Thiền sư Ajahn Chah
Minh Vy dịch Việt ngữ
PHẦN 2
THIỀN ĐỊNH
CHƯƠNG 14
ĐIỀU PHỤC TÂM (1)
Ăn ít. Ngủ ít. Nói ít.
Không làm theo ý muốn của mình.
Không buông thả trong tư tưởng của mình.
Ngừng tất cả những hành động mù quán này.
Bạn phải luôn đi ngược dòng với vô minh.
Đây gọi là kỷ luật.
Vào thời của Ajahn Mun và Ajahn Sao,
đời sống giản dị hơn, ít phức tạp hơn bây giờ rất nhiều. Vào thời đó, chư tăng
ít có bổn phận và nghi lễ. Họ sống trong rừng và không có chỗ nghĩ ngơi cố
định. Họ có thể dành hết thời gian của mình để hành thiền. Họ ít có được những
tiện nghi sung túc mà nhiều người xuất gia hưởng thụ như bây giờ. Họ tự làm ly
nước và ống, nhổ từ thân tre. Người tại gia ít khi viếng thăm. Các tăng sĩ
không muốn hay không đòi hỏi nhiều và phải chấp nhận những gì họ có. Họ sống và
thở trong thiền!
Các tăng sĩ sống rất thiếu thốn. Nếu
có ai bị sốt rét và hỏi xin thuốc, vị thầy chỉ nói, “Anh không cần thuốc! Cứ
tiếp tục tu hành”. Nói cho đúng, thời đó thuốc men không đầy đủ như bây giờ.
Tất cả những gì họ có là những cây thuốc mọc trong rừng. Trong một môi trường
như thế, chư tăng phải có sức nhẫn nại và chịu đựng rất lớn; họ không để tâm
đến thân thể, những bệnh tật lặt vặt. Bây giờ thì khác, đụng một chút là họ
chạy tới bệnh viện!
Đôi lúc, bạn phải đi bộ trung bình
từ 10 đến 12 cây số. Bạn rời khỏi tu viện từ sáng sớm tinh mơ và có thể đến gần
trưa mới về. Bạn cũng chẳng có được bao nhiêu, có lẽ một ít xôi, muối, hay vài
quả ớt. Dầu bạn có được thứ gì để ăn với cơm hay không cũng không thành vấn đề.
Không ai than đói hay mệt; họ không thích than phiền mà tập chăm sóc cho mình. Họ
tu hành trong rừng với sự nhẫn nại và chịu đựng cùng với nhiều hiểm họa luôn đe
dọa chung quanh. Có nhiều thú dữ và rất nhiều chướng ngại, cả vật chất lẫn tinh
thần, đối với tu sĩ hạnh đầu đà(2) sống trong rừng. Thật vậy, sự
nhẫn nại và sự chịu đựng của chư tăng thời đó rất cao do hoàn cảnh bắt buộc.
Lối sống ngày nay đẩy chúng ta đi
ngược lại. Thời xưa, người ta phải đi bộ, sau này có xe ngựa, xe bò, và bây giờ
thì xe hơi. Khát vọng và lòng tham gia tăng đáng kể, cho nên bây giờ, nếu một
chiếc xe hơi không có máy điều hòa, bạn không thèm ngồi trong đó - không có máy
điều hòa thì làm sao mà đi! Hạnh nhẫn nại và chịu đựng ngày càng sa sút trầm
trọng. Tiêu chuẩn tu hành và thiền định cũng ngày càng lỏng lẻo. Hành giả thời
nay chỉ thích chạy theo những ước muốn và ý kiến của họ. Khi người già nói về
thời xưa, họ nghe như nghe kể chuyện cổ tích hay chuyện thần thoại. Họ nghe một
cách thờ ơ, và không hiểu gì hết. Nó chẳng lọt vào bên trong một chút nào cả.
Theo truyền thông xuất gia thuở xưa
của chúng ta, là tăng sĩ, bạn cần phải tu học với vị thầy ít nhất 5 năm. Có
những ngày, bạn phải tránh nói chuyện hoàn toàn. Không cho phép mình nói nhiều.
Không đọc sách. Chỉ đọc chính tâm của mình mà thôi. Lấy ví dụ ở Wat Pah Pong.
Ngày nay, nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học đến đây xin xuất gia. Tôi cố ngăn
cản họ nghiên cứu kinh điển, bởi vì những người này luôn luôn đọc sách. Họ có
quá nhiều cơ hội để đọc sách, nhưng cơ hội đọc chính tâm của họ thì rất hiếm
hoi. Cho nên khi họ xin đến xuất gia trong ba tháng theo truyền thống Thái Lan,
tôi muốn đóng lại tất cả kinh sách. Khi họ xuất gia là lúc họ có cơ hội tuyệt
vời để đọc chính tâm của mình.
Lắng nghe chính tâm của bạn là một
điều rất thú vị. Cái tâm chưa được huấn luyện cứ chạy loanh quanh theo những
thói quen của nó. Nó chạy nhảy lung tung bởi vì nó chưa bao giờ được huấn
luyện. Hãy huấn luyện tâm của bạn! Hành thiền theo Phật pháp, xoay quanh cái
tâm, tập trung vào việc phát triển chính cái tâm của bạn. Chỉ vậy thôi. Một
người tu hành để phát triển tâm là người tu hành theo Phật giáo.
Cái tâm này của chúng ta sống trong
một cái lồng, và hơn thế nữa, trong cái lồng có một con cọp. Nếu cái tâm vô kỷ
luật của chúng ta không có được điều nó muốn, nó sẽ sinh sự, nó quậy phá. Bạn
phải kỷ luật nó với thiền, với định. Đây gọi là huấn luyện tâm hay “điều phục
tâm”. Lúc đầu, sự tu hành là trì giới. Sila
là điều phục thân và khẩu. Việc trì giới có thể dẫn đến tình trạng xung đột và
rối loạn. Khi bạn không cho phép mình làm điều gì mình muốn, sự xung đột phát
sinh. Sự xung đột này là giữa trí huệ và
phiền não - đó là tiến trình của “sự đau khổ để dẫn đến sự chấm dứt khổ đau”.
Ăn
ít. Ngủ ít. Nói ít. Không làm theo ý muốn của mình; không đắm chìm trong tu
tưởng của mình. Ngừng tất cả những hành động mù quán này.
Bạn phải luôn đi ngược dòng với vô minh. Đây gọi là kỷ luật. Khi bạn kỷ
luật tâm mình, nó sẽ trở nên bất bình và bắt đầu chống đối. Nó bị giới hạn và
bị đàn áp. Khi tâm không được phép làm những
gì nó muốn, nó bắt đầu đi lung tung và vùng vẫy. Chúng ta cảm thấy khổ
sở.
Sự đau khổ này là chân lý đầu tiên
của Tứ Diệu Đế. Đa số con người muốn trốn tránh nó. Họ không muốn bất cứ sự đau
khổ nào. Thật ra, sự đau khổ này là cái mang đến cho chúng ta trí huệ, nó tạo
điều kiện cho chúng ta quán xét sự khổ (dukkha).
Hạnh phúc (sukha) thường khiến cho
chúng ta đóng chặt mắt và tai của mình lại. Nó không cho chúng ta phát triển sự
nhẫn nại. Sự thoải mái và hạnh phúc khiến chúng ta mất cảnh giác. Trong hai thứ
phiền não này, dukkha là cái dễ nhìn
thấy nhất. Vì thế chúng ta phải mang sự đau khổ ra để quán xét và có thể chấm
dứt nó. Trước hết, chúng ta phải biết dukkha là gì trước khi chúng ta biết được
hành thiền là như thế nào.
Lúc ban đầu, bạn phải điều phục tâm
như thế này. Bạn có thể không hiểu điều gì đang xảy ra hay mục đích của nó,
nhưng khi vị thầy bảo với bạn phải làm một điều gì, bạn phải làm điều đó. Bạn
sẽ phát triển những phẩm hạnh nhẫn nại và sự chịu đựng. Bất cứ gì xảy ra, bạn
nhẫn chịu, bởi vì nó phải như vậy. Chẳng hạn, khi bạn bắt đầu tu thiền, bạn
muốn được bình an và tĩnh lặng. Nhưng bạn chẳng được chút nào cả. Bạn không
được chút nào vì bạn tu hành chưa đúng cách. Tâm bạn nói, “Tôi sẽ ngồi cho đến
khi tôi đạt được sự tĩnh lặng”. Nhưng khi sự tĩnh lặng không đến, bạn thấy khổ
sở. Và khi thấy khổ sở, bạn đứng dậy, và bỏ chạy mất. Tu hành kiểu này không
thể gọi là phát triển tâm, mà là ruồng bỏ tâm.
Thay vì chìm đắm trong những cảm thọ
của mình, bạn dùng giáo lý của Đức Phật để huấn luyện mình. Biếng nhác hay tinh
cần , bạn vẫn phải tiếp tục tu hành. Như thế này không phải là tốt hơn sao? Còn
cách kia, cách chạy theo những cảm thọ của bạn, sẽ không bao giờ dẫn bạn đến
với Chánh pháp. Nếu bạn tu hành theo Chánh pháp, thì dầu tâm trạng bạn là như
thế nào, bạn vẫn tiếp tục tu hành, liên tục tu hành. Con đường phóng dật không
phải con đường của Đức Phật. Khi chúng ta chỉ chạy theo ý nghĩ của mình, những
định kiến của mình về Chánh pháp, chúng ta không thể nhìn thấy rõ ràng đâu là
đúng, đâu là sai. Chúng ta không biết chính tâm của mình. Chúng ta không nhận
biết chính mình.
Cho nên, tu hành theo sự hiểu biết
riêng của bạn là một con đường chậm chạp. Tu hành theo Chánh pháp là con đường
trực tiếp. Biếng nhác, bạn cũng tu; tinh cần, bạn cũng tu. Bạn ý thức rõ ràng
về thời gian và không gian. Đây gọi là phát triển tâm.
Nếu bạn bám chặt vào những quan điểm
của mình và tu hành theo cách đó, bạn sẽ bắt đầu suy nghĩ và nghi ngờ rất
nhiều. Bạn sẽ nghĩ, “Mình không có nhiều phước báu. Mình không đạt được gì cả.
Mình hành thiền đã nhiều năm rồi mà vẫn chưa khai ngộ, vẫn chưa đắc Đạo. Mình
làm gì để có được thành tựu đây.” Tu hành với thái độ như thế không thể phát
triển tâm. Đó gọi là phát triển tai họa.
Nếu đó là điều bạn đang làm - nếu
bạn là một thiền giả chưa biết, chưa nhìn thấy, chưa thay đổi chính mình - đó
là vì bạn tu hành sai cách. Bạn không làm theo lời dạy của Đức Phật. Đức Phật
dạy như vầy: “Này Annada, hãy tu tập thật
nhiều! Không ngừng tiến bộ. Và rồi tất cả những nghi vấn của ngươi sẽ tan biến”.
Và những nghi ngờ của bạn sẽ không bao giờ tan biến nếu chỉ là sự suy tư, lý
luận, phỏng đoán, hay thảo luận. Nghi vấn của bạn cũng sẽ không biến mất nếu
bạn không làm gì cả. Tất cả phiền não chỉ chấm dứt xuyên qua sự phát triển tâm,
qua sự tu hành đúng cách.
Con đường phát triển tâm như Đức Phật đã chỉ dạy là con đường đi ngược lại thế gian, bởi vì sự giảng dạy của Ngài xuất phát từ cái tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, không còn phiền não, là con đường Đức Phật và các môn đệ của Ngài đã đi.
Bổn phận của thiền giả
là duy trì chánh niệm, sự trầm tĩnh và tri túc. Những thứ này kiềm thúc chúng
ta lại. Chúng chặn đứng những thói quen trong tâm của những kẻ chưa được huấn
luyện. Và tại sao chúng ta làm thế? Nếu bạn không huấn luyện tâm, nó cứ buông
lung, phóng túng mãi, rồi nó sẽ làm những điều dại dột. Nhưng bạn có thể huấn
luyện nó để làm lợi ích cho bạn. Bạn có thể so sánh điều này với việc sử dụng
cây cối. Nếu chúng ta muốn dựng căn nhà gỗ, chúng ta không thể dùng những cái
cây còn đang cắm rễ và phát triển tự nhiên được. Người thợ mộc phải chọn cây,
đốn cây, cắt ra thành những tấm ván, ông dùng nguyên liệu này một cách hữu ích
để hoàn thành căn nhà của mình.
Thiền và phát triển
tâm cũng tương tự như thế. Bạn phải sử dụng tâm này, như bạn dùng một cái cây
trong rừng, và tôi luyện cho nó để trở nên dễ sử dụng hơn, thanh nhẹ hơn, ý
thức hơn về chính nó. Mọi thứ đều ở trong trạng thái thiên nhiên của nó. Khi
chúng ta hiểu biết thiên nhiên, chúng ta có thể thay đổi nó. Chúng ta có thể
tách rời khỏi nó và buông bỏ nó. Rồi chúng ta sẽ không còn đau khổ.
Bản chất của tâm là, nó bám víu và dính mắc vào nơi nào thì nơi
đó có sự hiếu động và hỗn loạn. Mới đầu, nó lang thang qua bên kia, rồi nó lang thang qua bên
này. Khi chúng ta bắt đầu quan sát sự hiếu động này, chúng ta có thể cho rằng
huấn luyện tâm là điều không thể thực hiện, và vì thế chúng ta đau khổ. Chúng
ta không hiểu rằng đây là đường lối của tâm. Tư tưởng và cảm xúc sẽ đi tới đi
lui như thế ngay cả khi chúng ta đang ngồi thiền để cố đạt sự bình an. Nó là
như vậy thôi.
Khi chúng ta kiên trì
quán chiếu bản chất của tâm, chúng ta sẽ hiểu rằng tâm là như thế, và không có
gì khác hơn. Đó là bản chất của nó. Nếu chúng ta nhận rõ điều này, chúng ta có
thể tách rời khỏi mọi tư tưởng và cảm xúc. Khi tâm thật sự hiểu biết, nó buông
bỏ tất cả. Sự suy nghĩ và cảm xúc vẫn còn đó, nhưng nó không bám theo nữa.
Điều này này tương tự
như một đứa trẻ ham chơi và đùa giỡn trong những cách làm chúng ta khó chịu,
đến độ chúng ta phải la rầy hay đánh nó. Nhưng nếu chúng ta hiểu rằng đó là bản
chất của một đứa trẻ, chúng ta có thể xả bỏ và để chúng chơi tự nhiên, không
dính mắc vào sự khó chịu. Và rồi vấn đề của chúng ta biến mất. Tại sao biến
mất? Bởi vì chúng ta hiểu và chấp nhận tính cách của trẻ con. Quan điểm của
chúng ta thay đổi và chúng ta chấp nhận bản chất của sự việc. Chúng ta xả bỏ và
tâm chúng ta trở nên bình an hơn. Chúng ta có Chánh Kiến.
Nếu chúng ta hiểu biết
sai lạc, thì dầu có sống ở nơi yên tĩnh trong núi rừng, đời sống chúng ta vẫn
rối rắm, phiền não. Tâm chỉ có thể bình an khi có Chánh Kiến. Rồi chúng ta sẽ
không còn thắc mắc, nghi ngờ nào để tháo gỡ, không còn vấn đề để giải quyết.
Nó là như thế. Bạn
tách rời. Bạn xả bỏ. Mỗi khi sự dính mắc phát sinh, chúng ta tách rời khỏi nó,
bởi chúng ta biết rằng cái cảm giác đó chỉ là vậy thôi. Nó không đến với mục
đích quấy nhiễu chúng ta. Bản chất nó là thế, nó chỉ có vậy thôi. Nếu chúng ta
bắt đầu suy nghĩ, xem xét nó thêm nữa, thì hành động đó cũng chỉ vậy thôi.
Nhưng nếu chúng ta xả bỏ, thì sắc chỉ là sắc, thanh chỉ là thanh, hương chỉ là
hương, vị chỉ là vị, xúc chỉ là xúc và tâm chỉ là tâm. Nó tượng tự như dầu với
nước. Chúng không trộn lẫn vào nhau, bởi vì bản chất chúng khác nhau.
Sự khác biệt giữa dầu
với nước cũng giống như sự khác biệt giữa một người trí và một kẻ ngu. Người
trí luôn buông bỏ những thứ này dần dần. Họ hiểu rằng tâm là tâm, tư tưởng là
tư tưởng. Họ không trộn lẫn chúng vào nhau.
Tâm là tâm, tư tưởng
là tư tưởng, cảm xúc là cảm xúc. Hãy để sự việc tự nhiên như vậy. Nếu chúng ta
đã suy nghĩ và cảm thấy như thế rồi, chúng ta đã có sự tách rời và xả bỏ. Tư
tưởng một bên, cảm xúc ở bên kia, và tâm ở giữa. Giống như dầu với nước, chúng
tách rời lẫn nhau.
Đức Phật và những môn
đồ khai ngộ của Ngài sống chung với những người chưa khai ngộ. Họ không chỉ
sống với những người này, mà họ còn dạy dỗ những người chưa khai ngộ, chưa hiểu
biết, cách để trở thành những thánh nhân khai ngộ, trí huệ, và cao thượng. Họ
có thể làm thế bởi vì họ biết cách tu hành. Họ biết rằng chỉ có vấn đề ở tâm,
như tôi vừa giải thích.
Cho nên, trong sự hành
thiền của bạn, đừng nghi ngờ gì cả. Nếu chúng ta bỏ nhà chạy tới đây để thọ
pháp, chúng ta không nên bỏ cuộc để rồi bị sai đường lạc lối. Cũng không phải
vì chúng ta sợ hãi hay hèn nhát. Chúng ta đến đây để huấn luyện chính mình, để
có thể làm chủ chính mình. Nếu chúng ta hiểu điều này, thì chúng ta có thể đi
theo Phật Pháp. Phật pháp sẽ trở nên rõ ràng hơn mỗi ngày. Những ai hiểu Pháp,
là hiểu chính mình, và những ai hiểu chính mình là hiểu Pháp. Thời nay, chỉ
những phần lý thuyết khô khan là được chấp nhận. Trên thực tế, Pháp ở khắp mọi
nơi. Chúng ta không cần phải đi tìm một nơi nào khác. Thay vì thế, hãy đi xuyên
qua trí huệ, đừng chạy qua sự vô minh. Nếu bạn muốn bình an, hãy để nó là sự
bình an của trí huệ. Vậy là đủ.
Mỗi khi chúng ta có sự
chứng ngộ, chúng ta có chánh đạo, chúng ta đi đúng đường. Phiền não là phiền não; tâm là tâm, chúng ta xem chúng như những đối
tượng khách quan. Khi chúng ta đi đúng đường, chúng ta không thể phạm lỗi,
chúng ta luôn cởi mở, và tự tại.
Đức Phật nói, “Tăng chúng, hãy lắng nghe. Các ngươi không
được dính mắc vào bất cứ pháp(3) nào”. Những pháp này là
gì vậy? Chúng là tất cả mọi thứ; không có gì không phải là pháp. Tình thương và
thù hận là pháp, hạnh phúc và khổ đau là pháp, thích với không thích là pháp,
tất cả những thứ này, bất kể nó vô nghĩa đến chừng nào, cũng đều là pháp. Khi
chúng ta tu hành, khi chúng ta hiểu biết, thì chúng ta có thể xả bỏ. Và vì thế
chúng ta có thể thực hành theo lời dạy của Phật, đó là không dính mắc vào bất
cứ pháp nào.
Mọi nhân duyên(4)
đều sinh khởi trong tâm của chúng ta, mọi nhân duyên của tâm, mọi nhân duyên
của thân đều không ngừng thay đổi. Đức Phật bảo chúng ta đừng dính mắc vào
những thứ này. Ngài dạy các đệ tử tu hành để có thể dứt trừ những điều kiện để
tạo ra nhân, chứ không phải để có thêm những thứ đó.
Nếu chúng ta làm theo
lời dạy của Đức Phật, thì chúng ta đúng. Chúng ta đúng bởi chúng ta thuận theo
tự nhiên, thuận theo chân lý. Xả bỏ là sự
tu hành rốt ráo của Phật giáo. Đừng dính vào một thứ gì. Tách rời tất cả.
Nếu bạn đang dính mắc vào điều thiện, xả bỏ nó. Nếu bạn đang dính vào điều ác,
xả bỏ nó. Chữ xả bỏ không có nghĩa là chúng ta trốn chạy nó, né tránh nó, mà có
nghĩa là chúng ta tu hành theo phương pháp buông xả, không dính mắc, không cuốn
theo, chỉ nhận biết nó ngay lúc đó mà thôi. Đức Phật dạy chúng ta quán chiếu
các pháp, phát huy Đạo xuyên qua sự quán chiếu chính thân và tâm của chúng ta.
Đạo không ở đâu khác. Nó ở ngay tại đây. Không ở đâu xa xôi. Nó ở ngay đây
trong thân và tâm này.
Cho nên, hành giả phải
tu hành thành tâm. Hãy làm cho tâm rộng lớn hơn, sáng tỏ hơn. Làm cho nó bình
an và tự tại. Khi làm điều thiện, chỉ việc làm, không mang theo nó trong tâm
của bạn, và xả bỏ nó. Tránh làm điều ác, và xả bỏ sự kiềm thúc đó luôn. Không
dính mắc. Đức Phật dạy chúng ta sống trong hiện tại, ngay tại đây và bây giờ. Đừng
đánh mất mình trong quá khứ và tương lai.
Giáo lý mà người ta ít
hiểu nhất và đi ngược lại với những quan điểm của họ, chính là giáo lý về sự xả
bỏ này, về sự làm việc với một cái tâm rỗng không. Lối nói này gọi là “pháp
ngôn”. Khi chúng ta diễn đạt điều này bằng ngôn ngữ thế gian, nó không thể bao
hàm hết ý nghĩa. Lối diễn giải này không sai, nhưng ý nghĩa thật thì gần giống
như vậy: như thể chúng ta mang một tảng đá lớn - sau một lúc, chúng ta cảm thấy
mệt bởi sức nặng của nó, nhưng chúng ta không biết làm sao để buông bỏ nó, cho
nên chúng ta tiếp tục chịu đựng gánh nặng còng lưng này. Nếu có người bảo chúng
ta ném nó đi, chúng ta nói, “Nếu tôi ném nó đi, tôi chẳng còn thứ gì hết”. Khi
nghe nói về lợi ích của việc quẳng nó đi, chúng ta không tin, do dự và lo sợ, chúng
ta nghĩ mình sẽ không còn gì nữa. Thế nên, chúng ta tiếp tục mang tảng đá nặng
nề này bên mình, cho đến khi chúng ta rã rời không còn chút sức lực nào. Rồi
đến lúc không chịu nổi nữa, chúng ta thả nó xuống.
Sau khi thả tảng đá xuống, chúng ta mới hiểu ra lợi ích của việc
xả bỏ. Chúng ta cảm thấy nhẹ nhõm ngay lập tức, rồi chúng ta tự mình ngộ ra
rằng mang một tảng đá là nặng nề biết chừng nào. Trước khi buông bỏ tảng đá,
chúng ta không thể biết được lợi ích của sự buông bỏ, chúng ta không nhìn thấy
lý do. Một người chưa khai ngộ bám chặt một cách mù quáng vào tảng đá, họ cho
đó là thứ quí giá nhất, không chịu buông nó ra, cho đến khi sức cùng lực kiệt,
không chịu nổi nữa, họ mới thả xuống. Chỉ lúc đó, họ mới biết được sự nhẹ nhõm
là như thế nào. Chỉ lúc đó, họ mới biết lợi ích của sự buông bỏ. Sau này, chúng
ta có thể vác gánh nặng lên vai thêm lần nữa, nhưng bây giờ, chúng ta đã biết
hậu quả của nó, cho nên chúng ta có thể buông bỏ dễ dàng hơn. Sự hiểu biết này,
rằng mang gánh nặng lên mình là điều không cần thiết và rằng sự xả bỏ dẫn đến
cảm giác nhẹ nhàng và thoải mái, là một ví dụ về sự hiểu biết chính mình.
Sự kiêu hãnh của chúng ta, cái bản ngã mà chúng ta lệ thuộc vào,
cũng giống như tảng đá nặng nề đó. Khi nghĩ đến việc xả bỏ tánh tự phụ, chúng
ta lo sợ rằng không có nó, chúng ta sẽ chẳng còn gì nữa. Nhưng nếu chúng ta có
thể xả bỏ nó, chúng ta sẽ biết được cảm giác thanh thản và thoải mái ngay sau
đó.
Trong việc điều phục tâm, bạn không được dính mắc vào lời khen
tặng lẫn sự chê trách. Muốn được khen và không bị chê là đường lối của thế
gian. Đường lối của Đức Phật là chấp nhận sự khen tặng và chê trách khi thích
đáng. Người khôn ngoan luôn biết lúc nào nên la mắng, lúc nào nên khen thưởng.
Tâm của chúng ta cũng vậy. Hãy khéo léo nhận biết tâm và khéo léo trong việc
điều phục tâm. Khi tâm đã thông thạo, khôn ngoan, nó có thể giải phóng chúng ta
ra khỏi khổ đau. Đau khổ nằm ngay tại đây, trong tâm chúng ta. Nó luôn làm cho
sự việc phức tạp, làm cho tâm nặng nề. Nó sinh ra ở đây. Nó cũng diệt tại đây.
Tâm là như thế này. Đôi lúc tâm chạy theo tư tưởng tốt, đôi lúc
nó chạy theo tư tưởng xấu. Tư tưởng gian trá lắm. Đừng tin nó. Thay vì vậy, hãy
nhìn thẳng vào những điều kiện đang sinh khởi trong tâm. Nhận biết và chấp nhận
chúng hiện hữu như thế đó. Chúng chỉ là vậy thôi. Dầu là xấu hay tốt, hay bất
cứ gì, nó chỉ thế thôi. Nếu bạn không dính mắc vào những điều kiện này, chúng
không trở thành điều gì khác hơn bản chất tự nhiên của chúng. Nếu chúng ta dính
mắc vào đó, chúng ta sẽ biến chúng thành sự khổ đau. Vấn đề nảy sinh từ đó.
Với Chánh Kiến, thì
chỉ có sự bình an. Định phát sinh và trí huệ làm chủ. Nơi nào bạn ngồi hay nằm,
nơi đó đều có sự bình an. Và bất kể bạn đi tới đâu, ở đó cũng bình an.
Cho nên hôm nay, bạn
lắng nghe Pháp. Có điều bạn hiểu, có điều bạn không hiểu. Dầu bạn cho rằng điều
nào đúng hay sai, bạn nên tiếp nhận nó và suy ngẫm một chút.
Là một vị thầy, tôi đã
trải qua tình trạng tương tự. Tôi cũng từng khao khát nghe Phật pháp bởi vì, đi
đến đâu, tôi cũng thuyết giảng cho người khác, nhưng chưa bao giờ có cơ hội để
lắng nghe. Cho nên bạn phải thật sự trân quí cơ hội được nghe Pháp. Thời gian
trôi qua nhanh khi bạn ngồi yên lặng lắng nghe. Mới đầu, bạn thích giảng dạy
người khác, nhưng sau thời gian, cảm giác thích thú đó tan biến mất. Bạn cảm
thấy chán và mệt mỏi. Rồi bạn muốn được nghe. Nên khi bạn nghe một vị thầy
thuyết giảng, bạn cảm thấy say sưa và bạn hiểu dễ dàng. Nhất là khi bạn đã già
và khao khát sự khai ngộ, bạn càng thấy Pháp thấm thía hơn rất nhiều.
Có hàng triệu cách để
tu hành. Nói về thiền định thì nói mãi không hết. Có quá nhiều thứ có thể khiến
chúng ta nghi ngờ. Chỉ việc quét chúng ra ngoài, và bạn sẽ không còn nghi ngờ
nữa! Khi chúng ta có Chánh Kiến như thế này, bất kể chúng ta trong tư thế nào,
chúng ta vẫn bình an và thanh thản. Chúng ta hành thiền ở đâu, thì mang sự nhận
biết của mình đến đó. Đừng nghĩ rằng bạn
chỉ thiền khi ngồi hay đi. Mọi thứ, mọi nơi đều là sự tu hành của chúng ta. Sự
nhận biết luôn ở đó. Chánh niệm luôn hiện diện. Chúng ta luôn có thể nhìn
thấy sự sinh diệt của thân tâm. Đừng để nó làm bận tâm bạn. Xả bỏ nó liên tục.
Tình cảm đến, xả bỏ nó. Lòng tham đến, xả bỏ nó. Tức giận đến, xả bỏ nó. Chúng
sống ở đâu vậy? Hãy trả chúng về lại nơi của chúng. Đừng giữ lại điều gì cả. Nếu
bạn tu hành như thế, bạn giống như căn nhà rỗng không, một cái tâm không còn
vấn đề gì, chúng ta gọi đó là “tâm không”. Nhưng “tâm không” ấy trống rỗng như
không có gì cả; nó trống rỗng điều ác, nhưng chứa đầy trí huệ. Và bất cứ bạn
làm gì, bạn làm với trí huệ. Bạn suy nghĩ với trí huệ. Bạn ăn với trí huệ. Bạn
nói với trí huệ. Chỉ có trí huệ mà thôi.
Đây là bài pháp cho
ngày hôm nay và tôi tặng nó cho bạn. Nếu nghe Pháp khiến cho bạn bình an, vậy
cũng đủ rồi. Bạn không cần phải cố nhớ điều gì. Có người không tin điều này.
Nếu chúng ta làm cho tâm mình bình an và chỉ lắng nghe, để lời pháp đi qua, thì
chúng ta giống như một cái máy ghi âm. Sau này, khi chúng ta bật nó lên, mọi
thứ vẫn còn đó. Đừng sợ bạn không có gì cả. Mỗi khi bạn bật cái máy thâu âm
lên, mọi thứ vẫn ở đó.
Tôi muốn tặng bài pháp
này tới tất cả các tỳ kheo và mọi người. Có người trong số các bạn chỉ biết
chút ít tiếng Thái, nhưng điều đó không quan trọng. Mong rằng các bạn hiểu được
ngôn ngữ của Đạo. Như vậy là đủ rồi.
-----------------------------------------------
Ghi chú
(1) Điều phục tâm là
từ dùng trong Phật Giáo, ám chỉ sự huấn luyện tâm cho đến khi nó thuần thục và
an trụ trong chánh niệm.
(2) Tu sĩ hạnh đầu đà
là pháp tu khổ hạnh được Phật Thích Ca cho phép. Đây là những giới luật nghiêm
khắc mà Đức Phật khuyên chư tăng nên hành trì để trau dồi hạnh nhẫn nhục, tri
túc, buông bỏ, tinh tấn với những gì mình đang có, làm giảm tối đa nhu cầu ham
muốn, tăng trưởng ý chí và giũ sạch
những phiền não.
(3) Chữ pháp ở đây có
nghĩa là vạn pháp nói chung, là những gì tạo lập ra thế giới hiện hữu (như đất
đai, núi rừng, cỏ cây, hoa lá, vật này, con nọ, chất kia.. cho đến các đối
tượng tâm trí).
(4) Nhân duyên là cái nguyên nhân chính (nhân) và các điều kiện phụ trợ (duyện).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét