Thích Nhất Hạnh
Phần 9
Giáo pháp nhiệm mầu.
Chương 49
Con hãy học hạnh của đất.
Vị khất
sĩ trẻ Svastika nghe hai thầy Assaji va Ananda kể về thời gian hành
đạo của Bụt trong mười năm qua một cách say mê. Ngồi với chú, có ni
sư Gotami và chú Rahula. Tuy đã biết và đã được chứng kiến nhiều
việc xảy ra, nhưng chú Rahula cũng tỏ vẻ thích thú khi nghe
các đại đức thuật lại. Thầy Ananda có trí nhớ rất siêu
việt, thầy đã nhắc rất nhiều chuyện mà thầy Assaji quên không nói tới.
Svastika cảm thấy một niềm biết ơn sâu xa đối với các
thầy Assaji và Ananda, với ni sư Gotami và với chú Rahula. Nếu
không có bốn vị này làm sao chú được nghe kể từng ấy chuyện về cuộc đời
của Bụt. Chú hy vọng từ đây về sau sẽ được thân cận Bụt để được sống
và chứng kiến những gì xảy đến trong cuộc sống của Người và
cũng để được học hỏi trực tiếp từ Người.
Tuy xuất
thân là một chú bé chăn trâu, Svastika cũng có đôi chút học
thức và chữ nghĩa. Đây là nhờ công chỉ dạy của chị Sujata, con
gái của ông hương cả trong làng Uruvela. Chị đã dạy Svastika từ năm chú mười
một tuổi. Mấy năm gần đây chú không được học với chị nữa, bởi vì chú
đã lớn. Svastika được chị báo tin là chị sắp đi lấy chồng, và vì chồng chị cư
trú ở Nadika, nên chị cũng sẽ rời bỏ Uruvela để về Nadika vào cuối
năm nay. Svastika lớn hơn Rahula tới ba tuổi, nhưng chú cảm
thấy mình cần phải học hỏi rất nhiều điều từ Rahula. Phong cách của Rahula
rất thanh tao, đã là dòng dõi vương giả, Rahula lại được thực
tập gần bảy năm trời trong nếp sống tĩnh lặng và uy
nghi cho nên so với Rahula, Svastika thấy mình còn thô thiển nhiều lắm.
Chú vẫn ý thức được điều đó nên chú hết sức cố gắng, thầy
Sariputta đã giao cho Rahula chỉ bảo cho chú những phép tắc liên
hệ tới việc nói năng, hành động, mặc áo, ôm bát, đi, đứng, nằm,
ngồi, đi vào thôn lạc, khất thực, ăn cơm, rửa bát, nghe
pháp ... Có tất cả bốn mươi lăm điều mà chú phải học thuộc và làm theo.
Những điều này gọi là uy nghi và tế hạnh. Vị xuất
gia nào làm đúng theo những điều này thì tự khắc có phong thái uy
nghi và trầm lặng của một vị khất sĩ.
Trên
nguyên tắc, Svastika là một vị khất sĩ -bhikkhu- trong khi Rahula chỉ
mới là một vị sa di -samanera-. Đúng hai mươi tuổi, Rahula mới
được thọ giới khất sĩ. Giới luật của sa di có mười
điều: không sát sinh, không trộm cướp, không dâm dục, không nói
dối, không uống rượu, không trang điểm cài hoa và xức dầu thơm, không nằm ngồi
trên những giuờng ghế cao sang rộng lớn, không tham gia hoặc xem ca vũ,
không sử dụng tiền bạc, không ăn sau giờ mặt trời đứng
bóng. Bốn mươi lăm điều uy nghi và tế hạnh tuy thuộc
về giới luật của một vị khất sĩ nhưng Rahula cũng phải học
và hành trì, bởi vì Rahula đang tập sự để được thọ giới khất
sĩ. Khất sĩ có tới một trăm hai mươi giới, trong đó có bốn mươi lăm
điều uy nghi tế hạnh. Theo chú Rahula nói thì số lượng các giới
điều khất sĩ sẽ tăng lên với thời gian, và có ngày giới này có
thể sẽ tăng lên hai trăm giới, hoặc hơn thế nữa tùy theo vào hoàn cảnh và xã
hội mỗi thời kỳ.
Theo
chú Rahula kể lại thì trong những năm đầu, các vị khất sĩ sống không
cần giới luật gì hết mà trong giáo đoàn vẫn chẳng
có vấn đề gì đáng tiếc xảy ra. Lễ xuất gia thật đơn
giản: chỉ cần quỳ dưới chân Bụt hoặc dưới chân một vị khất sĩ để đọc
lên ba câu Tam Tự Quy Y là đã chính thức thành người xuất
gia. Bây giờ đây, xuất gia thì phải phát nguyện tiếp
nhận và hành trì giới luật. Số lượng người xuất gia đã
trở nên đông đảo. Vì lượng người quá đông mà sự tu học của mỗi người khác nhau,
có người vẫn chưa thực hành được sự tỉnh thức và giáo pháp của Bụt, cho nên sẽ có
những vị không tự giác được và phải cần đến những kỷ luật và
phép tắc để chế ngự. Những phép tắc này gọi là giới và luật.
Chú
Rahula kể rằng người phạm giới đầu tiên là thầy Sundina, và chính vì
thầy Sundina mà Bụt khởi sự áp dụng việc hành trì giới
luật. Thầy Sudina trước khi đi xuất gia đã có gia đình rồi,
và lúc ấy còn cư trú tại làng Kalanda gần thành phố Vesali. Được nghe
Bụt thuyết pháp ở giảng đường Trùng Các, Sundina xin đi xuất
gia. Một thời gian sau đó, thầy Sundina có dịp ghé về làng
Kalanda. Gia đình thầy ngỏ ý muốn thỉnh thầy về thọ trai vào
hôm sau. Thầy nhận lời. Sau khi thọ trai, thầy được gia đình yêu
cầu hoàn tục để chăm lo sự nghiệp và cửa nhà. Thầy không
bằng lòng. Gia đình than phiền rằng thầy là con một, thầy đi tu
thì không còn ai nối dõi, và sản nghiệp sẽ rơi vào tay người khác. Gia
đình thầy giàu có lắm. Cuối cùng mẹ thầy đề nghị nếu
thầy cương quyết không hoàn tục thì ít nhất thầy
cũng phải để lại một đứa con. Nghe lời mẹ, và cũng vì lúc ấy giáo
đoàn chưa có pháp chế giới luật, nên thầy nhận lời. Mẹ thầy sau
đó sắp đặt để cho thầy gặp lại người vợ cũ. Cuộc gặp gỡ này xay ra
trong rừng Mahavana.
Sau
đó, người vợ cũ của thầy mang thai. Đứa con trai sinh ra được ông bà nội đặt
tên là Bijaka, có nghĩa là hạt giống. Rồi sau đó thầy Sudina bị các bạn
gọi đùa là “Cha của Hạt Giống”. Bắt đầu có sự gièm pha trong dư
luận quần chúng. Việc này tới tai Bụt. Người triệu tập các
vị khất sĩ lại, thầy Sundina bị Bụt khiển trách. Giới
luật được chế tác bắt đầu từ đó. Mỗi khi có một vị khất sĩ làm
một việc gì trái với tinh thần của đạo lý giác
ngộ và giải thoát thì giáo đoàn lại được tập họp và
một điều luật mới được ghi vào giới bản. Giới bản này được gọi
là Patimokkha.
Ngày
Svastika thọ giới, giới bản đã lên tới một trăm hai chục điều.
Bốn giới đầu là bốn giới căn bản, phạm vào một trong bốn điều là tự
động mất giới thể, không còn được công nhận là một vị khất
sĩ nữa. Nếu phạm vào những điều khác thì còn có thể sám hối.
Bốn
giới đầu gọi là trọng giới: không sát hại, không trộm cướp, không dâm
dục, không nói dối (hoặc tuyên bố mình đã thực chứng đạo
quả khi mình chưa có thực chứng đạo quả). Bốn giới này gọi là
bốn giới Parajika: vị khất sĩ nào phạm vào thì không còn là một
vị khất sĩ nữa, cũng như khi một cây cau bị chặt ngọn thì không thể
nào mọc lên lại được.
Chú
Rahula cho biết là Bụt dạy chú rất nghiêm, dù chú biết Bụt thương chú
lắm. Từ năm chú mười ba tuổi, chú đã xin được ăn uống theo các
thầy khất sĩ, nghĩa là không ăn sau giờ mặt trời đứng bóng nữa.
Hồi chú mười một tuổi, có một lần chú đã lỡ nói
dối với đại đức Sariputta. Chú đã nói dối chỉ vì sợ
thầy Sariputta mắng về một vụ ham chơi thôi, nhưng rốt cuộc vì lời
nói dối đầu tiên ấy mà phải nói dối liên tiếp tới bốn
lần, sợ tội nói dối lòi ra, nhưng rốt cuộc thì vụ nói
dối cũng không che đậy được nữa. Bụt hay được chuyện này và Bụt đã dạy dỗ
chú thật kỹ lưỡng về vấn đề nói dối. Hồi ấy Bụt ở tịnh
xá Trúc Lâm, và hai thầy trò Sariputta thì ở lại vườn Ambalatthika, Rahula
thấy Bụt tới liền đi bắc ghế cho Bụt ngồi và lấy thau đi múc nước cho Bụt rửa
chân. Trong khi Bụt rửa chân Rahula được thầy Sariputta cho phép ngồi
xuống một bên thầy, gần Bụt.
Rửa
chân xong, Bụt đổ nước đi, nhưng Người còn giữ lại một ít nước trong chậu, rồi
Người nhìn Rahula hỏi:
-
Này Rahula, nước trong chậu nhiều hay ít?
-
Lạy Bụt, nước trong chậu còn rất ít.
-
Con nên biết đó, Rahula. Những người nói dối thì căn lành không còn
lại bao nhiêu, ít như nước trong chậu này.
Rahula
nín thinh. Bụt lại đổ hết nước trong chậu đi và hỏi:
-
Rahula, con có thấy ta đã đổ hết nước trong chậu đi rồi không?
-
Dạ, con có thấy.
-
Đối với những người tiếp tục nói dối, thì thiện căn sẽ mất
hết như chiếc chậu không có nước này.
Bụt
lật úp chậu lại. Người hỏi:
-
Rahula, con có thấy cái chậu bị úp lại không?
-
Lạy Bụt, con có thấy.
-
Nếu ta không tu tập chánh ngữ, nhân cách ta cũng sẽ bị đảo
lộn như cái chậu này.
Bụt
nói:
-
Rahula, cho nên không bao giờ được nói dối, dù là để đùa cợt. Con có
biết một tấm gương là để dùng làm gì không?
-
Lạy Bụt, tấm gương dùng để soi mặt mình.
-
Cũng vậy đó Rahula, con phải quán sát hành động, suy nghĩ và lời
nói của con như người soi gương vậy.
Nghe
Rahula kể, chú Svastika ý thức được tầm quan trọng của hạnh nói
năng chân thực. Chú nhớ hồi bé chú đã từng nói dối bố, mẹ, và
có một lần chú đã nói dối với chị Sujata, nhưng may
mắn làm sao, chú chưa từng nói dối Bụt lần nào. Chú có cảm
tưởng không thể nói dối Bụt được. Nói dối Bụt thì thế
nào Người cũng biết. Chú thầm nghĩ: ta phải dứt khoát từ bỏ lời
nói không chân thực, không những ta không được nói dối Bụt,
ta cũng không được nói dối với bất cứ ai, dù người đó là một em bé.
Có như thế ta mới không phạm lỗi lầm như hồi ta còn nhỏ. Có như thế
ta mới đền đáp được ơn đức của Bụt, với lại đã thọ
giới rồi thì phải hành trì giới cho thật nghiêm chỉnh.
Mỗi
tháng hai lần vào ngày trăng tròn và ngày trăng mới, tất cả các vị khất
sĩ tập họp lại để bố tát và nhắc nhở nhau về giới luật. Các giới
điều đều được tuyên đọc, và đại chúng được hỏi có vi
phạm các giới ấy hay không. Nếu đại chúng giữ im
lặng tức là không có ai vi phạm, nếu có ai vi phạm thì vị
ấy đứng dậy phát lộ để sám hối. Trừ những lỗi Parajika mà
người nào phạm vào thì tự động rời khỏi giáo đoàn, những lỗi khác đều có
thể sám hối được.
Có
nhiều hôm Svastika cũng được đi khất thực trong đoàn của Bụt, có cả
Rahula và đại đức Sariputta. Mùa an cư ấy Bụt lại cư trú ở
Ekanala, một khu đồi núi về phía Nam thủ đô Rajagaha. Một buổi sáng,
đi khất thực ngang qua cánh đồng ở làng Ekanala, Bụt và các
vị khất sĩ bị một nông dân chặn đường. Nông
dân này tên là Bharadvaja, ông là một phú nông, ông có hàng ngàn mẫu
ruộng, đây là mùa cày ruộng, ông đang đốc thúc dân cày đi cày. Có hàng
trăm trăm người đang cày ruộng cho ông trong ngày hôm đó. Chặn
đường Bụt và các vị khất sĩ, ông nói:
- Chúng
tôi là nông dân, chúng tôi phải cày sâu cuốc bẫm, bỏ phân,
chăm bón và gặt hái mới có được gạo ăn, còn các vị không làm gì cả, không sản
xuất gì hết mà các vị cũng ăn. Các vị không có ích lợi gì cho đời cả.
Các vị không cày, không cuốc, không gieo trồng, không bỏ phân, không chăm bón,
không gặt hái ...
Bụt
bảo Bharadvaja:
-
Có chứ, chúng tôi cũng có cày, cuốc, gieo trồng, bỏ phân chăm bón và
gặt hái.
-
Cày của quý vị đâu, cuốc của quý vị đâu, bò của các vị
đâu, hạt giống của các vị đâu? Các vị chăm bón cái gì, săn
sóc cái gì, gặt hái cái gì?
Bụt
nói:
- Hạt
giống của chúng tôi là niềm tin. Đất của chúng
tôi là chân tâm. Cày của chúng tôi là chánh niệm. Bò
của chúng tôi là sự tinh tấn. Mùa màng của chúng
tôi là sự hiểu biết và thương yêu. Điền chủ! Nếu
không có niềm tin, sự hiểu biết và lòng thương
yêu thì cuộc đời sẽ khô cằn và đau khổ lắm. Chúng
tôi cũng gieo trồng và cũng gặt hái như điền chủ vậy.
Vị
điền chủ Bhadvaja rất ngạc nhiên và thích thú khi được nghe
lời Bụt nói. Ông truyền gia nhân đem thức ăn trưa dành
cho ông ta tới để cúng dường Bụt. Thức ăn là cơm gạo thơm
nấu với sữa. Bụt từ chối. Người nói:
-
Tôi thuyết pháp không phải với mục đích là được cúng
dường. Các vị khất sĩ không đổi giáo pháp để lấy thực phẩm và
vật cúng dường. Nếu điền chủ muốn cúng dường, xin để đến một hôm
khác.
Vị
điền chủ rất cảm phục. Ông lạy xuống và xin được quy y với Bụt.
Được chứng
kiến cuộc gặp gỡ này giữa Bụt và ông điền chủ Bharadvaja, Svastika thấy
rằng nếu được thân cận Bụt, chú sẽ học hỏi được rất nhiều, và chú rất
mong được đi theo Bụt suốt đời. Chú biết rằng có cả hàng ngàn
vị khất sĩ tuy là học trò của Bụt mà không được thân cận Bụt như chú,
như Rahula và các thầy phụ tá Bụt như Sariputta, Moggallana và
Anaruddha
Sau mùa
an cư, Bụt lại đi hành hóa về hướng Tây Bắc, và cuối
mùa thu năm ấy Bụt tới Savatthi. Một buổi sáng, trong khi cầm bát
đi khất thực sau lưng Bụt, Rahula đánh mất chánh niệm. Tuy vẫn
đi như mọi người, tâm chú lại nghĩ đến chuyện khác. Chú nhìn Bụt
phía trước và tự hỏi ngày xưa Bụt không đi tu thì không biết bây giờ
Bụt đang làm gì và mình đang làm gì. Chú đã nghe kể lại là khi Bụt mới sinh, có
ông thầy Bà la môn tiên đoán rằng khi lớn lên Bụt sẽ đi tu
và nếu không đi tu thì sẽ trở nên một vị Chuyển Luân Thánh Vương,
nghĩa là một vị vua có quyền hạn cao hơn tất cả các vị vua
trên hoàn vũ. Đời sống của một vị Chuyển Luân Thánh Vương ra
sao, và nếu Bụt đi theo con đường ấy thì chú sẽ đang làm gì? Trí óc đang vơ
vẫn nghĩ như thế, bước chân, hơi thở và dáng đi của chú cũng không còn an
trú trong uy nghi nữa. Lạ quá, Bụt đi phía trước mà Người vẫn
cảm thấy được những điều đó. Bụt biết là chú mất chánh niệm, Người
dừng bước và quay trở lại. Tất cả các vị khất sĩ cũng dừng bước,
Bụt bảo Rahula:
-
Này Rahula, con có theo dõi hơi thở và duy trì chánh
niệm không?
Rahula
cúi đầu im lặng.
Bụt
dạy:
-
Muốn an trú trong chánh niệm thì phải duy trì hơi
thở có ý thức. Trong khi đi khất thực, ta phải thực
tập thiền quán. Ta có thể quán sát về tính cách vô
thường và vô ngã của những yếu tố tạo nên muôn loại.
Những yếu tố đó là sắc, thân, cảm thọ, tri giác, tâm ý
và nhận thức. Nếu ta duy trì hơi thở có ý
thức thì ta có thể tiếp tục việc thiền quán ngay trong
khi ta đi khất thực, và ta sẽ không bị rơi vào tình trạng mất
chánh niệm.
Nói
xong, Bụt quay lại và tiếp tục đi. Được nhắc nhở, tất cả mọi
người đều nắm lấy hơi thở và duy trì chánh niệm. Nhưng
một lúc sau đó, Rahula tách ra khỏi hàng ngũ các vị khất sĩ, chú tìm đến
một cụm rừng bên đường và ngồi xuống dưới một gốc cây.
Thấy
thế, Svastika cũng rời hàng ngũ và đi theo Rahula. Thấy chú tới
gần, Rahula nói:
-
Chú cứ đi khất thực với các thầy đi, Tôi không có tâm nào mà
đi khất thực nữa. Tôi mới bị Bụt rầy la trước đại
chúng vì đánh mất chánh niệm. Tôi phải dành cả ngày hôm nay
để thực tập thiền quán. Tôi xấu hổ lắm.
Biết
không làm gì hơn được, Svastika từ giã Rahula và trở lại nhập đoàn
với các vị khất sĩ.
Trên
đường về đại đức Sariputta đã cùng Svastika ghé lại cụm rừng để đón
Rahula về tu viện. Svastika chia sẻ phần thức ăn của mình xin
được vào bát của Rahula. Sau giờ thọ trai, thầy Sariputta bảo Rahula đi gặp
Bụt. Svastika xin được đi theo:
Biết
tâm ý của Rahula đã đến lúc có thể tiếp nhận giáo lý giải thoát.
Bụt dạy:
-
Này Rahula, con nên học theo hạnh của đất. Dù người ta đổ và rải lên những thứ
tinh sạch và đẹp đẽ như hoa, nước thơm, sữa thơm, hoặc người ta
đổ lên đất những thứ bẩn thỉu hôi hám như phân, nước tiểu và máu mủ, hoặc
người ta khạc nhổ xuống đất thì đất cũng tiếp nhận tất cả những thứ
ấy một cách thản nhiên, không vui vẻ mừng rỡ mà cũng
không chán ghét tủi nhục. Cũng như thế, khi những cảm
thọ khoái lạc hoặc buồn khổ phát sinh, con đừng để cho chúng làm nhiễu loạn
tâm con và chiếm cứ lấy con.
Con
hãy học theo hạnh của nước. Khi người ta giặt rửa những thứ dơ
bẩn trong nước, nước cũng không vì thế mà cảm thấy tủi nhục,
buồn khổ và tức giận. Con lại nên học hạnh của lửa. Lửa đốt cháy mọi
thứ, kể cả những thứ dơ bẩn, vậy mà lửa cũng không vì thế
mà cảm thấy tủi nhục, buồn khổ và chán chường. Con lại cũng
nên học hạnh của không khí. Không khí thổi đi các thứ mùi, có thơm và
có hôi thối, mà vẫn không cảm thấy tủi nhục, buồn khổ và khó chịu.
Rahula,
con hãy tu tập lòng nhân Từ để đối trị giận
hờn. Lòng Từ là lòng thương yêu được thực
hiện bằng cách đem lại niềm vui cho kẻ khác. Từ là thứ tình
thương không có điều kiện và không chờ đợi sự đền trả. Con
hãy tu tập lòng Bi để đối trị tàn ác. Lòng Bi là
lòng xót thương được thực hiện bằng cách làm vơi đi sự khổ
đau nơi người khác. Bi cũng là thứ tình thương không có điều
kiện và cũng không chờ đợi sự đền trả. Con lại phải tu tập lòng
Hỷ để đối trị ganh ghét. Lòng Hỷ là lòng vui vẻ hoan hỷ phát sinh từ
khả năng vui theo cái vui của người khác và niềm ước ao làm sao cho kẻ khác
được an vui, mong cho kẻ khác được thành công và hạnh phúc. Con
lại nên tu tập lòng Xả để đối trị kỳ thị và vướng mắc.
Lòng Xả là tâm niệm thanh thoát và cởi mở đạt được do
sự nhận thức về tính cách tương quan bình
đẳng giữa mọi loài; cái này bản chất như thế này vì cái kia bản chất như thế kia,
mình và người không phải là hai thực thể riêng biệt, không nên ghét
bỏ cái này để đi nắm bắt một cái khác.
Rahula,
Từ, Bi, Hỷ và Xả là bốn tâm tư lớn, rộng rãi không có bờ bến và
cũng đẹp đẽ không cùng, đó gọi là Tứ Vô Lượng Tâm. Tu
tập theo phép này thì mình trở thành một nguồn suối mát đem lại sinh
lực và niềm vui cho tất cả muôn loài và vũ trụ.
Rahula,
con lại phải quán chiếu về vô thường để phá trừ ảo
tưởng về cái “Tôi”. Con phải quán chiếu về tính sinh
diệt và thành hoại của thân thể để thấu hiểu sâu sắc về sự sống chết và để thoát
ly tham dục, và nhất là con phải tập quán niệm hơi thở. Quán
niệm hơi thở sẽ đem lại nhiều thành quả lợi lạc lớn.
Ngồi
kề bên Rahula, được nghe tất cả những điều Bụt dạy, Svastika sung
sướng vô cùng. Đây là lần đầu tiên chú được nghe những lời thâm
sâu như vậy trực tiếp từ miệng Bụt. Chú đã học thuộc lòng trên
mười giáo lý, trong đó có những giáo lý căn bản như Chuyển Pháp
Luân và Vô Ngã Tướng mà Bụt nói ở vườn Nai Isipatana, nhưng
chú chưa thấy thấm thía mùi vị đạo của đại pháp như hôm
nay. Có lẽ vì những lời giảng dạy đó chú không được nghe trực tiếp từ miệng
Bụt. Giáo lý đầu tiên mà chú nghe trực tiếp từ miệng Bụt là pháp Chăn
trâu, chú đã thuộc lòng, nhưng hồi Bụt thuyết pháp ấy, chú vẫn còn chưa hình
dung được lý lẽ thâm diệu, tâm trí chưa đủ chín chắn để cảm
nhận lấy tất cả những cái hay. Chú tự hẹn là những lúc rãnh rỗi chú sẽ ôn niệm
lại các giáo lý đó bằng nhận thức mới của mình để có thể thâm
nhập được nghĩa lý nhiệm mầu trong ấy.
Suy
nghĩ tới đó thì Svastika lại nghe tiếng Bụt cất lên. Bụt bắt đầu dạy
Rahula về phương pháp thở. Svastika và Rahula đã từng học
phép quán niệm hơi thở rồi và cũng đã thực tập, nhưng đây là lần
đầu hai người được Bụt dạy trực tiếp về phép thực hành này. Bụt dạy
rằng tác dụng đầu tiên của hơi thở có ý
thức là chấm dứt tạp niệm và phát khởi chánh niệm. Mỗi
khi hít vào ta biết là đang hít vào, mỗi khi thở ra, ta
biết rằng ta đang thở ra, đó là hơi thở có ý thức. Trong
lúc thở như thế ta để tâm nơi hơi thở và chỉ để chú tâm nơi hơi
thở mà thôi. Làm như vậy lập tức ta chấm dứt ngay được
những tạp niệm, nghĩa là chấm dứt những suy nghĩ viễn vông,
những suy nghĩ ấy bản chất nó đã không đem ích lợi mà còn
làm cho tâm ta loạn động. Một khi không còn những tạp niệm thì tâm
ta an trú trong chánh niệm. Ta biết ta đang thở, ta biết ta
đang tỉnh thức, ta không bị tạp niệm bao vây và dẫn dắt. Chỉ cần
một hơi thở thôi, ta đã có thể thiết lập trạng
thái tỉnh thức trong ta. Trạng thái tỉnh thức ấy là bản
chất Giác ngộ sẵn có trong mọi người.
Bụt
dạy: thở một hơi dài mình biết là mình thở một hơi dài, thở một hơi ngắn mình
biết là mình thở một hơi ngắn. Như vậy có nghĩa là mình ý
thức được trọn vẹn hơi thở của mình. Duy trì ý
thức và hơi thở, ta thiết lập được định tâm. Lúc bấy
giờ ta mới nương theo hơi thở để quán chiếu thân
thể ta, cảm giác ta, tâm ý ta và mọi sự vật trong ta và ngoài
ta. Các sự vật ấy gọi là các pháp (sarvadharma).
Svastika tin
chắc rằng sau buổi giảng này, chú sẽ thành công rất dễ dàng
trong việc thực tập quán niệm về hơi thở. Bụt đã tận tình
dạy chú và dạy Rahula: lời dạy của Người rất đơn giản mà cũng rất sâu
sắc. Sau khi lạy tạ Bụt, chú và Rahula cùng rủ nhau ra bờ hồ. Hai người lặp
lại với nhau những lời Bụt dạy để cùng ghi nhớ cho kỹ mà thực
tập.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét