19 thg 2, 2021

ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG (Phần 9 - Chương 51)

Thích Nhất Hạnh

Chương 51

Kho tàng của cái thấy.

Sau mùa an cư, Bụt lên đường, hướng về Savatthi. Svastika và Rahula được phép tùy tùng Người. Đây là lần đầu tiên Svastika được đến tu viện Jetavana. Tu viện rất đẹp và đầy đủ mọi tiện nghi cho sự tu học. Khung cảnh đã tươi mát mà không khí lại đầm ấm. Thấy Svastika, thầy nào cũng mỉm cười. Ai cũng biết là do vị khất sĩ trẻ này mà Bụt đã nói pháp Chăn trâu. Svastika nhận thấy rằng, trong một hoàn cảnh thuận tiện cho sự tu học như thế này chắc chắn chú sẽ đạt được nhiều tiến bộ. Chú hiểu tại sao Tăng cũng quan trọng như Bụt và Pháp. Tăng là đoàn thể của những người cùng đi trên con đường tỉnh thức, và ta phải tìm về nương tựa Tăng để được nâng đỡ và hướng dẫn. Cũng như ta đã tìm về nương tựa Bụt và Pháp.

Năm nay, vị sa di Rahula được hai mươi tuổi. Chú được đại đức Sariputta làm lễ thọ giới khất sĩ. Cả tu viện đều vui mừng. Đại đức đã dạy chú thật chu đáo nhiều ngày trước khi chú thọ giới. Svastika cũng được hân hạnh tham dự nghe những lời giáo huấn này.

Sau khi Rahula được thọ giới khất sĩ. Bụt đã để thì giờ đặc biệt dạy cho chú về cách công phu thiền quán, Svastika cũng được dự thính các buổi dạy. Bụt dạy Rahula quán chiếu về sáu giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, với sáu đối tượng của giác quan là hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị giác, xúc chạm và ý niệm, và về sáu thức là cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc chạm và ý thức. Người dạy Rahula quán chiếu về tự tính vô thường của mười tám hiện tượng đó mà Người gọi là thập bát giới. Mười tám hiện tượng gồm có sáu căn, sáu trần và sáu thức. Căn tức là cơ quan cảm giác, trần là đối tượng của các cơ quan đó, và thức là những nhận thức phát sinh ra từ sự xúc chạm giữa căn và trần. Phép quán này gọi là giới phân biệt quán. Bụt dạy quán chiếu căn, trần và thức để thấy tất cả các hiện tượng này đều nương vào nhau mà có mặt, để thấy được tự tính vô thường và duyên sinh của chúng. Một khi đã thấy như thế thì đại chúng chứng đắc được tính cách vô ngã và thoát ly được sinh tử. Bụt dạy thầy khất sĩ trẻ Rahula thật kỹ lưỡng về đạo lý vô ngã. Bụt nói:

- Này Rahula, trong năm uẩn là thân thể, cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức, không có gì trường tồn bất biến để có thể gọi là ngã. Thân thể này không phải là ngã. Thân thể này cũng không phải là ngã sở, nghĩa là vật sỡ hữu của ngã. Ngã không nằm trong thân thể, thân thể cũng không nằm trong ngã.

Có ba loại kiến chấp về ngã. Kiến chấp đầu là cho rằng thân thể này là ngã. Hoặc cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức này là ngã. Kiến chấp này gọi là ngã chấp. Khi nói tới thân thể này không phải là ngã, người ta có thể rơi vào kiến chấp thứ hai, cho rằng ngã là một cái gì riêng biệt với thân thể, và thân thể chỉ là một vật sở hữu của cái ngã riêng đó (thường hay được ví như là linh hồn). Kiến chấp thứ hai này gọi là dị ngã chấp. Kiến chấp thứ ba cho rằng trong thân thể có ngã và trong ngã có thân thể, tuy hai mà một tuy một mà hai, cái này nằm trong cái kia. Kiến chấp này gọi là tương tại chấp.

Rahula, quán vô ngã là phải nhìn thật sâu vào năm uẩn để thấy năm uẩn không phải là ngã, không phải là dị ngã, cũng không phải là tương tại. Vượt được ba kiến chấp này rồi mới thực sự chứng nghiệm được tự tính vô ngã của vạn pháp.

Tại tu viện Cấp Cô Độc này có một thầy tên là Thera. Svastika nhận xét rằng thầy này ít khi nói chuyện với ai, và đi đâu cũng đi một mình, làm gì cũng làm một mình. Đại đức Thera không làm phật lòng ai, cũng không phạm vào giới điều nào, nhưng thầy sống có vẻ xa cách và không thật sự hòa đồng với đại chúng. Svastika đã có lần tới gần thầy để gợi chuyện nhưng thầy cũng tránh đi. Mọi người đặt tên cho thầy là “người ưa sống cô độc”. Svastika biết rằng Bụt thường khuyến khích các thầy tránh tụ họp chuyện trò hý luận, nhàn đàm vô ích để có thì giờ sống một mình mà thiền quán, nhưng chú cảm thấy cách sống của thầy Thera không thật sự là cách sống mà Bụt muốn. Một buổi chiều, nhân cơ hội, Svastika đem chuyện này trình bày lên Bụt.

Ngày hôm sau, trong giờ pháp thoại, Bụt thuyết giảng:

- Này các vị khất sĩ, tôi muốn dạy cho các vị thế nào là thật sự biết sống một mình.

Người thật sự biết sống một mình là người biết an trú trong chánh niệm. Người ấy ý thức được những gì đang xảy ra trong cơ thể, trong cảm giác, trong hành động, trong tâm ý và nơi những đối tượng của tâm ý. Người ấy biết quán chiếu sự sống trong giờ phút hiện tại, không tìm về quá khứ, không tưởng tới tương lai, vì quá khứ thì đã qua mà tương lai thì chưa tới. Sự sống chỉ có mặt trong giờ phút hiện tại. Nếu ta không tỉnh thức để sống trong giờ phút hiện tại, ta sẽ đánh mất sự sống.

Này các vị, thế nào là tìm về quá khứ? Tìm về quá khứ ở đây có nghĩa là tự đánh mất chính mình trong quá khứ, trôi dạt về quá khứ trên những đợt sóng tư duy: trong quá khứ hình thể ta từng như thế đó, cảm thọ ta từng như thế đó, địa vị ta từng như thế đó, hạnh phúc ta từng như thế đó, hạnh phúc ta từng như thế đó... Phát khởi lên những tư duy như thế và bị ràng buộc vào những gì thuộc về quá khứ, đó là tìm về quá khứ.

Này các vị, thế nào là tưởng tới tương lai? Tưởng tới tương lai ở đây có nghĩa là tự đánh mất chính mình ở tương lai, trôi dạt tới tương lai, trên những đợt sóng tư duy, lo sợ hoặc mơ tưởng: trong tương lai, hình thể ta sẽ được hay sẽ bị như thế đó, cảm thọ ta sẽ được hay bị như thế đó, hạnh phúc ta sẽ được hay sẽ bị như thế đó, khổ đau ta sẽ bị như thế đó, sự nghiệp địa vị ta sẽ được hay sẽ bị như thế đó ... Phát khởi lên những tư duy như thế và bị ràng buộc bởi những ước mơ hoặc lo sợ về tương lai ... đó là tưởng tới tương lai.

Này các vị, trở về giây phút hiện tại là để tiếp xúc đúng với thực tại của sự sống và để quán chiếu sự sống. Nếu không tiếp xúc đúng với thực tại thì không thể quán chiếu. Chánh niệm giúp ta trở về hiện tại, tiếp xúc với hiện tại và quán chiếu sự sống trong hiện tại. Trở về hiện tại không có nghĩa là tự đánh mất mình trong những đam mê hoặc sầu khổ về hiện tại. Nếu bị ràng buộc bởi những đam mê và sầu khổ về những gì đang xảy ra trong hiện tại thì sự sống cũng không có mặt. Sự sống không có mặt vì chánh niệm không có mặt.

Này các vị khất sĩ, người biết sống một mình là người biết sống trong chánh niệm và an trú vào phút giây hiện tại, dù người ấy đang ngồi giữa đám đông. Còn nếu người ấy ngồi một mình trong rừng sâu mà không có chánh niệm, tâm luôn bị lôi kéo vào quá khứ và tương lai thì người ấy vẫn không phải là người biết sống một mình.

Bụt quay sang mỉm cười cảm ơn đại đức Thera và bảo thầy lui xuống. Người không trực tiếp khen hay chê thầy, mà chỉ dùng bài giảng để truyền đạt ý của Người đến đại đức và các đại chúng. Nhưng chắc chắn là lần này đại đức thật sự hiểu được ý Bụt.

Trong buổi thuyết pháp hôm đó, Svastika nghe các thầy lớn nói rằng những lời dạy của Bụt hôm đó rất là quan trọng, mọi người cần phải ghi nhớ. Đại đức Ananda trùng tuyên một lần nữa những điều Bụt nói cho mọi người nghe một cách trôi chảy và thông suốt. Svastika lấy làm lạ. Hình như thầy Ananda nhớ hết những lời Bụt nói không sót một lời nào. Cách nói, lời nói, và cú pháp giống hệt như khi Bụt nói.

Sáng hôm sau, trong khi đi khất thực, Bụt gặp một nhóm trẻ con đang tụ họp với nhau chơi đùa. Các em này đang hành hạ những con cua nhỏ mà chúng bắt được dưới ruộng. Một đứa trong bọn chúng lấy ngón tay trỏ đè lên lưng con cua, và nó bẻ một càng của con cua. Bọn trẻ reo hò vang dậy. Đứa kia thích chí, bẻ gãy một cái càng cua khác. Bọn trẻ lại vỗ tay hò reo. Chúng chơi như vậy cho đến khi tất cả hai càng và tám chân của con cua đều bị bẻ gãy hết. Sau đó chúng liệng con cua xuống ruộng và đi bắt một con khác để chơi.

Thấy Bụt và các vị khất sĩ đi tới, bọn chúng ngửng đầu lên rồi lại cúi xuống chơi trò hành hạ mấy con cua. Chúng tàn ác với sinh vật mà chúng không biết là mình đang làm những hành động tàn ác đó. Bụt bảo bọn trẻ ngừng tay. Người nói:

- Này các con, nếu các con bị ai đó bắt trói, chặt chân hay bẻ gãy tay thì các con có đau không?

- Bạch thầy, có. Bọn trẻ trả lời.

- Con cua bị các con bẻ gãy càng và gãy chân, nó cũng đau đớn như thế đó. Các con có biết không?

Bọn trẻ nín bặt.

Bụt nói tiếp:

- Con cua cũng biết ăn uống, con cua cũng biết đau, biết sợ chết, con cua cũng có cha, mẹ, anh và chị của nó như là các con vậy. Các con hành hạ con cua đau đớn như thế thì hành động đó cũng phát sinh đau khổ cho các con sau này. Các con hãy suy nghĩ đi.

Bọn trẻ tỏ vẻ hối hận. Lúc bấy giờ thấy Bụt và các thầy xúm quanh một bọn trẻ, những người qua lại gần đấy cũng ghé lại xem. Nhân cơ hội này Bụt dạy cả trẻ em lẫn người lớn về lòng từ bi. Người nói:

- Chúng ta phải làm sao để cho tất cả mọi loài đều cảm thấy có an ổn và có niềm vui trong cuộc sống. Chúng ta phải bảo vệ sự sống cho nhau và đem niềm vui cho nhau. Tất cả mọi loài, dù lớn, dù nhỏ, dù đi bằng hai chân hay đi bằng nhiều chân, dù bò trên mặt đất hay bay trên hư không hoặc bơi lội trong nước cũng đều có quyền được sống. Chúng ta không nên vì ích kỷ bản thân mà tàn sát muôn loài, hoặc nuôi hận thù để sát hại kẻ khác. Chúng ta nên che chở cho nhau.

Này các con, cũng như một bà mẹ đem thân mạng mình che chở cho đứa con yêu quý duy nhất của mình, mỗi người trong chúng ta phải mở lòng ra để đón nhận và che chở cho tất cả muôn loài có sinh mệnh. Lòng thương yêu của chúng ta phải bao trùm tất cả những sinh vật đang có mặt trên, dưới, trong, ngoài và chung quanh ta. Trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, trái tim ta phải mang theo tình yêu thương đó.

Dạy xong, Bụt bảo bọn trẻ cùng đem thả những con cua còn lại xuống ruộng, rồi Người cùng các vị khất sĩ tiếp tục con đường đi khất thực.

Svastika biết Bụt rất chú tâm đến việc hướng dẫn trẻ em nên chú bàn với chú Rahula tổ chức những buổi tập hợp thiếu nhi tại tu viện Jetavana để các em có dịp được học hỏi với Bụt. Với sự cộng tác của những người cư sĩ trẻ thường hay đến tu viện nghe pháp, nhất là với bốn người con của cư sĩ Sudatta. Svastika và Rahula thường quy tụ các em thiếu nhi trong vùng về tu viện mỗi tháng một lần. Cư sĩ Sudatta có bốn người con: Subhada chị, Subhada em, Sumana và Kala. Kala là con trai duy nhất của cư sĩ. Ban đầu Kala không có vẻ hăng hái lắm, nhưng vì mến Svastika nên cậu cũng từ từ tự thân vào việc tu học. Công chúa Vajiri, con quốc vương Pasenadi cũng yểm trợ đắc lực cho việc giáo dục thiếu nhi này. Một buổi chiều rằm, công chúa rủ bọn trẻ đem hoa lên tận tịnh xá dâng Bụt. Mỗi em cầm trong tay những cành hoa hái được trong vườn nhà của mình.

Có em đã hái được cả những cành hoa dại trên đường đến tu viện. Công chúa Vajiri ôm theo một bó sen đã hái được ngay trong hồ sen vườn Thượng Uyển. Khi lên tới tịnh xá thì công chúa và bọn trẻ được biết Bụt đã ra giảng đường. Đã đến giờ Người thuyết pháp. Bài pháp thoại hôm nay được nói chung cho cả hai giới xuất gia và tại gia. Các em thiếu nhi rủ nhau cùng lên giảng đường. Thấy nhóm thiếu nhi tới, các thầy và các vị cư sĩ đều nhường lối cho các em đi vào. Bụt đã ngồi trên pháp tòa. Tất cả các em thiếu nhi được công chúa Vajiri hướng dẫn lên dâng những bông hoa của mình hái được đặt trên chiếc bàn nhỏ đặt trước mặt Bụt rồi cúi đầu xá Bụt. Bụt mỉm cười đáp lễ các em và bảo tất cả tìm chỗ ngồi phía trước đại chúng. 

Buổi pháp thoại hôm đó thật là đặc biệt. Đợi các thiếu nhi ngồi xuống yên ổn. Bụt mới đứng dậy. Người cầm lấy một bông sen đưa lên trước mặt đại chúng, không nói năng gì. Tất cả đại chúng đều im lặng. Không ai hiểu Bụt muốn nói gì bằng cử chỉ ấy. Một lát sau, Bụt đưa mắt quan sát đại chúng rồi mỉm cười. Người lên tiếng:

- Tôi có con mắt của chánh pháp, kho tàng của thực tại mầu nhiệm và tôi đã trao lại cho Mahakassapa.

Mọi người đổ dồn hai mắt về đại đức Kassapa. Nụ cười chưa tắt trên môi đại đức. Mắt thầy vẫn nhìn lên Bụt. Mọi người lại nhìn lên Bụt. Bụt đang nhìn bông hoa và mỉm cười.

Svastika không hiểu gì hết và nghĩ rằng có nhiều người cũng ngẩn ngơ như chú. Chú biết điều quan trọng nhất trong lúc này là giữ chánh niệm và chú bắt đầu theo dõi hơi thở theo phương pháp đã được học với Bụt.

Chú thấy bông hoa Bụt cầm trên tay là một bông sen trắng đang vào lúc hé nở. Bàn tay Bụt cầm đóa sen trong một dáng điệu thanh tao và trang trọng, ngón tay cái và ngón tay trỏ kẹp cuống hoa vào giữa, và cuống hoa nằm xuôi ép theo lòng bàn tay. Chính bàn tay Bụt cũng xinh đẹp như một bông hoa, và đóa sen trắng phía trên, tinh khiết và mầu nhiệm, cũng có vẻ như là một bàn tay khác của Người. Svastika cảm nhận được cái đẹp tinh khiết và trang trọng mà không cần suy tư tìm hiểu. Bất giác chú cũng mỉm miệng cười.

Bỗng Bụt cất tiếng nói. Tiếng của Ngài trong và ấm:

- Đại chúng, bông hoa này là một cái thấy mầu nhiệm. Khi tôi cầm nó đưa lên trước đại chúng, tất cả chúng ta đều có cơ hội tiếp xúc với bông hoa. Cơ hội ấy là một cơ hội đồng đều. Tiếp xúc được với bông hoa là tiếp xúc được với thực tại mầu nhiệm, tiếp xúc với sự sống, tiếp xúc được với bản nhiên của vạn pháp.

Mahakassapa đã mỉm cười trước tiên vì ngài đã tiếp xúc được với bông hoa trước tiên. Trong đại chúng đây, có những vị không tiếp xúc được với bông hoa, đó là vì trong tâm của quý vị còn có những chướng ngại.

Chắc hẳn có những vị đang đặt câu hỏi: vì cớ gì mà sa môn Gotama hôm nay đưa cành hoa lên? Vì tâm các vị ấy đang bận rộn với những ý nghĩ lóe lên trong đầu, cho nên các vị ấy không tiếp xúc được với bông hoa. Đại chúng mãi lo chú tâm vào hành động của sự vật hiện tượng, đắm chìm trong suy tư của bản ngã là một trong những nguyên do khiến ta không tiếp xúc được với thực tại.

Trong trường hợp đang bị lo lắng, phiền muộn, si mê, tham đắm, giận hờn hay ghen ghét chế ngự, ta cũng mất đi cơ hội tiếp xúc với thực tại nhiệm mầu. 

Đại chúng! Bông hoa trong tay tôi có thể chỉ thật sự có mặt đối với những ai biết an trú trong chánh niệm, có mặt nơi phút giây hiện tại này. Nếu quý vị không trở về an trú trong giờ phút hiện tại thì bông hoa ấy có mặt cũng như không.

Có những người đi ngang qua rừng cây trầm hương mà tri giác không nhận biết được một cây trầm hương. Có những người đi qua sự sống mà không tiếp xúc được với sự sống. Đại chúng! Sự sống chứa đựng nhiều khổ đau mà sự sống cũng đong đầy những sự mầu nhiệm. Quý vị phải tinh cần và tỉnh thức để tiếp xúc với những khổ đau và những mầu nhiệm ấy của sự sống.

Nhưng tiếp xúc với khổ đau không có nghĩa là tự đánh mất mình trong khổ đau và tiếp xúc với mầu nhiệm không có nghĩa là tự đánh mất mình trong mầu nhiệm. Tiếp xúc là để nhận biết thực sự chứng nghiệm sự sống và quán chiếu sự sống, ta sẽ thấy được tự tính duyên khởi và vô thường của sự sống, do đó ta sẽ không đánh mất ta trong tham đắm, trong giận hờn và trong mê muội. Ta sẽ thường xuyên an trú trong tự do và giải thoát.

Svastika rất sung sướng. Chú hiểu được lời Bụt dạy. Chú hài lòng lắm khi nhớ ra rằng chú đã mỉm cười khi tay Bụt còn cầm bông hoa đưa lên. Đại đức Mahakassapa mỉm cười trước vì đại đức là một đệ tử lớn của Bụt, đứng về hàng thầy của chú. Chú làm sao tự so sánh mình với đại đức, cũng như với các vị cao đệ khác của Bụt như các thầy Sariputta, Moggallana, Assaji v.v... Năm nay chú chỉ mới hai mươi bốn tuổi.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài Quan Tâm

NHỮNG CÂU NÓI Ý NGHĨA TRONG ĐẠO PHẬT

*** Đừng lãng phí cuộc đời mình tại những nơi mà nhất định bạn sẽ hối hận. ***