Thích Nhất Hạnh
Chương 53
An trú trong hiện tại.
Mùa xuân năm sau, tại Kammassadhamma thủ phủ xứ Kuru thuộc vùng Tây Bắc, Bụt thuyết giảng pháp Tứ Niệm Xứ (Satipatthanasutta) cho một thính chúng khất sĩ trên ba trăm người. Đây là một bài pháp rất quan trọng cho công phu tu tập thiền quán. Bụt nói phép quán niệm xứ này là con đường có thể giúp mọi người đạt tới sự thanh tịnh hóa thân tâm, vượt khỏi sầu não, diệt được khổ ưu, thành tựu được hiểu biết lớn và đạt tới tự do hoàn toàn. Nghe Bụt dạy xong, đại đức Sariputta đã nói với đại chúng rằng đây là một trong những giáo pháp quan trọng vào bậc nhất, và đề nghị tất cả các vị khất sĩ và nữ khất sĩ nhất tâm quán niệm để mà hành trì theo.
Ngay
tối hôm ấy, đại đức Ananda trùng tuyên lại từng lời những điều Bụt
dạy. Niệm xứ là an trú trong chánh niệm. Theo pháp tu
này, người hành giả ý thức được những gì đang xảy ra trong cơ
thể, cảm giác, tâm ý và đối tượng tâm ý mình. Ý thức ấy tức
là chánh niệm. Bốn lĩnh vực ấy là bốn lĩnh vực quán niệm.
Trong
lĩnh vực thứ nhất là thân thể, người hành giả quán niệm về hơi
thở của mình, về bốn tư thế của thân thể là đi, đứng, nằm, ngồi. Về tất
cả những động tác của thân thể mình như đi tới, đi lui, hít thở,
nhìn, nghe, nếm, xúc chạm, mặc áo, ăn, uống, đại tiểu tiện, nói chuyện,
giặt áo v.v... Về những bộ phận của cơ thể như tóc, lông, răng, gân, xương,
thận, tủy, ruột, nước miếng, mồ hôi, v.v... Về những yếu tố tạo nên
cơ thể như nước, sức nóng, không khí, vật chất ... Và về sự tàn hoại của
một tử thi từ khi nó ngừng sự sống, trương phồng lên cho
đến khi xương cốt tan thành tro bụi. Quán niệm thân
thể bằng cách phát khởi ý thức về những hiện
tượng thuộc về thân thể. Ví dụ khi đang hít vào, hành
giả biết là mình đang hít vào; khi đang thở ra, hành
giả biết là mình đang thở ra; khi đang hít vào và làm
cho toàn thân an tịnh, hành giả biết là mình đang hít
vào và làm cho toàn thân an tịnh, và thở ra cũng thế. Khi
đi, hành giả biết là mình đang đi, khi ngồi xuống, hành
giả biết là mình đang ngồi xuống. Khi làm những cử chỉ động tác như nói
chuyện, ăn uống, mặc áo, cầm nắm vật gì, hành giả biết là mình đang làm
những hành động đó ngay ở giây phút đó v.v...
Như
vậy công phu quán niệm về thân thể không phải chỉ
được thực hiện trong lúc ngồi thiền mà phải được thực
hiện suốt ngày, ngay cả những lúc đi khất thực, ăn cơm và rửa bát.
Trong
lĩnh vực thứ hai là cảm giác, người hành giả quán niệm về
những cảm giác đang phát sinh, tồn tại hoặc tàn hoại nơi
mình, những cảm giác dễ chịu (lạc thọ), khó chịu (khổ thọ) và
những cảm giác trung tính (xả thọ). Những cảm thọ ấy
có thể có nguồn gốc sinh lý hay tâm lý. Quán niệm cảm
giác bằng cách phát khởi ý thức về sự phát sinh, tồn
tại và hoại diệt của những cảm giác ấy. Ví dụ khi đang
bị nhức răng, hành giả biết là mình đang bị nhức răng, khi
đang sung sướng vì được khen ngợi, hành giả biết là mình
đang sung sướng vì được một người khác khen ngợi. Hành
giả còn quán chiếu để an tịnh hóa những cảm
giác của mình và để thấy rõ nguồn gốc phát sinh của mọi cảm
giác. Công phu quán niệm về cảm giác, do đó cũng không phải
chỉ được thực hiện trong lúc ngồi thiền, trái lại, đây là
một công phu được thực hiện suốt ngày.
Trong
lĩnh vực thứ ba là tâm ý, người hành giả quán niệm về
những trạng thái tâm ý đang có mặt. Khi có tham dục, biết
là có đang tham dục, khi không có tham dục, biết là không
có tham dục. Khi có giận hờn, biết là đang có giận hờn, khi không có
giận hờn thì biết không có giận hờn. Khi tâm ý tập trung hay tán loạn, thì
biết là đang có tập trung hay tán loạn. Những lúc tâm ý mở rộng, khép
kín, có giới hạn, cố định hay có giải thoát thì hành
giả liền biết; không có thì cũng liền biết. Nói tóm lại, hành
giả nhận diện và có ý thức về tất cả những trạng
thái tâm ý có mặt trong giờ phút hiện tại.
Trong
lĩnh vực thứ tư là đối tượng tâm ý, người hành giả quán niệm về
năm trạng thái chướng ngại của giải thoát (tham đắm,
giận hờn, hôn trầm, kích thích và nghi ngờ) mỗi khi chúng
có mặt; về năm yếu tố cấu tạo nên con người gọi
là năm uẩn (thân thể, cảm giác, tri giác, tâm ý
và nhận thức); về sáu giác quan và đối tượng của chúng;
về bảy yếu tố giác ngộ (chánh niệm, trạch pháp, tinh
tiến, hỷ lạc, khinh an, định và hành xả) và về bốn sự
thật là khổ đau, nguyên do của khổ đau, sự giải
thoát khổ đau và con đường thực hiện giải thoát. Tất cả những
thứ ấy đều là đối tượng của tâm ý. Vạn pháp đều bao hàm trong những đối
tượng ấy.
Bụt
chỉ dạy cặn kẽ về từng phép quán niệm trong cả bốn lĩnh
vực. Người dạy tinh chuyên hành trì phép quán này trong bảy năm
thì chắc chắn sẽ đạt được giải thoát. Người lại nói: có
người có thể đạt tới giải thoát trong bảy tháng, hoặc nội
trong bảy ngày, nhờ hành trì phép quán niệm này.
Trong
một buổi pháp đàm, đại đức Assaji cho biết đây không phải
là lần đầu Bụt dạy về bốn phép lĩnh vực quán niệm. Người đã dạy nhiều lần
phép này rồi, nhưng đây là lần đầu tiên Người tổng hợp lại những gì
đã dạy về phép tu trong một bài giảng thật đầy đủ, thật cặn kẽ. Đại
đức cũng đồng ý với đại đức Sariputta là tất cả các
vị khất sĩ nên thuộc lòng giáo pháp này để nhớ mà hành trì.
Trở
về tu viện Jetavana vào cuối xuân năm ấy. Bụt đã độ cho một tên sát
nhân nổi tiếng tên là Angulumala. Một buổi sáng đi
vào thành Savatthi khất thực, Bụt có cảm tưởng đây là một
thành phố chết. Ngoài đường không có bóng người qua lại. Hai bên đường không có
nhà nào mở cửa. Đứng hồi lâu trước một căn nhà, nơi đó Người đã từng
được cúng dường, Bụt thấy cửa nhà hé mở, người gia chủ chạy
ra mời Bụt vào. Vào tới nhà, người gia chủ khép cửa và cài then lại.
Người ấy mời Bụt ngồi, và đề nghị với Bụt ở lại thọ trai, đừng nên đi khất
thực nữa:
-
Bạch sa môn, đi ra đường hôm nay nguy hiểm lắm. Người ta cho
biết tên sát nhân Angulimala đã xuất hiện trong thành phố. Nghe
nói nó đã hạ sát rất nhiều người ở nhiều thành phố, và sau khi hạ sát, nó lại
còn chặt ngón tay của người ta để xâu thành một tràng chuỗi và đeo vào cổ. Cũng vì
vậy cho nên người ta đã đặt cho nó cái tên Angulimala. Con nghe
đồn rằng nếu Angulimala giết được đủ một trăm người và có được một trăm
lóng tay đeo vào cổ thì nó sẽ thành tựu được một quyền
lực bùa chú ghê gớm lắm. Có một điều lạ là nó giết người mà không cướp
giật của cải của bất cứ ai. Con nghe nói là vua Pasenadi đã cho điều
động quan quân vây bắt và truy nã nó.
Bụt
hỏi:
-
Tại sao chỉ có một tên sát nhân mà chính quyền phải huy động cả quân binh như
thế?
-
Bạch sa môn Gotama, tên sát nhân này ghê gớm lắm. Võ nghệ nó rất cao
cường, có khi ba bốn người đàn ông gặp nó giữa đường cũng không đủ
sức đối địch lại nó. Một số bị nó hạ sát và số còn lại phải bỏ
chạy tán loạn. Angulimala thường trú ẩn trong rừng Jalini. Lâu nay không
ai dám đi qua rừng này. Có lần một toán quân lính địa phương có trang bị mủ
giáp gươm giáo đã đi vào rừng để lùng bắt Angulimala. Toán này
có đến hai mươi người. Trong số đó chỉ có hai người sống sót trở về.
Cũng vì vậy khi nghe tin nó xuất hiện trong thành
phố, dân chúng đều kinh hoàng. Không ai buôn bán làm ăn gì được.
Bụt
cám ơn vị gia chủ đã cho người biết về Angulimala và từ giã ra đi.
Người này có ngăn cản Bụt nhưng không được. Bụt nói Người
phải thực hành phép trì bát khất thực như mọi hôm, để
giữ vững niềm tin của mọi người.
Đang đi
thong thả trong chánh niệm, Bụt bỗng nghe tiếng chân một
người chạy đuổi theo ở phía sau. Bụt biết đó là Angulimala đang chạy
theo mình, nhưng Bụt không hốt hoảng. Người vẫn đi từng bước chậm
rãi, an nhiên, ý thức được chuyện gì đang xảy ra trong tâm ý và
trong hoàn cảnh của mình. Người nghe tiếng của Angulimala gọi Người
từ phía sau lưng vọng tới:
-
Ông sa môn! Dừng lại!
Bụt
không đứng lại. Bụt vẫn chậm rãi đi. Tiếng bước chân của Angulimala cho Bụt
biết là Angulimala đã ngừng chạy mà chỉ còn rảo bước theo Bụt. Tuy đã
năm mươi sáu tuổi nhưng thính giác và thị giác Bụt còn nhạy
bén lắm và sức khỏe của Bụt vẫn tốt. Trong tay Bụt chỉ có một
chiếc bình bát mà thôi. Người mỉm cười nhớ lại ngày
xưa trong các võ đường, khi còn là thái tử, người là võ sinh nhanh
nhẹn nhất, và chưa ai chạm được vào Người. Bụt biết Angulimala đã đuổi kịp Người,
và Angulimala thế nào cũng có cầm khí giới, nhưng Người vẫn ung
dung bước.
Angulimala
đã bắt kịp Bụt và hiện đang đi ngang hàng với Bụt. Bụt nghe anh ta
nói:
-
Ta đã bảo ông dừng lại, tại sao ông cứ tiếp tục đi mà không chịu
dừng?
Bụt
vừa đi vừa đáp:
-
Angulimala, ta đã dừng lại từ lâu rồi, chỉ có anh mới chưa chịu dừng lại mà
thôi.
Angulimala,
giật mình. Angulimala nín thinh không nói thêm gì được bởi vì anh ta
quá ngạc nhiên. Ông sa môn này nói cái gì lạ thế. Ông ta đã dừng
lại đâu nào. Rõ ràng là chân ông ta vẫn còn bước đi, vậy
mà ông ta lại nói rằng ông ta đã dừng lại. Ta phải hỏi cho ra mới được.
Nghĩ như vậy, Angulimala chạy vượt tới phía trước, đứng chặn đường đi
của Bụt. Bụt dừng bước. Người đưa mắt nhìn Angulimala. Mắt Ngài chiếu
sáng như những ngôi sao. Angulimala chưa bao giờ thấy ai trầm
tĩnh như thế, uy nghiêm như thế và thản nhiên đến
thế. Thường thường ai gặp Angulimala thì nếu không sợ
hãi bỏ chạy cũng mất đi ít nhiều bình tĩnh. Vậy mà ông thầy
tu này lại xem mình như một kẻ không ra gì. Hoặc giả ông ta
chưa biết mình là ai cho nên ông ta không biết sợ chăng? Không đúng,
bởi vì ông ta đã gọi ngay tên Angulimala khi trả lời câu hỏi của mình. Vậy
thì ông ta biết mình là ai rồi. Biết mình là một tên
sát nhân ghê gớm, vậy mà vẫn giữ được sự điềm đạm, ung
dung không hề tỏ một vẻ gì sợ hãi, lại còn nhìn mình bằng một con
mắt thật hiền hòa. Angulimala cảm thấy mình không đối
đầu được cái nhìn của Bụt. Anh ta cất tiếng hỏi:
- Sa
môn, hồi nãy ông nói ông đã dừng lại rồi, trong khi chân ông vẫn
bước, điều đó có nghĩa là sao? Ông lại nói rằng tôi chưa chịu dừng lại, điều
này có nghĩa là gì? Ông nói cho tôi nghe.
Bụt
bảo:
-
Angulimala, những hành động có thể gây đau khổ cho các
loài chúng sanh, ta đã dừng lại, và dừng lại tự lâu rồi. Ta đã học được
hạnh bảo vệ sự sống, không những bảo vệ sự sống của con
người mà còn của tất cả các loài sinh vật. Angulimala, trong các loài sinh
vật, kể cả loài người, loài nào cũng muốn sống, sợ chết; vì
vậy ta phải có lòng thương yêu, đem tình thương ấy mà bảo
vệ sự sống của muôn loài.
Angulimal
la lớn như hét vào tai Bụt:
-
Nhưng loài người có ai thương ta đâu, tại sao ta phải thương loài
người? Loài người là một loài độc ác, gian trá, phản bội,
ta muốn tiêu diệt cho hết mới thỏa được niềm uất hận của
ta.
Bụt dịu
dàng:
-
Angulimala, ta biết rằng anh đã từng khổ đau, và ta biết những kẻ đã làm khổ
anh là những con người. Angulimala, con người quả có khi rất
là độc ác. Ác độc vì si mê, vì hận thù, vì tham
dục, vì ganh tị, nhưng con người lại có khi rất hiểu biết và
rất từ bi. Anh đã từng gặp một vị khất sĩ nào chưa? Vị khất
sĩ nào cũng đã phát nguyện bảo vệ sự sống cho mọi
người và mọi loài, vị khất sĩ nào cũng đã phát
nguyện diệt trừ tham dục, hận thù và si mê. Ta biết có
nhiều người không phải là khất sĩ, nhưng vẫn sống theo nếp
sống hiểu biết và thương yêu đó. Angulimala! Anh đừng giữ
mãi những suy nghĩ như thế, ở đời có người ác, nhưng cũng có người
hiền. Đạo lý của ta có công năng chuyển hóa kẻ ác thành
kẻ hiền. Hận thù là con đường nguy hiểm nên tránh. Anh đang
đi trên con đường nguy hiểm ấy. Nên dừng lại đi thôi. Hãy
chọn con đường của tha thứ, của hiểu biết và
của tình thương yêu mà đi.
Angulimala
bị thu hút trong giọng nói trầm ấm mà đầy tình thương của vị sa môn. Gan
ruột anh như bị ai xé nát và xát muối vào. Tuy nhiên, đây
là lần đầu tiên mà anh cảm thấy ấm áp trong lòng khi nghe được một
lời nói chân thành và dịu dàng như thế. Người đang đứng trước mặt anh
thật sự là vì thương anh mà nói. Nơi con người này quả không
có hận thù, quả không có sợ hãi, không có sự khinh ghét. Người này đã
có thể nhìn thấu tâm can mình, và xem mình như nhìn một con người. Hay
chính người này là sa môn Gotama, là người mà thiên
hạ đã ca tụng và tôn xưng là Bụt? Chắc là đúng như vậy rồi. Chắc
là hôm nay mình gặp người ấy rồi. Angulimala hỏi:
-
Thầy có phải là sa môn Gotama đó không?
Bụt gật
đầu.
Angulimala
cúi mặt nói:
-
Rất tiếc, tôi đã gặp thầy quá muộn. Tôi đã đi quá xa trên con
đường này rồi, bây giờ có muốn dừng lại cũng không được.
Bụt
bảo:
-
Đừng nói thế, Angulimala, làm một việc lành thì không bao giờ là muộn
cả.
- Việc
lành gì đâu nào?
-
Dừng lại trên con đường hận thù và bạo lực nguy hiểm là việc
lành lớn nhất trên tất cả các việc lành. Angulimala! Biển khổ
tuy mông mênh, nhưng quay đầu lại là tự khắc thấy được bờ.
- Sa
môn Gotama! Bây giờ tôi có muốn quay đầu về cũng không còn kịp nữa. Người
ta sẽ không để cho tôi yên.
Bụt
đưa tay ra nắm lấy tay Angulimala. Người nói:
-
Angulimala, ta sẽ bảo vệ cho anh, nếu anh phát nguyện cải
tà quy chánh và từ nay siêng năng học đạo, sám hối lỗi
lầm và bắt đầu làm những công việc phục vụ cho người. Ta thấy
anh là kẻ thông minh, anh đã hiểu được điều ta muốn nói. Thế nào anh
cũng thành công trong bước đường hướng thiện.
Angulimala
quỳ xuống trước mặt Bụt. Anh buông lưỡi dao to bản xuống đất, rồi anh
sụp lạy sát đất dưới chân Bụt, ôm mặt mà khóc nức nở. Một hồi lâu,
anh nói:
-
Con xin nguyện từ đây hối cải, bỏ ác làm lành, quyết tâm theo Bụt
để học hạnh từ bi. Cúi xin Bụt chấp nhận con làm đệ
tử của Người.
Vừa
lúc ấy, các đại đức Sariputta, Ananda, Upali, Kimbila và nhiều
vị khất sĩ khác xuất hiện. Họ bao vây quanh Bụt và Angulimala.
Thấy Bụt an lành và Angulimala đã quy y với Người, mọi
người đều lấy làm mừng rỡ. Bụt dạy Ananda:
-
Ananda, hãy đưa cho ta một bộ y áo. Upali, đại đức hãy làm lễ xuống
tóc cho Angulimala ngay tại đây. Sariputta thầy hãy ghé vào nhà trước
mặt mượn con dao cạo tóc.
Ngay
tại chỗ, Angulimala được làm lễ thế phát, đọc ba lời quay
về nương tựa Tam Bảo, tiếp nhận các giới
pháp do đại đức Upali trao truyền. Lễ thế phát cử
hành xong, mọi người lập tức theo Bụt trở về tu
viện Jetavana.
Trong
mười hôm liên tiếp, Angulimala được đại đức Upali hướng dẫn
về giới luật và đại đức Sariputta chỉ dạy về giáo
lý và những phép thiền tọa, khất thực, thiền hành. Angulimala
nổ lực học hỏi và thực tập. Nửa tháng sau, khi đến thăm
Angulimala tại tăng xá, Bụt cũng phải ngạc nhiên. Angulimala đã hoàn
toàn lột xác. Bây giờ đây Angulimala đã trở nên một vị khất
sĩ có dung mạo rất uy nghi và đẹp đẽ. Bây giờ
trong tu viện ai cũng gọi Angulimala là đại đức Ahimsaka.
Cái tên Ahimsaka này vốn là tên thật của Angulimala ngày trước, có
nghĩa là bất bạo động hay vô hại. Svastika nghĩ rằng danh
hiệu này rất hợp với vị đại đức mới, bởi vì theo Svastika ngoài
Bụt không ai có vẻ hiền lành như thầy Ahimsaka bây giờ.
Sáng
hôm sau, Bụt đi vào thành Savatthi khất thực với khoảng năm
mươi vị khất sĩ, trong đó có đại đức Ahimsaka. Vừa đến cửa
thành, Bụt gặp vua Pasenadi và các tướng lĩnh đang điều động quân đội. Quốc
vương cũng đang mặc quân phục như các vị chỉ huy quân đội khác,
lưng đeo trường kiếm, ngồi trên lưng ngựa. Thấy Bụt, vua xuống ngựa, tiến đến
vái chào, Bụt hỏi:
-
Đại vương! Có biến cố gì mà đại vương và các vị tướng soái
phải điều động quân đội như thế?
Vua
đáp:
-
Thế Tôn! Trẫm điều động quân đội là để vây bắt tên sát nhân Angulimala. Tên giết
người này ghê gớm lắm. Chưa có một lực lượng nào đã có thể vây bắt
và trừng trị được nó. Trẫm được báo cáo là Angulimala
đã xuất hiện tại thủ đô Savatthi từ hơn nửa tháng nay. Dân chúng thủ
đô đang mất tinh thần mà các lực lượng quan quân vẫn chưa tìm
ra được nó.
Bụt
hỏi:
-
Tên sát nhân Angulimala lợi hại đến thế sao?
Vua
đáp:
- Thế
Tôn chưa biết, chứ Angulimala là một mối họa lớn cho mọi
người. Trẫm phải tìm đủ cách để bắt giết cho được nó. Angulimala là một tên sát
nhân vô cùng nguy hiểm.
Bụt
hỏi:
-
Nhưng thí dụ tên sát nhân đó đã cải tà quy chánh, phát
nguyện suốt đời giữ giới không sát sinh, sống đời tu
sĩ xuất gia đạm bạc, tôn trọng sự sống của muôn người và của mọi
loài chúng sanh khác, thì bệ hạ có cần tìm bắt giết nó nữa không?
-
Thưa Thế Tôn! Nếu Angulimala mà quy chánh theo Bụt xuất gia, giữ
giới bất sát, sống đời phạm hạnh thanh cao như các vị khất
sĩ ở đây thì trẫm vui mừng xiết bao! Không những trẫm đã không
bắt giết mà còn tới đảnh lễ và cúng dường y áo, thực
phẩm và thuốc men cho y, như trẫm đã từng cúng
dường Thế Tôn và các vị đại đức ở tu
viện Jetavana vậy, nhưng chuyện này chắc chẳng bao giờ xảy ra đâu, bạch
Thế Tôn!
Bụt
đưa tay chỉ vào đại đức Ahimsaka đứng sát sau lưng Người và nói với
vua:
- Đại
vương, đây là Angulimala đã được trao truyền giới pháp xuất
gia và đã trở thành một vị khất sĩ sống đời phạm
hạnh từ nửa tháng nay.
Quốc
vương Pasenadi giật mình, sợ dựng tóc gáy. Bụt nói:
- Đại
vương đừng sợ, khất sĩ Angulimala bây giờ hiền hơn cục đất. Bây
giờ mọi người gọi vị khất sĩ này là đại
đức Ahimsaka.
Vua
nhìn đại đức Ahimsaka ngần ngại trong một lúc, và từ từ tiến
tới trước mặt đại đức. Vua chắp tay xá thầy. Vua hỏi:
-
Bạch đại đức, ngài xuất thân từ gia đình nào? Thân
phụ ngài tên gì?
-
Tâu đại vương, thân phụ tôi tên là Gagga, thân mẫu tôi
tên là Mantan!
-
Xin đại đức Gagga Mantanniputta nhận nơi đây niềm thành
kính của trẫm và xin đại đức cho phép trẫm cúng
dường ngài y áo, thực phẩm và thuốc men.
Đại
đức Ahimsaka đáp lễ:
-
Tâu đại vương, tôi đã có đủ ba y áo; thực phẩm thì mỗi ngày đều
có thí chủ cúng dường trong giờ đi khất thực, còn thuốc men
thì hiện giờ tôi không cần đến, xin tạ ơn đại vương.
Vua
cúi đầu chào đại đức một lần nữa rồi trở về đứng trước
mặt Bụt. Vua làm lễ Bụt và nói:
- Bạch
đức Thế Tôn, đạo hạnh của Người thật là mầu nhiệm. Thế
Tôn đã dập tắt được ngọn lửa rất khó dập tắt, an
ổn được những gì rất khó an ổn, điều phục được những gì rất
khó điều phục. Những gì không giải quyết được bằng binh quyền và
bạo lực. Thế Tôn đã giải quyết được bằng đức
độ của Người. Trẫm xin ghi nhớ ơn đức Thế Tôn, bây giờ trẫm xin
từ giã.
Vua
từ giã Bụt và các vị khất sĩ. Ngay sáng hôm đó, mọi người đều cảm thấy
niềm an vui len lỏi trong tâm hồn mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét