabhaisya-vinaya). Tự ngôn là tự mình nói ra, tự
mình công nhận sự vô ý, sự vụng về hoặc sự yếu
đuối của mình, không cần sự hạch hỏi của đối phương hay của đại
chúng. Trong buổi họp mặt có sự hiện diện của cả hai
phía tranh chấp, đại chúng trông đợi mỗi bên tự nói ra
những nhược điểm của mình, dù là những điểm nhỏ nhặt nhất. Tự nhận
lỗi mình tức là khởi sự cho một cuộc hạ nhiệt tranh chấp, điều này sẽ
khuyến khích đối phương cũng làm như vậy, để cuối cùng thiện
chí của cả hai bên sẽ đủ sức đưa tới hòa giải.
Thứ
năm là chân ngữ tỳ ni (pratijnakaraka-viaya). Chân ngữ là lấy biểu
quyết bằng sự thức tỉnh và chánh pháp theo lời của Bụt đã dạy mà soi
chiếu vào sự việc. Sau khi đã nghe hết tất cả hai bên và đã chứng
kiến nổ lực và thiện chí của hai bên, đại
chúng sẽ biểu quyết bằng việc chiếu theo chân lý của chánh
pháp mà phán quyết.
Thứ
sáu là tội xứ sở tỳ ni (yadbhuyasikya-vinaya). Án lệnh tối hậu về tội
tướng và cách thức hối cải được đưa ra để đại chúng quyết
định bằng phương pháp bạch tứ yết
ma (jnapticaturbin-karmavacana), nghĩa là phương pháp đọc lớn bản
án và hỏi ba lần. Nếu trong ba lần này mà tất cả đều im lặng và
không ai lên tiếng phản đối thì bản án lệnh
có hiệu lực. Cố nhiên là các đương sự chỉ có thể tuân hành chứ
không có quyền phản đối, bởi vì cả hai bên từ lúc bắt đầu đã phát
nguyện tin tưởng vào phán quyết của đại tăng chúng.
Thứ
bảy là thảo phú địa tỳ ni (trnastaraka-vinaya). Thảo phú địa nghĩa là rơm cỏ
phủ lên đất sình lầy. Trong buổi họp mặt có sự hiện
diện của cả hai phía tranh chấp, hai vị trưởng lão đức
độ nhất trong giáo đoàn được chỉ định để bảo trợ cho
hai phía. Các vị này thường được đại chúng tôn kính và nghe
lời. Các ngài ngồi chăm chú nghe, rất ít nói, nhưng mỗi khi nói là
có ảnh hưởng rất lớn. Tiếng nói của các vị trưởng lão này
nhằm hàn gắn những vết thương, kêu gọi thiện chí hòa
giải và tha thứ, cũng như phủ rơm cỏ lên trên mặt đất sình lầy
để mọi người bước lên mà không bị lấm chân. Cả hai phía
sẽ nghe lời các vị mà bỏ qua đi những điều không đáng kể, mất đi
sự gay gắt, và đại chúng cũng đi đến một bản án lệnh
nhẹ nhàng làm mát lòng cả hai bên.
Bảy phương
pháp dập tắt tranh chấp được các vị đệ tử lớn đem
trình lên Bụt. Bụt rất hài lòng. Người tỏ ý khen ngợi các
thầy và đồng ý đưa bảy điều này vào giới luật.
Bụt
ở lại tu viện Jetava trong sáu tháng nữa, sau đó Người về Rajagaha.
Trên đường về, Người đã ghé lại thăm cây Bồ đề. Người cũng đã ghé lại xóm
hạ làng Uruvela để thăm mấy anh em Svastika. Svastika bây giờ đã thành một
chàng trai cao lớn. Svastika đã hai mươi mốt tuổi. Nhớ lời hứa năm
xưa, Bụt đã ghé lại để độ chú bé chăn trâu, đưa chú về Rajagaha. Ở đây chú đã
được xuất gia và đã được làm quen với chú Rahula.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét