Thích Nhất Hạnh
Chương 46
Nắm lá Simsapa.
Các tu viện như tu viện Trúc Lâm (Venuvana) ở Rajagaha, tu viện Trùng Các (Kutagarasala) ở Vesali và tu viện Kỳ Đà Cấp Cô Độc (Jetavana) ở Savathi đã trở thành ba trung tâm hành đạo và hoằng pháp lớn của giáo đoàn khất sĩ. Các vị khất sĩ đã tạo lập những trung tâm tu học khác rải rác trong các vương quốc Magadha, Kosala và những vương quốc nhỏ kế cận. Hình bóng những vị khất sĩ áo vàng dáng đi khoan thai và tĩnh lặng xuất hiện mọi nơi. Đạo lý tỉnh thức đã được truyền bá đi khắp chốn chỉ sau sáu năm hành đạo của Bụt. Mùa an cư thứ sáu, Bụt cư trú trên núi Makula. Mùa an cư thứ bảy Người ẩn cư một mình ở núi Samkasya, mãi trên vùng thượng lưu sông Ganga.
Mùa
an cư thứ tám, Người cư trú tại Sumsumaragira ở xứ Bhagga và vào mùa
an cư thứ chín Người về cư trú tại Kosambi. Kosambi là một thị trấn thuộc
vương quốc Vamsa nằm trên tả ngạn sông Jamuna, nơi đây đã có một trung
tâm tu học quan trọng. Tu viện nằm trong một khu vườn ở rừng
Lớn gọi là Ghosira. Vào mùa an cư thứ chín này, các đại đệ tử như
Mahakassapa, Mahamoggallana, Sariputta và Mahakaccana không có mặt bên Bụt
ở tu viện Ghosira tại Kosambi, nhưng thầy Ananda vẫn được kề cận Bụt.
Chú Rahula cũng không có mặt, vì chú phải theo học với thầy Sariputta. Các khu
rừng quanh tu viện đầy những cây Simsapa, và Bụt ưa tĩnh
tọa trong rừng vào những buổi trưa hè khi trời nắng gắt. Một buổi
chiều từ rừng về, Bụt cầm trong tay một nắm lá Simsapa. Người đưa nắm
lá lên và hỏi các vị khất sĩ có mặt:
-
Này các vị khất sĩ! Các vị xem nắm lá trong tay tôi nhiều hay lá trong rừng
nhiều?
Các
vị khất sĩ đáp:
-
Lá trong tay Bụt thì ít mà lá trong rừng thì nhiều.
Bụt
nói:
-
Cũng như thế đó, các vị khất sĩ! Những điều tôi biết do sự thực
chứng thì nhiều, nhưng những điều tôi đem ra dạy quý vị thì ít. Tại sao
thế? Tôi chỉ muốn trình bày cho quý vị những gì thực sự có ích
lợi cho công trình tu tập của quý vị mà thôi ...
Bụt
nói như thế, vì độ ấy trong giới các vị khất sĩ có nhiều người có
khuynh hướng muốn quan tâm vào những vấn đề siêu hình (hay
còn gọi là chứng đạt thần thông) không thiết thực mấy đối với
sự tu học. Mấy tháng trước ở Savathi, Bụt đã khuyên thầy Malunkyaputta về
việc không nên để tâm trí vướng bận vào những vấn đề không
thiết yếu cho sự tu học giác ngộ và giải thoát. Thầy Malunkyaputta lúc
đó thường hay hỏi Bụt những câu hỏi thuộc phạm vi siêu
hình, nhưng Bụt từ chối không trả lời. Ví dụ thầy hỏi: Vũ
trụ này là hữu biên hay vô biên? Hữu hạn hay vô hạn? Một hôm,
thầy không chịu đựng sự im lặng của Bụt được nữa.
Thầy quyết định đi gặp Bụt để ép Bụt phải trả lời những câu
hỏi của thầy. Thầy tự bảo là lần này nếu Bụt từ chối thì thầy sẽ xin
xả giới không tu theo Người nữa. Thầy đi gặp Bụt và nói:
-
Nếu Thế Tôn chịu trả lời những câu hỏi của con thì con sẽ
nguyện tiếp tục theo học với Người. Nếu không, con sẽ
xin từ bỏ giáo đoàn khất sĩ. Nếu quả thật Người có trí
tuệ hiểu biết về tất cả, về vũ trụ là hữu biên hay vô
biên, thì xin Người cứ nói ra, còn nếu không biết thì Người cứ nói
thẳng là không biết.
Bụt
nhìn thầy Malunkyaputta:
-
Hồi thầy xin đi xuất gia, tôi có hứa với thầy là sẽ giảng
giải cho thầy về những câu hỏi như thế không? Tôi có bao giờ nói: “Này
Malunkyaputta, anh cứ xuất gia đi, rồi tôi sẽ dạy cho anh về
những vấn đề siêu hình” không?
-
Bạch Thế Tôn , không.
-
Vậy sao bây giờ thầy lại đặt điều kiện với tôi? Này Malunkyaputta! Ví
như có một người nọ bị trúng một mũi tên có tẩm thuốc độc. Gia đình
người đó mời ông thầy thuốc tới để nhổ mũi tên ra, bôi thuốc vào và cho
uống thuốc giải độc. Nhưng người bị trúng tên không cho ông thầy thuốc
đụng vào vết thương của mình. Người ấy nói: “Khoan đã, trước khi chữa trị, tôi muốn biết ai
là kẻ đã bắn mũi tên này, tên họ người đó là gì, mấy tuổi, ở đâu, làm nghề
nghiệp gì, thuộc giai cấp nào, vì cớ sao mà bắn tôi. Tôi cũng muốn
biết loại cung bắn này là loại cung nào và chất độc nó dùng là thứ chất độc gì,
thuốc độc đó lấy từ đâu”. Malunkyaputta, người bị thương sẽ chết
trước khi anh ta tìm hiểu được hết những điều đó. Người đi xuất
gia cũng vậy, những điều mà người xuất gia phải biết và phải
hành là những điều căn bản mà tôi đã và đang dạy các thầy, những điều
không có ích lợi thực tế cho sự tu học và hành
trì để đi đến giải thoát thì tôi không muốn nói tới.
Này
Malunkyaputta, thầy phải biết điều này: dù vũ
trụ là hữu biên hay vô biên, hữu hạn hay vô hạn, dù mọi thứ
hiểu biết thầy đều có thể thực chứng bằng tu tập thì thầy cũng phải công
nhận điều này: có những đau khổ trong cuộc đời,
những đau khổ đó có nguyên do và ta có thể quán
chiếu các nguyên do ấy mà thấu hiểu và tìm cách làm
cho cuộc đời bớt khổ, đừng để mọi thứ trói buộc ta vào phiền não khi
cố tìm hiểu những điều không lợi ích cho giải thoát đau khổ ở thế gian. Những
điều tôi dạy quý thầy có thể giúp quý thầy đạt tới sự buông bỏ, vô
dục, thanh tịnh và giải thoát, còn những điều không thiết
thực cho việc tu học thì tôi từ chối không nói tới.
Đại
đức Malunkyaputta nghe Bụt nói rất lấy làm hối hận. Thầy đã
xin sám hối Bụt về việc đã dám ra điều kiện với Người.
Bụt
thường khuyến khích các vị khất sĩ gia công tu học và tránh
những cuộc luận đàm có tính cách lý thuyết suông.
Người gọi những lý thuyết suông không ích lợi gì cho
sự tu học ấy là hý luận. Trong số các thầy ở Kosambi, có những
thầy rất ưa hý luận và cũng vì lẽ ấy Bụt đã đem tặng cho
họ một nắm lá Simsapa.
Tại
Kosambi, có một thí chủ lớn tên là Ghostra. Vị thí chủ này
đã cúng dường rừng cây của mình để làm tu
viện cho tăng đoàn, gọi là tu viện Ghostra. Ngoài
ra ông còn bảo trợ thành lập thêm hai trung tâm tu
học cho các vị khất sĩ nữa: đó là tu viện Kukuta
và tu viện Pavarikambavana. Tu viện thứ tư trong vùng
là tu viện Badarika.
Quốc
vương Udayana không có cảm tình nhiều với Bụt, nhưng thái
tử Bodhi trị vì xứ Bhanga lại là một người sùng kính Bụt đúng
mức. Tại xứ Bhanga Bụt và giáo đoàn đã từng được thái
tử Bhhodi đón tiếp rất nồng hậu.
Tại
Kosambi, cũng như tại các trung tâm tu học khác, có một số các
vị kinh sư, nghĩa là những thầy chuyên về giảng dạy và ôn lại các lời Bụt
dạy. Những lời Bụt dạy trong gần mười năm qua được ôn lại dưới
những đề mục gọi là sutra, đều được các vị thầy đệ tử lớn của
Bụt hướng dẫn và được ôn lại mỗi nửa tháng. (Sutra gọi là kinh, ví dụ
kinh Chuyển Pháp Luân là bài giải đầu tiên mà Bụt nói tại vườn
Nai phía Bắc thành phố Baranasi cho năm vị khất sĩ đầu. Các kinh
như kinh Vô Ngã Tướng, kinh Nhân Duyên, kinh Bát Chánh Đạo ... về
sau được tập kết lại). Ngoài các
vị kinh sư còn có các vị luật sư, chuyên lo hành trì về giới
luật. Người tập sự xuất gia thì có giới luật của
người xuất gia. Những người chưa đến tuổi hai mươi như chú Rahula thì chưa
được thọ giới khất sĩ, mà chỉ được thọ giới sa di.
Năm
ấy ở Kosambi đã xảy ra một vụ tranh chấp giữa hai vị khất sĩ lớn
tại tu viện Ghostra. Nguyên do vụ tranh chấp thật
là bé nhỏ nhưng vì lòng tự ái của một số các thầy khất
sĩ mà vụ tranh chấp đã gây nên chia rẽ trầm trọng trong tăng
chúng. Vị khất sĩ này vì vô ý đã không đổ nước bẩn trong
chậu sau khi sử dụng. Vị khất sĩ kia cho đó là phạm luật.
Vị khất sĩ vô ý này nghĩ là vì không cố tình cho nên mình không
có lỗi. Nguyên do vụ tranh chấp chỉ có thế, nhưng đệ
tử của hai vị ai cũng bênh vực thầy mình và nói bên đối phương là sai
lầm. Cuộc tranh chấp vì thế mà leo thang. Bên này bắt đầu nói bên kia
là vu khống. Bên kia bắt đầu nói bên này là vọng ngữ. Tình
trạng trở nên căng thẳng. Hai bên nói qua nói lại. Những lời qua lại
này cũng tai hại như những mũi tên độc. Các vị khất sĩ chia
thành hai phe. Cũng may là có một số các vị khất sĩ không
chịu theo phe nào. Họ than thở với nhau: “Chết mất, chết
mất! thế nào cũng có chia rẽ trầm trọng trong giáo đoàn".
Một
số các vị khất sĩ đi tìm Bụt và bạch lại với Người sự
tình của tăng chúng, và cầu Bụt can thiệp. Người nói với mọi
người:
- Chúng
ta không nên quá tin ở quan điểm riêng của mình. Chúng
ta phải lắng nghe và tìm hiểu quan điểm của người bên
kia. Chúng ta phải làm mọi cách để tránh sự chia rẽ trong đại
chúng.
Nội
vụ được truyền tới tai giới đệ tử tại gia và chẳng bao lâu
các giáo phái bên ngoài cũng đều biết tới. Uy tín của giáo
đoàn khất sĩ bị thương tổn nặng. Đại đức Nagita thị
giả của Bụt thấy thế, không chịu nổi nửa. Thầy lại bạch lên Bụt
và cầu cứu Bụt tới can thiệp.
Lúc
ấy, Bụt khoác áo và đi đến thính đường của tu viện. Người bảo đại
đức Nagita thỉnh chuông triệu tập đại chúng. Khi mọi
người đã tụ họp đầy đủ, Bụt nói:
-
Này các vị khất sĩ, xin các thầy hãy chấm dứt việc tranh
chấp và cãi cọ. Xin quý thầy hãy chấm dứt tình trạng chia
rẽ trong nội bộ giáo đoàn. Xin trở về với sự tu học.
Nếu chúng ta tu học thật sự tinh tấn thì chúng
ta không còn là nạn nhân của sự tự ái, giận hờn và chia rẽ nữa.
Một
vị khất sĩ đứng lên cung kính:
- Bạch
Thế Tôn, xin Thế Tôn đứng ra ngoài vụ tranh chấp này. Xin Người
cứ an trú trong niềm vui tịnh lạc của thiền định. Đây không phải
là việc của Người. Chúng tôi đã lớn: chúng tôi có thể tự
mình giải quyết vụ này được, không để Người nhọc lòng.
Vị khất
sĩ nói xong, mọi người đều im lặng. Bụt cũng im lặng.
Một lát sau, Người đứng dậy, rời thính đường. Người trở về tịnh
xá lấy bình bát và áo, rồi một mình đi vào Kosambi
để khất thực. Khất thực xong, Người vào rừng một mình để
thọ trai. Thọ trai xong Người đi về phía bờ sông. Không ai được
phép đi theo Người, kể cả thầy thị giả, kể cả đại
đức Ananda.
Bụt
đi lần hồi tới thị trấn Balakalonakaragama. Tại đây Người gặp một
vị đệ tử là đại đức Bhagu. Thấy Bụt, đại
đức rất vui mừng, đại đức rước Bụt vào một cụm rừng, mời
Bụt ngồi rồi đi tìm nước và khăn cho Bụt rửa mặt và tay chân. Bụt hỏi
thăm về sự tu học của thầy Bhagu. Thầy nói thầy rất an
lạc ở đây, dù thầy ở có một mình. Bụt nói:
-
Ở một mình đôi khi cũng tốt.
Sau
khi giảng dạy thêm giáo lý và khích lệ đại đức Bhagu về
sự tu học, Bụt từ giã thầy để đi về phía công viên Đông Trúc cách đó không
xa. Bước vào công viên, Bụt bị người cai vườn ngăn lại, ông ta nói:
- Sa
môn, ông đừng đi vào trong công viên, sợ làm rộn các vị đang tu
hành trong ấy.
Bụt
trầm lặng một lúc thì từ trong công viên đại đức Anuruddha đi ra.
Thầy vái chào Bụt và nói người cai vườn:
-
Đó là thầy của chúng tôi đấy, xin ông cứ để cho Người vào.
Rồi đại
đức đưa Bụt vào phía trong công viên. Ở đây, Bụt gặp thêm hai vị khất
sĩ khác: đại đức Nandiya và đại đức Kimbila. Hai người
được gặp Bụt rất đỗi vui mừng. Thầy Nandiya nâng bát cho Bụt, còn thầy Kimbila
thì nâng áo sanghati của Người. Họ sắp chỗ ngồi cho Bụt bên một bụi tre vàng.
Họ đem nước và khăn tới cho Bụt rửa mặt và rửa chân. Rồi cả ba thầy chắp
tay làm lễ Bụt. Bụt bảo ba thầy ngồi xuống bên cạnh:
Người
hỏi:
-
Các thầy ở đây có được an tịnh không? Sự tu
học có thuận lợi không? Việc khất thực hành
hóa có dễ dàng không?
Thầy
Anuruddha đáp:
-
Bạch Thế Tôn, chúng con ở đây rất an ổn. Ở đây khung cảnh rất an
tịnh. Việc khất thực và hành hóa cũng dễ dàng. Chúng con
đã đạt được nhiều tiến bộ trong sự tu học.
Bụt
hỏi:
-
Các thầy có thương mến nhau và hòa hợp với nhau không?
-
Thưa Thế Tôn, chúng con rất thương mến nhau. Chúng con hòa
hợp với nhau một cách dễ dàng như nước với sữa. Riêng con, được sống
với hai huynh Kimbila, và Nandiya là một điều may mắn lớn cho đời
con. Con trân quý tình bằng hữu này lắm. Mỗi khi con nói hay con làm một điều
gì, dù là khi hai huynh không có mặt, con cũng nghĩ đến hai huynh. Con luôn
tỉnh thức để tự hỏi: nói như thế và làm như thế thì hai huynh có vừa
ý không? Nếu con có một chút nghi ngờ rằng lời
nói và việc làm ấy có thể làm cho hai vị phật ý là con nhất
định không nói và không làm. Thưa Thế Tôn, chúng con tuy là ba người
mà cũng như là một.
Bụt gật
đầu. Người nhìn hai thầy kia. Thầy Kimbila nói với Bụt:
-
Điều sư huynh Anuruddha nói đó là sự thật. Chúng con rất hòa
hợp với nhau và rất thương mến nhau.
Thầy
Nandiya nói:
-
Chúng con biết chia xẻ cho nhau đồng đều mọi thứ. Từ chỗ ăn
ngủ cho đến kiến thức và kinh nghiệm, chúng con đều sẵn
lòng chia xẻ cho nhau.
Bụt
khen:
-
Tốt lắm! Tôi rất hài lòng khi thấy các thầy hòa thuận với
nhau như vậy. Có sự hòa hợp đó, một đoàn thể tu
học mới thật sự là một đoàn thể tu học. Các thầy đã thật sự tỉnh
thức cho nên các thầy mới thực hiện được sự hòa
hợp đó.
Bụt
ở lại với ba thầy một tháng. Người nhận xét như sau:
Buổi
sáng sau giờ thiền tọa, ba thầy cùng đi khất thực một
lần. Khất thực xong, vị nào về trước thì đi sắp đặt chỗ
ngồi đi lấy nước uống, nước rửa và một cái chậu sạch để sẵn tại đó. Xong rồi vị
ấy mới đi rửa mặt, rửa chân, và ngồi xuống để quán niệm và thọ trai.
Trước khi thọ trai, vị ấy san bớt thức ăn trong bát vào chiếc chậu
sạch. Thức ăn này là để dành cho vị khất sĩ nào
không xin được đủ một phần ăn. Khi các vị kia về, thì nước rửa và nước uống đã
có sẵn. Họ không phải đi xách nước. Họ chỉ cần ngồi xuống rửa tay, rửa mặt và
rửa chân trước khi ngồi xuống thọ trai. Sau khi thọ trai và uống nước, cả ba
người cùng đi dọn dẹp. Nếu thức ăn trong chậu còn dư, họ đem đổ ở một
khoảng đất không có cây cỏ, hoặc đổ xuống nước nơi không có loài vật nào đang
sống. Họ cùng rửa và cùng úp các chậu lại. Ai thấy bình nước uống hết nước thì
đi lấy thêm. Ai thấy vại nước rửa lưng đi thì đi xách nước thêm. Ai thấy hố xí
bẩn thì đi dọn dẹp xử lý. Việc gì cần hai hoặc ba người mới làm nổi thì họ đâu
vai chung sức lại. Họ không cần bàn cãi gì hết về công việc
hàng ngày. Cứ mỗi năm ngày họ ngồi lại một lần để cùng học
hỏi giáo lý và trao đổi kinh nghiệm tu tập.
Trước
khi từ giã ba thầy, Bụt nói:
-
Các thầy, bản chất của một tăng đoàn (sangha) là
sự hòa hợp. Theo tôi, ta có thể minh chứng sự hòa hợp như sau:
Thứ
nhất là thân hòa đồng trú, nghĩa là cùng chia xẻ vói nhau
một trung tâm tu học, một khu rừng hay một mái nhà.
Thứ
hai là lợi hòa đồng quân, nghĩa là cùng chia xẻ với nhau đồng
đều về những phương tiện trong cuộc sống.
Thứ
ba là giới hòa đồng tu, nghĩa là cùng hành trì với nhau những
giới và những luật đã được truyền thọ và ban hành.
Thứ
tư là khẩu hòa vô tránh, nghĩa là chỉ sử dụng thứ ngôn
ngữ hòa hợp, tránh tất cả những lời nói có thể gây ra
sự xích mích và tranh cãi.
Thứ
năm là kiến hòa đồng giải, nghĩa là trao đổi và chia
xẻ những hiểu biết và những kiến thức với nhau, không che
dấu cái hiểu biết cho riêng mình, để cho mọi người cùng
được học hiểu.
Thứ
sáu là ý hòa đồng duyệt, nghĩa là các ý kiến khác nhau phải được
tổng hợp lại, và không ai có thể bắt buộc mọi người khác phải
làm theo ý kiến riêng của mình như thế để tạo nên sự vui
vẻ hòa hợp trong đoàn thể.
Các
vị khất sĩ! Từ nay về sau, chúng ta phải lấy sáu nguyên tắc hòa
hợp này mà sống với nhau hòa thuận trong giáo đoàn khất sĩ.
Ba
vị đại đức hoan hỷ tiếp nhận lời nhận của Bụt. Từ giã ba
thầy, Bụt lên đường. Bảy ngày sau, người tới Parileyyaka, Bụt đi
vào rừng Rakkhita, và tìm thấy một cây sala cành lá sum suê.
Người đặt y bát xuống và ngồi nghĩ dưới gốc cây đẹp
đẽ này. Bụt có ý định muốn ở lại một mình tại đây
trong mùa an cư sắp tới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét