Thích Nhất Hạnh
Chương 15
Khổ hạnh lâm.
Đạo sĩ tuổi đã bảy mươi lăm. Ông được mọi người tôn
sùng như một vị thánh sống. Ông muốn mọi người phải tu
học theo từng giai đoạn từ thấp lên cao, và vì vậy sa
môn Siddhatta phải làm lễ nhập môn và học lại từ những
bài thực tập dễ dàng nhất. Chỉ trong vòng vài tuần lễ,
Siddhatta đã chứng minh được cho vị đạo sư mới của mình
rằng định vô sở hữu xứ ông đã thành tựu được và ông mong
rằng đạo sư sẽ dạy cho ông con đường có thể đi xa
hơn nữa.
Trông thấy diện mạo của Siddhatta, và nghe vị sa môn trình
bày kiến giải của mình, đạo sĩ Uddaka rất đỗi vui
mừng. Ông thấy nơi vị sa môn trẻ này con người có thể
kế sự nghiệp của ông một cách xuất sắc. Ông đổi cách tiếp
đãi với Siddhatta và bắt đầu xem Siddhatta như một người tri kỷ. Ông
ôn tồn chỉ dạy cho Siddhatta rất cặn kẽ:
- Này sa môn Siddhatta Gotama, trong định vô sở hữu
xứ, cái không không còn là không gian, cái không cũng không còn
là tâm thức nói chung, mà chỉ còn là tri giác. Tri
giác tức là tưởng, mà còn tưởng tức là còn đối tượng của tưởng,
còn tri giác là còn đối tượng của tri giác. Vậy
thì con đường thoát của chúng ta là vượt được tri giác.
Siddhatta cung kính hỏi lại:
- Thưa thầy, nếu loại bỏ tri giác thì cái gì còn lại?
Không có tri giác thì khác gì vật gỗ đá vô tri?
- Gỗ đá vô tri cũng không phải là không tri giác. Gỗ
đá vô tri vẫn là tri giác. Ta phải đạt tới một trạng
thái tâm lý trong đó cả hai niệm về hữu tri và vô tri đều
được loại trừ. Đó là trạng thái phi tưởng phi phi tưởng xứ. Sa
môn Siddhatta Gotama, ông hãy về thực hiện cho được trạng
thái đó của tâm.
Siddhatta lĩnh ý. Chỉ trong một thời gian không lâu, ông
đã thực hiện được định phi tưởng phi phi tưởng. Định
này, theo Siddhatta, cho ta cảm thấy trạng thái đạt tới một cảnh
giới của nhận thức vượt ra ngoài mọi nhận thức thông
thường, an trú trong ấy ta có được sự yên bình, nhưng mỗi khi ra khỏi định, ông
thấy cái nhận thức phi thường vẫn không thay đổi tình
trạng của thực tại sinh tử. Định ấy chỉ là một nơi trú ẩn mà
không phải là một chìa khóa mở cửa thực tại.
Khi Siddhatta trở lại với đạo sư Uddaka
Ramaputta thì được ông này hết sức khen ngợi. Sau khi biết Siddhatta
đã thực hiện được định phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Uddaka nắm tay Siddhatta:
- Sa môn Gotam là người hành giả thông
minh nhất mà tôi đã được gặp từ trước đến giờ. Ngài đã đi những bước thật
lớn, và đi rất mau lẹ. Ngài đã đạt được cái quả vị cao nhất
mà tôi đã đạt. Tôi đã già rồi, và đã gần đất xa trời. Nếu ngài ở lại
đây, chúng ta sẽ cùng nhau dẫn dắt đạo tràng này và mai
kia khi tôi qua đời rồi ngài sẽ thay tôi lãnh đạo đồ chúng.
Cũng như lần trước, Siddhatta ngỏ lời khéo léo để từ tạ.
Ông biết định phi tưởng phi phi tưởng không phải là chìa
khóa mở được cánh cửa giải thoát sanh tử. Ông phải từ giã, nhưng
trước khi từ giã, ông hết lòng cảm tạ vị thầy mới của mình và
các vị đạo hữu mới. Ai cũng cỏ vẻ quyến luyến và tiếc rằng
vị sa môn đỉnh ngộ và tài năng này không ở lại với họ.
Trong thời gian tu học tại đạo tràng Uddaka
Ramaputta, Siddhatta đã làm quen với một vị sa môn trẻ tên Kondanna, người
bạn này rất mến phục Siddhatta, không những xem Siddhatta là một
người bạn mà còn xem Siddhatta là một bậc thầy. Trong đồ chúng, chưa
ai đạt được tới định vô sở hữu xứ chứ đừng nói đạt
tới phi tưởng phi phi tưởng xứ như Siddhatta. Vị sa môn tân
học Siddhatta đã được thầy của Kondanna đối xử như một người tri kỷ,
Kondanna biết như thế. Mỗi lần nhìn Siddhatta, Kondanna lại thấy thêm
vững niềm tin. Bởi vậy nên ông đã nhiều lần tìm cách thân cận
Siddhatta để học hỏi. Do đó mối tình đồng đạo giữa hai người mỗi
ngày mỗi trở nên khắng khít. Bây giờ Siddhatta ra đi, Kondanna không khỏi buồn
tiếc. Ngày Siddhatta lên đường, vị sa môn này đã đưa ông xuống núi. Đợi
cho Siddhatta đi khuất ông mới trở lên.
Biết rằng có tham vấn thêm bao nhiêu vị đạo sư
đi nữa, mình cũng không học hỏi thêm được điều gì đáng
kể, sa môn Siddhatta quyết định trở về tìm
kiếm chìa khóa giác ngộ ngay trong tự tâm mình.
Hướng về phía Tây, Siddhatta vượt những cánh đồng lúa, những
vũng bùn lầy lội, những đầm nước đọng và những dòng suối đục ngầu.
Lội qua sông Neranjara, ông đi băng qua một cánh đồng nữa thì tới ngọn núi
Dungsiri, thuộc địa phận tụ lạc Uruvela. Ở đây có rất nhiều hang
động. Có những vách đá cheo leo, có những rặng núi hình răng cưa, có những tảng
đá thật lớn, lớn bằng những túp lều của dân nghèo trong tụ lạc.
Siddhatta quyết định lưu lại đây một thời gian để tu luyện công
phu, quyết tìm cho ra nẻo thoát. Ông tìm được một cái hang động khá tốt để
ngồi tĩnh tọa. Ông nhớ rằng ông đã từng khuyên các nhà tu khổ
hạnh đừng hành hạ xác thân họ, vì hành hạ xác thân như
thế chỉ gây thêm khổ đau, trong khi cuộc đời đã có nhiều đau
khổ rồi. Nhưng hôm nay, ông muốn tự mình xét lại điều ấy một cách kỹ lưỡng
hơn. Ngồi trong hang đá, ông tự bảo:
- Với một miếng gỗ mềm và ướt thì ta không thể nào cọ xát làm cho
lửa phát sinh được. Thân thể ta cũng vậy, nếu thân thể ta
còn bị vật dục khống chế thì tâm ta khó có thể
đạt tới giải thoát. Ta hãy tìm cách chế ngự thân
thể ta xem sao.
Sa môn Gotama, bắt đầu thực hành những phương
pháp chế ngự thân thể. Có những hôm, ông tìm tới những nơi
thật thanh vắng trong rừng sâu, những nơi mà chỉ nghĩ đến thôi cũng khiến
người ta rợn óc, tóc gáy dựng lên, để ông ngồi thiền suốt đêm. Thỉnh
thoảng nỗi sợ ập đến và xâm chiếm thân tâm ông, toát cả mồ hôi lạnh, nhưng
ông vẫn cố ngồi yên, không hề nhúc nhích.
Có những khi trong đêm tối đen, một con thú bước soạt tới gần.
Cái sợ của ông nói với ông rằng đó là một con quỷ dạ xoa hiện đến
đoạt mạng, nhưng ông vẫn gan lì ngồi yên không nhúc nhích. Có
khi trong đêm đen, một con cú đạp gãy một cành cây khô. Cái sợ nói với ông rằng
đó là một con trăn lớn sắp trườn xuống và chuẩn bị quấn chặt lấy ông, nhưng ông
vẫn gan lì ngồi không nhúc nhích, mặc cho nỗi sợ kinh khiếp chạy
rần rần trên da đầu ông như một bầy kiến lửa.
Ông tập như vậy để có thể vượt thắng sự sợ hãi. Ông nghĩ rằng,
một khi xác thân vượt thoát được những sợ hãi và những cám dỗ rồi thì
tâm ý cũng có thể vượt thoát được những ràng buộc của khổ đau.
Có lúc, ông ngồi ngậm miệng cứng lại, để lưỡi sát vào họng
trên, dùng tâm ông để điều phục niềm thao thức bồn chồn của tâm, như
hai người lực sĩ đè bẹp lẫn nhau, và người này bắt người kia
phải thốt lời khuất phục. Dùng tâm mà đàn áp tâm kiểu ấy trong một
hồi thì mồ hôi chảy ra ướt hết cả người. Tuy vậy, dù niệm lực có
mạnh, dù ý chí đầy dẫy, dù những đau thương gây ra trên
thân thể có da diết tới cách nào đi nữa thì tâm ông vẫn không đạt tới
sự an tịnh.
Ông lại thực tập hành xác theo kiểu nín thở, không thở
ra cũng không thở vào. Khi thực tập như thế, ông
nghe tiếng gió rít mạnh như vũ bão phát ra trong đầu ông,
từ hai lỗ tai đi vào, âm thanh giống như tiếng của một
chiếc lò rèn đang được thụt lửa. Những luồng gió hung dữ xoáy mạnh trong đầu óc
ông và đầu ông đau như có ai lấy lưỡi rìu bửa ra làm hai mảnh. Cơn đau đầu có
khi như bị ai lấy một cái niềng sắt niềng lại. Bụng ông đau như một con bò bị
người đồ tể lách lưỡi dao nhọn quanh sườn. Thân thể ông đau như bị
người ta túm lấy và đem nướng trên một lò than đang cháy rực.
Những lúc thực tập để chế ngự thân thể như
thế, dù ý chí và năng lượng đầy dẫy, dù niệm
lực hùng hậu, dù xác thân ông có đau đớn cực độ, tâm ông cũng không
nhờ vậy mà được an ổn hơn. Sa
môn Gotama thực tập khổ hạnh như vậy suốt gần bốn năm.
Trong ba năm đầu chỉ có một
mình ông thực tập khổ hạnh trên núi. Đến năm thứ tư, có năm vị sa môn đệ tử của đạo
sư Kondanna là người lãnh đạo nhóm này. Gặp lại Kondanna,
Siddhatta rất vui. Kondanna cho biết là một năm sau khi Siddhatta từ giã, chính Kondanna cũng đã thực
hiện được định phi tưởng phi phi tưởng xứ và nghĩ rằng
mình sẽ không học được gì thêm từ đạo sĩ Uddaka. Nghĩ vậy, ông đã rủ
bốn người bạn thân đi tìm Siddhatta. Sau hơn hai năm trời tìm kiếm, họ đã may mắn tìm
ra Siddhatta. Họ ngõ ý muốn ở lại tu học với ông dưới
sự dẫn dắt của ông bởi vì họ tin tưởng nơi ông. Siddhatta đành
phải chấp nhận. Ông giải thích cho họ biết tại sao ông đang thí
nghiệm con đường điều phục thân xác. Nghe xong, cả năm người
cũng quyết thực tập theo.
Bốn vị sa môn đi theo Kondanna cũng đều là những vị sa
môn còn trẻ. Họ tên là Vappa, Bhaddiya, Assaji và Mahanama. Mỗi người tìm
một cái hang đá để ở; hang của họ không xa nhau mấy. Mỗi ngày chỉ một
người đi khất thực thôi, và phần ăn của một người được chia ra làm
sáu. Thức ăn hàng ngày của mỗi người rất ít, và có thể để gọn trong
bàn tay trái khẳng khiu của một người.
Ngày tháng qua đi. Thân thể cả sáu người đều hao gầy đi
rất nhiều. Có những lúc Siddhatta thực tập khống chế cơ
thể đến mức năm người bạn tu phải khiếp đảm. Họ thấy trong bất
cứ pháp môn tu tập nào họ cũng không theo
kịp Siddhatta. Những tháng gần đây, Siddhatta bỏ luôn cả việc đi
tắm dưới sông Neranjara. Ông bỏ luôn một phần thực phẩm được
chia cho ông. Có ngày, ông chỉ ăn một trái cây rừng đã thối mà ông nhặt được
dưới chân. Có lúc, ông chỉ ăn miếng phân nai khô trên bờ cỏ. Thân
hình ông tiều tuỵ quá mức, chỉ còn da bọc xương. Bao nhiêu xương sườn của
ông đều lộ rõ ra. Ông không hề cạo râu tóc. Có khi ông đưa tay lên sờ đầu và
thấy tóc ông rụng xuống từng mảng như là những sợi tóc ấy không còn chỗ để đứng
trong da đầu.
Cho đến một ngày, khi ngồi thiền định trong một bãi
tha ma dưới chân núi, Siddhatta bừng tỉnh, thấy được rằng con đường khổ
hạnh là con đường sai lầm. Nắng đã tắt và gió chiều nhè nhẹ
tới mơn trớn trên làn da khô sần của ông. Đã ngồi trọn một ngày trong
nắng, bây giờ Siddhatta cảm thấy làn gió thật mát dịu lạ thường, và ông
thấy tâm hồn mình sảng khoái hơn nhiều lắm. Ông nhận ra rằng
thân và tâm là một thực tại không thể tách rời ra được và sự an
lạc của thân có liên hệ tới sự an lạc của
tâm, hành hạ xác thân cũng là hành hạ tâm trí.
Ông nhớ đến thời niên thiếu, hồi ông mới lên chín tuổi, lần đầu tiên
ông ngồi yên lặng dưới bóng mát cây hồng táo trong ngày lễ
cày ruộng đầu năm. Cảm giác hồi ấy là một cảm giác an lạc,
làm cho ông tỉnh táo và sáng suốt lạ thường. Ông cũng nhớ
lại lúc ông ngồi tập thiền lần đầu tiên trong rừng ngay khi Channa người hầu
cận ông vừa từ giã ông, và những ngày đầu khi tập thiền với đạo
sư Alara Kalama; những buổi thiền tập ấy nuôi
dưỡng thân tâm ông, tạo cho ông dạt dào nghị lực. Ông nhớ tới
lời đạo sĩ Alara Kalama, ông được hướng dẫn phải buông bỏ các cảm
giác hỷ lạc trong thiền định để đạt tới những trạng thái vô
sắc như không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu
xứ, và phi tưởng phi phi tưởng xứ, luôn phải tìm cách để tách
rời tâm ra khỏi thế giới của thọ và tưởng, nghĩa là của cảm
giác và tri giác. Ông tự bảo:
- Tại sao ta cứ phải nương theo truyền thống của kinh
điển? Tại sao ta lại sợ hãi những an lạc do thiền
định mang lại? Những an lạc ấy không dính líu gì tới
năm loại dục lạc luôn che lấp tâm trí ta. Trái lại,
những an lạc ấy có thể nuôi dưỡng hình hài và tâm
hồn ta, để ta có đủ sức mạnh mà đi xa hơn trên con đường giác
ngộ".
Sa môn Gotama quyết định sẽ bồi
dưỡng lại sức khỏe, và sẽ sử dụng thiền duyệt thực (7)
làm thức ăn cho thân tâm. Ông định ngày mai sẽ đi khất
thực trở lại, và ông sẽ tự mình làm đạo sư cho mình, không muốn nương tựa
vào một ai khác. Nghĩ như thế, ông ngã lưng dựa trên một mô
đất, an tâm tìm giấc ngủ. Lúc ấy trăng tròn vừa lên. Trời
trong mát không một gợn mây và dòng ngân hà hiện ra rất rõ.
Ông thức dậy sáng hôm sau, khi chim chóc đã bắt đầu ca
hát. Sa môn Gotama đứng dậy, và nhớ lại những ý định chiều
qua. Ông nhìn lại thân mình. Thân thể dính đầy bụi đất, vì đã
lâu ông không hề tắm gội. Chiếc áo cà sa của ông đã rách nát
không đủ che thân. Ông chợt nhớ ngày hôm qua, khi tới nghĩa địa
để ngồi thiền, ông có thấy thi thể một người chết được quàng tại đó, và
trên thi thể ấy người ta đã phủ lên một tấm vải lớn màu gạch non. Ông đưa
mắt nhìn. Cái xác vẫn còn đó và tấm vải màu gạch vẫn còn đó. Có thể là hôm nay
hoặc ngày mai người ta sẽ đưa xác này ra bờ sông để làm lễ hỏa táng và
tấm vải không cần thiết nữa. Sa môn Gotama quyết
định tới xin tấm vải ấy dùng làm chiếc cà sa mới. Ông bước
tới. Đứng yên mật niệm, quán tưởng về sanh tử, rồi ông đưa
tay nhẹ rút tấm vải lên. Thi hài của một cô gái chừng hai mươi tuổi lộ ra, tím
bầm.
Cầm tấm vải, Siddhatta đi hướng ra bờ sông. Ông xuống sông tắm gội
cho sạch sẽ và đồng thời giặt sạch tấm vải để quàng lên người
thay thế cho chiếc cà sa đã rách nát. Nước sông thật
mát, Siddhatta cảm thấy rất dễ chịu. Ông chấp nhận cảm
giác dễ chịu này, ông đón chào nó với một tâm trạng mới. Ông tắm
khá lâu. Rồi ông lấy tấm vải giặt sạch và vắt cho thật khô.
Đến khi ông lội vào bờ thì ông gần như kiệt sức. Bờ sông hơi cao và
ông không đủ sức tự mình leo lên. Ông phải đứng yên lặng
hồi lâu để thở. Nhìn sang bên trái, ông thấy có một nhánh cây sà xuống, có
những đọt lá xòe ra gần đụng mặt nước. Ông lội từng bước về phía ấy, rồi níu
lấy cành cây leo lên bờ.
Lên được bờ sông, ông ngồi xuống nghỉ. Nắng đã lên cao. Ông trải tấm
vải ra phơi. Nắng bắt đầu gay gắt. Thấy tấm vải đã khô, sa
môn Siddhatta choàng nó vào người. Ông đã có áo cà sa mới.
Theo con đường đưa vào xóm Uruvela, ông đi tới.
Nhưng đi chưa được nửa đường thì sa
môn Gotama kiệt sức. Ông thở hào hển, và cuối
cùng ông ngã xuống, bất tỉnh.
Ông nằm bất tỉnh như vậy một hồi lâu thì có một cô bé trong xóm đi
tới. Cô bé chừng mười ba tuổi. Sujata được mẹ giao phó mang sữa, bánh
và đề hồ vào khu rừng bên sông để cúng cho thần linh. Sujata
thấy vị sa môn nằm bất tỉnh trên con đường cạnh bờ sông,
bụng còn thoi thóp thở. Nhìn Siddhatta, cô bé đoán biết vị tu khổ
hạnh này đã kiệt sức. Cô quỳ xuống đổ sữa vào miệng ông.
Những giọt sữa ngon ngọt thấm được vào lưỡi và cổ họng. Siddhatta đáp
ứng ngay. Ông chấp nhận và chầm chậm uống hết bát sữa. Ông bắt
đầu tỉnh táo lại và ngồi dậy được. Và ông ra hiệu cho Sujata rót thêm cho
ông một bát sữa thứ hai. Những bát sữa phục hồi sức lực cho ông một
cách vi diệu. Rồi Siddhatta quyết định bỏ hang động nơi ông tu
khổ hạnh và dời về khu rừng êm mát bên bờ sông để hành đạo.
Ông ăn uống trở lại bình thường. Có khi Sujata mang thức
ăn vào rừng để cúng dường cho ông. Có khi ông cầm bát đi
vào làng để khất thực. Mỗi buổi chiều ông đều xuống tắm ở sông
Neranjara. Mỗi ngày ông đều đi thiền hành bên bờ sông. Thời
giờ còn lại ông dành cho việc thiền tọa.
Tự mình tìm kiếm con đường giải thoát, buông
bỏ mọi uy quyền, truyền thống và kinh điển.
Siddhatta trở về sử dụng tất cả những kinh nghiệm thành
bại của chính mình. Ông không e ngại gì nữa về việc sử dụng thiền
định nuôi dưỡng thân tâm. Mức độ an lạc của ông tăng triển
hằng ngày. Không tìm cách xa lìa và trốn tránh cảm
giác và tri giác, dùng định lực quán
chiếu vào cảm giác ấy cùng với những đối tượng của chúng.
Một hơi thở, một tiếng chim kêu, một chiếc lá, một tia
nắng mặt trời ... tất cả đều có thể trở thành đối tượng quán
chiếu. Rời bỏ ý định thoát ly các hiện tượng, ông trở
về để có mặt sâu sắc trong thế giới hiện tượng ấy. Ông tìm cách
thấu hiểu chúng. Ông bắt đầu thấy rằng, chìa khóa của sự giải
thoát nằm ngay trong từng hơi thở, từng bước chân hoặc từng viên sỏi
bên đường. Ông thấy rằng thế giới hiện tượng và thế
giới bản thể là một.
Sa môn Gotama đi từ sự quán chiếu cơ thể, qua sự
quán chiếu cảm giác, rồi đi từ sự quán chiếu cảm giác sang sự
quán chiếu tri giác cùng những hiện tượng sinh
diệt khác của tâm ý. Cuối cùng ông tìm thấy tính chất bất
nhị nguyên của thân tâm. Thân thể này không phải là
một thực thể riêng biệt nữa. Mỗi sợi tóc cũng là tâm, mỗi tế bào
trong cơ thể đều chứa đựng trí tuệ của vũ trụ và chỉ cần nhìn
sâu vào một hạt bụi, chân tướng của vũ trụ cũng phải
hiện nguyên hình trước ánh sáng soi chiếu ấy. Chân
tướng của hạt bụi chính là vũ trụ và ngoài hạt
bụi ra, vũ trụ không thể nào có mặt.
Sa môn Gotama vượt thoát ý niệm về tự ngã, về Ātman (8),
và ông giật mình khi nhận thấy rằng: đã từ bấy lâu nay, ông luôn bị ý
niệm về bản ngã của tư tưởng Vệ Đà khống chế. Thực tướng của vạn
hữu là vô ngã, là Anatman. Một từ ngữ không phải
để chỉ định một vật thể, mà là một lưỡi búa tầm sét đập tan xiềng xích của sự cố chấp. Nắm lấy nguyên tắc vận hành của vô ngã,
Siddhatta như vị tướng lĩnh có lưỡi gươm thần trong tay, đi vào trận
địa của thiền quán như đi vào chỗ không người. Dưới
gốc cây cổ thụ, ngày cũng như đêm, ông đạt tới những cái thấy lóe sáng
như sấm sét trên thiên không.
Trong khi ấy, năm người bạn đồng tu đã bỏ ông đi mất. Họ
từng thấy ông thọ lãnh thức cúng dường bên bờ sông. Họ đã
thấy ông cười nói với một cô bé, ăn cơm và mang bát vào làng khất thực.
Kondanna đã nói với các bạn của mình: Siddhatta không còn là kẻ mà ta có
thể trông cậy. Siddhatta đã nửa chừng bỏ dỡ công phu tu hành.
Siddhatta bây giờ chỉ lo bồi dưỡng xác thân và sống những
ngày nhàn hạ. Chúng ta hãy bỏ Siddhatta và tìm tới
nơi khác tu tập. Ta cũng không cần tiếp tục tu
theo phương pháp mà Siddhatta đã đề nghị mấy năm nay.
Chỉ khi năm người bạn đồng tu đã bỏ đi, sa môn Gotama mới
thấy sự vắng mặt của họ. Được khích lệ bởi cái nhìn mới, Siddhatta đã
để hết thời gian vào việc tu tập công phu mà chưa có
dịp nào giải thích với các bạn. Ông tự nhủ: các bạn đã hiểu
lầm ta, nhưng ta không cần lo tới việc ấy. Ta hãy dốc lòng tìm cho ra
chánh đạo. Rồi sau đó ta sẽ đi tìm họ và giúp họ. Nghĩ như thế, ông trở
về với công phu thiền quán hàng ngày của mình.
Chính trong những ngày mà ông đạt tới những tiến bộ lớn
trên con đường tầm đạo, thì cậu bé chăn trâu Svatika tìm
tới. Ông đã vui vẻ nhận những nắm cỏ tươi của cậu bé mười một tuổi
dâng cúng. Tuy Sujata, Svatika và bạn bè của các em là những đứa bé, Siddhatta cũng
đã có thể chia sẻ được một phần nhỏ cái thấy của ông với
chúng, và ông mừng rỡ thấy bọn trẻ thôn quê có thể hiểu được và thấy được ánh
sáng của chân lý, những điều mà ông đã tìm ra. Ông có linh cảm rằng chỉ
trong một thời gian ngắn nữa thôi, cánh cửa giác ngộ hoàn
toàn sẽ mở rộng, bởi ông đã nắm trong tay chiếc chìa khóa mầu
nhiệm của cánh cửa ấy: tự tính của duyên sinh và vô
ngã của vạn hữu.
----------------------
(7) thiền duyệt thực: là cách gọi các trải
nghiệm hạnh phúc và an lạc trong thiền định, đó là thức ăn bằng niềm vui thiền định,
người vào thiền định, thân tâm an vui tự tại, có công năng trưởng dưỡng nhục thể,
giúp ích tuệ mệnh, giống như thực vật có công năng nuôi lớn thể xác, duy trì sự
sung mãn tinh thần.
(8) Ātman: thuật ngữ trong kinh Vệ Đà,
nghĩa là linh hồn, là bản ngã, khái niệm này xuất hiện trong tôn giáo Vệ Đà và
trong các học thuyết triết lý của Ấn Độ cổ đại. Ā có nghĩa là các khởi nguyên
tinh thần chủ quan thâm nhập mọi vật, là cái "Tôi" (bản ngã), cái
linh hồn của con người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét