Thích Nhất Hạnh
Chương 35
Ra nhìn tia nắng sớm.
Tin thái
tử Siddhatta đã đắc đạo và trở về kinh thành được lan truyền
đi rất mau. Tin này được xác định bằng sự có mặt của giáo đoàn khất
sĩ mỗi buổi sáng ở thành phố và các vùng lân cận thủ đô. Nhiều
người đã được trông thấy cảnh tượng những đoàn khất sĩ lặng
lẽ và trang nghiêm đi khất thực trên các nẻo đường.
Nhiều nhà đã học được cách thức cúng dường thực phẩm cho các
vị khất sĩ theo nghi lễ. Nhiều gia đình đã được nghe
các vị khất sĩ thuyết pháp. Quốc vương Suddhodana cũng đã
ra lệnh dân chúng treo cờ kết hoa vào ngày rước Bụt và giáo
đoàn đến hoàng cung thọ trai.
Vua
cũng đã ra lệnh dựng lên những am thất nhỏ rải rác trong công viên Nigrodha
để che nắng che mưa cho Bụt và các vị đệ tử lớn tuổi
của Người. Ngoài những người có phận sự đến xây dựng am thất, đã có
một số những người khác tìm tới tận công viên Nigrodha để thăm
viếng và học hỏi với Bụt và các vị khất sĩ. Nhiều người ở
thủ đô quả quyết rằng đã được gặp thái tử Siddhatta
trong hình thức tu sĩ trang nghiêm mang bình
bát đi khất thực. Trong suốt cả tuần lễ, dân chúng
kinh thành Kapilavatthu chỉ nói có một câu chuyện này khi dịp gặp gỡ
nhau.
Hai
vị phu nhân Gotami và Yasodhara cũng rất muốn lên vườn Nigrodha để
thăm Bụt, nhưng họ không có thì giờ. Cả hai người phải lo điều động công
việc tổ chức lễ trai tăng. Vua đã cho mời hàng ngàn tân khách. Không những
nhân vật trong giới chính trị và văn hóa trong, ngoài hoàng
gia được mời, mà tất cả các giới lãnh đạo tôn
giáo và trí thức cũng đã được mời. Theo lời Bụt dặn, tất cả
các thực phẩm cúng dường và thiết đãi ngày hôm ấy sẽ đều là
những món chay tịnh.
Hoàng
tử Nanda đã lên thăm Bụt được hai lần vào hai buổi chiều. Chàng đã được ngồi
với Bụt khá lâu và được Bụt giảng dạy cho những điều căn
bản của đạo lý tỉnh thức. Nanda rất thương kính Bụt và rất
mến nếp sống tịnh lạc của các vị khất sĩ. Chàng có hỏi
thăm về đời sống hàng ngày của các vị khất sĩ. Chàng lại
hỏi Bụt xem thấy chàng có đủ khả năng sống đời sống xuất
gia không. Bụt chỉ mỉm cười không trả lời. Nanda là một
thanh niên có nhiều tình cảm nhưng chưa được vững mạnh lắm về mặt ý chí.
Khi ngồi với Bụt thì có ý muốn đi xuất gia, khi về đến cung điện
và nghĩ tới mỹ nhân Kalyani, vị hôn thê của mình thì chàng lại thấy
chàng chưa đi xuất gia được. Chàng tự hỏi không biết anh mình nghĩ gì
về mình.
Ngày trai
tăng đã đến. Cả thủ đô treo cờ kết hoa để đón Bụt và tăng
đoàn. Hoàng thành cũng được treo cờ kết hoa bốn phía. Cả thủ đô tưng
bừng chuẩn bị đón rước người anh hùng của cả nước. Nhiều nơi trong
thành phố, thiên hạ mở hội vũ nhạc. Trên con đường mà Bụt
và tăng đoàn sẽ đi qua, quần chúng tập hợp rất đông đảo. Ai
cũng muốn thấy tận mắt Bụt. Trong hoàng cung, tân khách của quốc
vương đã tề tựu đầy đủ. Phu nhân Gotami và Yasodhara đích thân
điều khiển công cuộc tiếp đãi. Gopa đã nghe lời hoàng hậu trang
điểm và phục sức thật đúng mức trong ngày hội lớn này.
Trong
lúc ấy, Bụt cùng đoàn khất sĩ đang trầm
lặng và nghiêm chỉnh đi vào thành. Hai bên đường dân chúng
đứng chen nhau từng hàng. Nhiều người chắp tay cúi đầu khi Bụt đi
qua. Những em bé được cõng lên vai để có thể thấy được Bụt. Có cả những tiếng
hò reo mừng Bụt trở về. Trong không khí rộn rã tưng bừng ấy,
đoàn khất sĩ vẫn lặng lẽ và chậm rãi đi tới. Các
vị khất sĩ đã để tâm ý vào mỗi bước chân và hơi thở của họ.
Vua
Suddhodana ra đón Bụt tận ngoài cổng hoàng cung, cũng như vua Bimbisara ở
nước Magagha vậy, Bụt và các vị khất sĩ được hướng dẫn vào chỗ ngồi
đã bày sẵn ở giữa sân điện. Thấy vua kính cẩn chắp tay làm lễ Bụt,
tất cả các vương hầu và quan khách đều phải bắt chước đứng lên làm lễ Người, dù
trong số đó có người nghĩ rằng không có lý do gì mà họ phải tôn
trọng vị khất sĩ trẻ này một cách quá đáng như vậy.
Sau
khi Bụt và các vị khất sĩ đã an tọa, vua ra hiệu cho các người hầu
mang thức ăn ra cúng dường. Chính tay vua cúng
dường thức ăn vào bát của Bụt. Các vị khất sĩ cũng đều
được cúng dường một lượt. Trong khi ấy hoàng hậu và Yasodhara hướng
dẫn những cung nhân thừa tiếp trên một ngàn tân khách của vua, trong
đó có nhiều đạo sĩ Bà la môn, các du sĩ và cả những nhà tu khổ
hạnh. Tất cả đều thọ trai im lặng theo Bụt và tăng
đoàn. Thức ăn thuần là chay tịnh. Sau khi mọi người đã
thọ trai xong, bình bát của Bụt cùng chư vị khất sĩ đã được rửa và trả lại
cho từng người, đức vua mới đứng dậy chắp tay thỉnh Bụt thuyết
pháp.
Bụt
ngồi im lặng một lát để quán chiếu tâm ý của đại
chúng. Sau đó, Người lên tiếng. Trước hết Người nói cho mọi
người nghe sơ lược về kinh nghiệm học đạo, tìm đạo
và tu đạo của Người. Những điều này, Người biết rằng ai
trong đại chúng cũng muốn được nghe. Rồi Bụt khai thị cho đại
chúng về đạo lý vô thường, vô ngã, và duyên
sinh của vạn vật, nghĩa là về những khám phá căn
bản trong công trình tu tập thiền định và thiền quán của Người.
Người nói đến con đường quán chiếu và thực tập tỉnh
thức như là con đường duy nhất có thể đưa đến sự diệt
khổ và thực hiện an lạc trong thực tại. Người cũng cho
biết là tế tự và cầu nguyện không phải là những phương thức hữu
hiệu để đạt tới giác ngộ và giải thoát.
Rồi
Bụt giảng dạy về bốn sự thật căn bản: sự có mặt của khổ
đau, nguyên do của khổ đau, khả năng diệt khổ để kiến
tạo an lạc và giải thoát, và con đường thực
hiện diệt khổ và kiến tạo an lạc.
Bụt
khai thị thêm:
-
Ngoài những quy luật như sinh, già, bệnh, chết, có người còn phải
gánh chịu biết bao nhiêu khổ đau khác do chính mình tự tạo ra cho mình.
Vì vô minh, nghĩa là vì nhận thức sai lầm, con người nghĩ,
nói và làm những điều có thể tạo ra cho bản thân mình và cho những
người khác rất nhiều đau khổ. Những đau khổ vì giận dữ, hờn
oán, nghi kỵ, ganh ghét, bất mãn ... đều do ta
thiếu sáng suốt mà sinh ra. Ta sống trong những khổ đau ấy như sống
trong một căn nhà đang bốc cháy. Phần lớn những khổ đau mà ta chịu đều do ta tự
tạo ra. Ta không thể thoát ra được khổ đau bằng cách cầu cứu một
vị thần linh. Ta phải quán chiếu tâm ta và hoàn
cảnh ta để thấu hiểu nguyên nhân và loại trừ những nhận thức sai
lầm đã từng là nguồn gốc phát sinh ra các khổ đau. Ta phải tìm tới ngọn
nguồn của đau khổ ấy thì ta mới thật sự hiểu được bản
chất của đau khổ. Một khi hiểu được bản chất của đau
khổ phiền não thì ta mới có thể tự giải thoát mình ra khỏi đau khổ phiền
não ấy.
Ví
dụ có một người kia tới chửi mắng ta. Ta có thể nổi giận và chửi mắng
trả lại người ấy. Trong trường hợp này ta khổ mà người ấy cũng khổ.
Theo đạo lý tỉnh thức thì không nên nổi giận và chửi
mắng người kia. Ta phải bình tâm quán chiếu để thấy được vì sao người
kia lại tới chửi mắng ta, nghĩa là ta đi tìm tới cội nguồn của sự giận
dữ của người ấy. Do công phu quán chiếu bình tĩnh đó
mà ta có thể thấy được những nguyên nhân sâu xa và đan xen nào
đó đưa tới thái độ và hành động hôm nay của người ấy. Nếu ta thật
sự có lỗi thì ta thấy sự chửi mắng đó là kết quả tất nhiên của lỗi
lầm ta. Nếu ta quả không có lỗi lầm gì thì chắc
chắn đã có một sự hiểu lầm nơi người ấy. Ta quán
chiếu để tìm ra và chứng minh được sự hiểu
lầm ấy cho người kia thấy. Làm như vậy, ta tránh được khổ đau cho ta và
cũng giải tỏa được khổ đau cho người kia.
Thưa Đại
Vương và các vị quan khách! Tất cả mọi khổ đau phiền não, ta đều
có thể tự thoát ra khỏi bằng con đường quán chiếu ấy, cũng là để thấu
hiểu rõ mọi bản chất thế gian và thân tâm mình, đó là Tuệ. Nhưng muốn quán
chiếu được xuyên suốt rõ ràng các sự vật hiện tượng, ta cần phải
biết sống thức tỉnh, dung bồi định lực để tâm luôn tĩnh lặng trước mọi
biến cố cuộc đời, đó là Định. Tuy nhiên, muốn thực hành sự tỉnh thức, và có
được nhận thức đúng đắng, ta cần phải sống một đời sống lành mạnh, giữ gìn
nguyên tắc sống an vui cho mình và mọi người, đó là Giới.
Giới
là những nguyên tắc sống cho an lạc. Có sống theo các nguyên tắc này, ta
mới thực hiện được định. Định là nếp sống có tỉnh thức,
có chú tâm. Có tỉnh thức và chú tâm ta mới có khả
năng quán chiếu về thực tánh của tâm ta và của hoàn cảnh, và
có quán chiếu ta mới có Tuệ. Tuệ tức là sự hiểu biết.
Một
khi đã có hiểu biết, ta mới có thể thương yêu và tha
thứ. Cuộc đời sẽ bớt khổ rất nhiều khi ta có hiểu biết. Nếu
không hiểu biết, ta không thể thương yêu và tha thứ. Cho
nên con đường giải thoát chân thật là con
đường thực hiện sự hiểu biết. Hiểu biết là trí
tuệ, là bát nhã.
Mà trí
tuệ chỉ có thể do quán chiếu đem lại. Con đường tu học
giới, định và tuệ vì vậy là con đường duy nhất đưa
tới giải thoát”.
Bụt
lặng yên một lát rồi mỉm cười. Người nói tiếp:
-
Nhưng khổ đau chỉ là một mặt của sự sống. Sự sống còn có một mặt khác: đó là sự
có mặt của những mầu nhiệm trong cuộc đời, và nếu con người được tiếp
xúc với những mầu nhiệm ấy, con người sẽ có niềm vui
và sự an lạc. Khi tâm ta được giải thoát, ta tiếp xúc ngay
được với những mầu nhiệm ấy. Nếu ta chứng nghiệm được sự
thật về vô thường, vô ngã và duyên sinh thì ta có
thể thấy được rằng tất cả mọi thứ đều trở nên mầu nhiệm: từ
tâm ý ta, thân thể ta cho đến cành tre tím, bông cúc
vàng, dòng sông, ánh trăng sáng.
Khi
ta chưa thấy được sự mầu nhiệm ấy, bởi vì ta tự giam hãm mình
trong thế giới khổ đau, tâm trí ta luôn bị lôi kéo vào những hiện
tượng khổ đau ấy, cho nên ta không thể tiếp xúc được với thực tại mầu
nhiệm. Phá được vô minh rồi, ta sẽ thênh
thang trong thế giới của an lạc, của giải thoát,
của niết bàn. Niết bàn là sự chấm dứt của vô
minh, của tham đắm và của giận hờn. Niết bàn cũng là sự hiển
lộ của niềm an lạc và giải thoát. Quý vị cứ thử nhìn ra một
dòng sông hay một tia nắng sớm. Quý vị sẽ thấy mình đã tiếp xúc được
với thế giới của an lạc và giải thoát chưa.
Nếu chưa thì quý vị vẫn còn bị giam hãm trong ngục tù của phiền
não, vẫn còn chưa tiếp xúc được với những sự thật nhiệm mầu
của vũ trụ, của thiên nhiên mà trong đó có cả hơi thở, thân và tâm
ta. Phá giải phiền não bằng phép quán chiếu, đó là con
đường tôi đã tìm ra được. Tôi đã thực nghiệm, đã thành
công và đã chỉ bày cho nhiều người khác. Và họ đã thực
hành theo phương pháp ấy cũng đã đạt tới thành công.
Khi
Bụt chấm dứt pháp thoại, Người đã chinh phục được hầu
hết mọi người trong số những tân khách của vua Suddhodana. Điều này
có thể cảm nhận được trong không khí và trong ánh mắt của các vị tân khách.
Vua sung sướng đã đành mà hoàng hậu Gotami và công
nương Yasodhara cũng tỏ vẻ hết sức hoan hỷ. Họ nhất
quyết trong những ngày kế tiếp tìm tới với Bụt để được học về
những phương pháp quán chiếu thực tiễn có thể giúp họ đạt
tới giải thoát và giác ngộ. Sau buổi pháp thoại, vua tiễn
Bụt và giáo đoàn ra khỏi hoàng cung rồi mới đưa tiễn các vị
tân khách. Mọi người đều chúc mừng vua về sự thành
công của Bụt.
Công
viên Nigrodha đã được xây dựng thành một tu viện cho Bụt
và tăng đoàn. Ở đây có rất nhiều cây sung cổ thụ. Các cây này cho Bụt
và tăng đoàn rất nhiều bóng mát. Rất nhiều người đến xin xuất
gia thọ trì năm giới của người cư sĩ. Trong số những người
đến xin Bụt xuất gia, có cả những thanh niên thuộc dòng
họ Sakya của Người.
Yasodhara
thường đi chung với hoàng hậu và Rahula đến thăm và cúng dường Bụt
và tăng đoàn tại tu viện. Bà đã được nghe Bụt thuyết
pháp nhiều lần. Bà cũng đã có cơ hội hỏi Bụt những câu hỏi về sự liên
hệ giữa sự tu đạo và công việc cứu tế xã hội. Bà được
Bụt dạy cho những phương pháp theo dõi hơi thở và thực
tập thiền quán để nuôi dưỡng sự an
lạc trong thân tâm.
Bà biết rằng, nếu không có an lạc thì con người không thể giúp được gì cho kẻ khác. Bà học được rằng, phát triển sự hiểu biết cũng là nuôi dưỡng được tình thương. Bà rất sung sướng tìm ra được rằng bà có thể thực tập thiền quán ngay trong đời sống hàng ngày và trong những lúc làm công tác cứu tế xã hội. An lạc có thể đạt được ngay trong lúc mình làm công việc. Phương tiện và cứu cánh không còn là hai cái khác nhau. Hoàng hậu Gotami cũng đạt được nhiều tiến bộ tu học trong thời gian mấy mươi ngày sau đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét