Thích Nhất Hạnh
Chương 19
Trái quít của chánh niệm.
Trưa
hôm ấy, khi mang cơm vào rừng cho sa môn Siddhatta, Sujata thấy ông
đang ngồi dưới gốc cây Pippala, tỏa sáng như một buổi ban mai. Nét mặt
ông rạng ngời, toàn thân ông an lạc và thanh tịnh. Đã
hàng trăm lần, Sujata trông thấy cảnh tượng vị sa
môn ngồi tĩnh tọa trang nghiêm và đẹp đẽ dưới gốc
cây Pippala, nhưng hôm nay cô bé cảm thấy một điều gì rất khác
lạ. Nhìn Siddhatta, Sujata tự nhiên cảm thấy tất cả những buồn
lo của mình tan biến và niềm vui bộc phát trong lòng cô như một ngọn
gió mùa xuân. Cô có cảm tưởng rằng cô không còn mong ước hay
ham muốn một điều gì trên cuộc đời này nữa cả. Tất cả vũ
trụ như đã trở nên hoàn toàn thanh tịnh, hoàn toàn đẹp
đẽ và trong nhân gian không cần phải nhọc nhằn lo
lắng nữa. Sujata tiến tới mấy bước, cô bé nhận ra rằng
niềm an lạc, và thanh tịnh của vị sa môn đã tỏa chiếu và đi
sâu vào trong lòng của cô. Siddhatta mỉm cười nhìn
Sujata. Ông nói:
-
Con ngồi xuống đây. Ta cảm ơn con đã cúng dường thực phẩm cho ta trong
suốt thời gian ta ngồi đây thực hành tầm đạo. Hôm nay là ngày tuyệt
diệu nhất của ta, bởi hôm qua ta đã hoàn toàn giác ngộ và tìm ra con đường giải
thoát. Đạo lớn đã thành tựu rồi.
Sujata
nhìn ông bằng đôi mắt to tròn:
-
Thầy đã tìm ra đạo rồi ư, con vui mừng lắm, mà thầy... có phải mai mốt thầy sẽ
ra đi? Thầy không còn ở bên chúng con nữa sao?
-
Ừ, ta sẽ ra đi, nhưng ta không bỏ lại các con. Trước khi từ giã, ta sẽ chỉ dạy
cho các con con đường mà ta đã giác ngộ.
Sujata
băn khoăn. Cô bé định hỏi thêm, thì Siddhatta đã nói tiếp:
-
Ta sẽ ở lại đây với các con ít ra cũng một tuần trăng nữa. Ta sẽ dạy đạo cho
các con. Sau đó ta mới lên đường, nhưng như vậy không có nghĩa là ta sẽ rời
xa các con mãi mãi. Thỉnh thoảng trên đường hành đạo, ta sẽ
lại ghé thăm các con.
Nghe
vị sa môn nói sẽ ở lại một tuần trăng nữa trước khi ra đi, Sujata mới tạm
yên tâm. Cô bé quỳ xuống, mở gói lá chuối và hai tay dâng cơm lên.
Siddhatta
thọ trai, trong khi Sujata ngồi một bên, nhìn vị sa
môn đang thong thả bẻ từng miếng cơm nhỏ chấm vào muối mè để ăn.
Cô thấy lòng an vui không biết chừng nào mà kể.
Thọ
trai xong, Siddhatta bảo Sujata về nhà, và hẹn xế chiều sẽ gặp lại cùng với bọn
trẻ trong xóm.
Chiều
hôm ấy, bọn trẻ đến rất đông. Ba đứa em của Svastika cũng đều có mặt. Các cậu
đã tắm rửa sạch sẽ và ăn mặc tươm tất. Các cô bé đều choàng sari màu,
Sujata mặc sari lụa màu ngà. Nandabala màu đọt chuối. Bhima màu hồng. Bọn trẻ
ngồi quanh Siddhatta dưới gốc cây Pippala, rực rỡ như những
bông hoa khoe sắc.
Sujata
đã mang đến rất nhiều trái dừa và những thẻ đường thốt nốt để thiết đãi thầy
Siddhatta và cả nhóm trẻ. Chúng cạy dừa và bẻ ra từng miếng để ăn với
nhau rất vui. Đường thốt nốt càng làm cho dừa ngon ngọt thêm. Nandabala và
Subas cũng đem theo mấy trái quít. Chúng chia nhau bóc quít
ăn. Sa môn Siddhatta ngồi giữa bọn trẻ, ông cũng rất vui. Bé Rupak
mời ông một miếng dừa và một miếng đường thốt nốt, đặt trên một chiếc lá
Pippala . Nandabala dâng ông một trái quít. Ông tiếp nhận mọi thứ và
cùng ăn chung với bọn trẻ.
Trong
bữa tiệc ngắn, Sujata đã lên tiếng:
-
Này các bạn và các em. Thầy nói hôm nay là ngày vui nhất của thầy vì Đạo lớn đã
thành. Sujata cũng cảm thấy hôm nay là một ngày rất quan trọng của
Sujata. Vậy nên các bạn và các em; tất cả chúng ta hãy xem này
hôm nay là một ngày vui lớn. Chúng ta họp lại để mừng ngày thành
đạo của thầy. Thưa thầy, mai đây chắc thầy cũng không còn ở lại với chúng
con được lâu. Chúng con xin thầy dạy cho chúng con những điều mà chúng con có
thể hiểu được, để chúng con được thấm nhuần ơn đức của thầy.
Nói
xong, Sujata chắp hai tay lại hướng về sa môn Gotama, dáng
điệu kính cẩn và tha thiết. Nandabala và bọn trẻ cũng đều chắp
tay hướng về Siddhatta với vẻ chí thành.
Siddhatta im
lặng nhìn bọn trẻ. Một lát sau ông ra hiệu cho bọn trẻ bỏ tay xuống, và nói:
-
Các con là những đứa trẻ thông minh, thế nào các con cũng hiểu và làm theo
được những lời ta dạy. Đạo lớn mà ta tìm ra rất sâu kín và vi diệu,
nhưng nếu người nào chịu học hỏi hết lòng thì có thể thấy được
chân lý màu nhiệm và có thể thực hành được rốt ráo. Con đường mà ta đã
tìm ra được gọi là con đường của sự tỉnh thức.
Này
các con, khi các con bóc một trái quít ra ăn, các con có thể ăn quít một
cách tỉnh thức hay không tỉnh thức. Thế nào gọi là ăn quít một
cách tỉnh thức. Đó là trong khi ăn quít, mình chú tâm biết là mình đang ăn
quít, mình cảm nhận được hương thơm và vị chua ngọt của trái quít. Khi bóc quít,
mình biết là mình đang bóc quít, khi gỡ một múi quít bỏ vào miệng, mình biết là
mình đang gỡ một múi quít bỏ vào miệng, khi tiếp xúc với hương thơm
và vị chua ngọt của múi quít, mình biết là mình đang tiếp xúc với hương
thơm và vị chua ngọt của múi quít. Trái quít mà cô bé Nandabala vừa tặng ta hồi
nãy, có tất cả là chín múi. Ta đã ăn từng múi trong sự tỉnh
thức như thế và ta nhận thấy được rằng: trái quít là thực tại rất quý giá,
rất mầu nhiệm. Trong suốt thời gian ăn trái quít, ta không
bỏ sót sự nhận biết từng phút giây mà ta đang ăn trái quít, vì vậy trái
quít hiện tại là có thật đối với ta trong thời gian đó. Trái quít có
thật thì người ăn quít cũng có thật và như vậy tức là ăn quít trong
sự tỉnh thức.
Này
các con, còn thế nào gọi là ăn quít một cách không tỉnh thức? Đó là trong khi
ăn quít, mình không chú tâm vào việc mình đang ăn quít, mình không biết mình
đang ăn quít, mình không cảm nhận được hương thơm và vị chua ngọt của trái
quít. Khi bóc quít, mình không biết là mình đang bóc quít, khi gỡ một múi quít
bỏ vào miệng, mình không biết là mình gỡ một múi quít bỏ vào miệng,
khi tiếp xúc với hương thơm và vị chua ngọt của múi quít, mình không
biết là mình đang tiếp xúc với hương thơm và vị ngọt của múi quít. Ăn
quít như thế thì không thấy được sự quý giá và mầu nhiệm của trái
quít. Ăn quít mà không biết là mình ăn quít, thì trái quít không
thật sự có mặt ở hiện tại đó. Trái quít không thật sự có mặt,
thì người ăn quít cũng không thật sự có mặt ở thời điểm đó. Các con,
đó là ăn quít mà không có sự tỉnh thức.
Này
các con, ăn quít trong tỉnh thức có nghĩa là trong khi ăn quít, ta
tiếp xúc thật sự với trái quít, tri giác ta nhận biết chính xác về hành động ăn
quít, ý ta không suy nghĩ vẫn vơ đến những chuyện khác, chuyện của ngày
hôm qua, chuyện của ngày mai kia. Khi tâm ta an trú trong giờ
phút hiện tại, thì trái quít mới thật sự có mặt. Như vậy,
sống tỉnh thức là sống trong phút giây hiện tại, thân và
tâm an trú trong giây phút hiện tại đó.
Người tu
tập phép tỉnh thức, khi cầm trái quít trong tay và nhìn vào trái
quít có thể thấy được những điều mà người khác không thấy. Nhìn trái quít
trong tỉnh thức, các con có thể thấy được cây quít, các con có thể thấy
được cây quít nở hoa trong mùa xuân, các con có thể thấy được ánh
nắng và giọt mưa đang nuôi lớn trái quít. Nhìn sâu hơn nữa các con có thể
thấy được muôn vật trong vũ trụ đang hòa quyện vào nhau để làm cho
trái quít có mặt. Nhìn một trái quít như thế người tu
tập phép tỉnh thức có thể thấy được những sự mầu
nhiệm của vũ trụ và đồng thời cũng thấy được sự giao
tiếp trùng trùng của mọi vật trong vũ trụ cùng
với nhau.
Này
các con, đời sống hàng ngày của chúng ta cũng giống như một
trái quít. Nếu trái quít có thể có chín múi hoặc mười múi hay mười hai múi, thì
mỗi ngày cũng có bốn thời. Mỗi thời là một múi quít. Sống một ngày bốn thời: sáng, trưa, chiều, tối cũng như ăn cả một trái quít, đi trên con đường ánh sáng
của tỉnh thức trọn vẹn một ngày, thân và tâm luôn
luôn an trú trong hiện tại. Ngược lại, tức là sống trong u
mê, bỏ quên thực tại. Sống trong quên lãng tức là sống mà
không biết mình đang sống, sống mà không thật sự tiếp
xúc với cuộc sống, không cảm nhận được cuộc sống chân thực, bởi
vì thân tâm mình không an trú trong hiện tại.
Nói
tới đây, sa môn Gotama gọi:
-
Này Sujata.
-
Dạ! Sujata chắp tay nhìn lên vị sa môn.
-
Con nghĩ sao, nếu một người biết sống tỉnh thức, người ấy làm nhiều lỗi lầm
hay ít lỗi lầm?
-
Bạch thầy, khi một người biết sống tỉnh thức, người ấy ít phạm vào lầm
lỗi. Mẹ con thường dạy: làm con gái con phải có ý tứ khi
đi, khi đứng, khi nói, khi cười và khi làm việc. Con thấy rằng sống có ý
tứ cũng như sống tỉnh thức. Nếu con để tâm vào công việc,
nếu con có ý tứ trong khi đi, đứng, nói, cười thì trong
đời sống hàng ngày con tránh được những ý nghĩ, những lời
nói và những động tác có thể gây nên sự đổ vỡ và làm kẻ khác phiền
lòng.
-
Đúng như vậy, Sujata. Khi một người biết sống tỉnh thức, người
ấy biết mình đang nghĩ gì, nói gì và làm gì và vì vậy người
ấy có thể tránh được những ý nghĩ, lời nói và động tác có thể
gây nên khổ đau cho mình và cho kẻ khác.
Này
các con, sống tỉnh thức tức là sống trong giờ phút hiện tại, và
biết được những gì đang xảy ra trong bản thân mình và hoàn
cảnh mình. Sống như thế ta tiếp xúc được với sự sống, và
nếu tiếp tục sống tinh cần như thế chúng ta có
thể hiểu biết được bản thân và hoàn cảnh một cách sâu sắc.
Và sự hiểu biết đó đưa tới sự an nhiên và biết thương
yêu. Khi mọi loài hiểu biết lẫn nhau, không còn phân biệt hẹp hòi ích
kỷ thì sẽ không còn khổ đau. Này Svastika, con nghĩ sao? Người ta có thể thương
yêu nhau được không, nếu như họ không thể hiểu nhau?
-
Bạch thầy, không thấu hiểu thì khó có thể thương yêu. Xin thầy nhìn em Bhima
của con. Có một hôm bé Bhima khóc hoài, khóc cả đêm, làm cho chị nó là bé Bala
nổi cáu lên, phát cho nó một cái thật mạnh vào mông. Bhima bị chị đánh lại khóc
to hơn. Con đến ẳm Bhima và con biết rằng Bhima đang sốt. Có thể nó khóc vì
đang bị nhức đầu và khó chịu trong người. Bala tới sờ đầu em, hiểu ngay. Mặt nó
dịu lại. Nó ôm em vào lòng, rồi ru em với tất cả sự thương yêu. Em Bhima
nín khóc, dù nó vẫn còn sốt. Bạch thầy, đó là nhờ Bala đã hiểu, cho nên con
nghĩ rằng nếu không hiểu nhau thì không thể thương yêu.
-
Con nói đúng lắm, Svastika? Có thấu hiểu mới thương yêu, và có thương
yêu mới biết thông cảm và chấp nhận. Này các con, hãy tập sống tỉnh thức, các
con sẽ từ từ thấu hiểu: hiểu được mình, hiểu được người, hiểu được vạn vật và
các con sẽ có lòng từ bi hỷ xả, biết yêu thương. Đó là những điều sơ
lược về con đường mầu nhiệm mà ta đã tìm thấy được trong
đêm thành đạo”.
Svastika chắp
tay:
-
Bạch thầy, chúng con có thể gọi con đường ấy là con
đường tỉnh thức được không?
Siddhatta
cười:
-
Được chứ, các con có thể gọi đạo của ta là đạo thức tỉnh. Ta cũng ưa cách
gọi cách ấy như các con.
Sujata chắp
tay xin phép nói:
-
Bạch thầy, thầy là người đã tỉnh thức, đã biết cách sống trong tỉnh
thức và sẽ đi dạy đạo tỉnh thức cho mọi người. Vậy chúng
con có thể gọi thầy là người tỉnh thức được không?
Siddhatta gật
đầu:
-
Các con cứ gọi ta là người tỉnh thức vậy. Nó đơn sơ mà thân
mật.
Mắt
của Sujata sáng lên. Cô bé nói:
- Tỉnh
thức nói theo tiếng Magadhi là budh. Người tỉnh thức được nói là
Buddha. Vậy từ nay chúng con gọi thầy là Bụt ạ.
Siddhatta mỉm
cười và gật đầu. Tất cả bọn trẻ đều hò reo hoan hỷ. Nalaka, mười bốn tuổi,
là người con trai lớn tuổi nhất trong bọn. Cậu lên tiếng:
-
Lạy Bụt, chúng con rất sung sướng được nghe Bụt chỉ dạy cho chúng con
về con đường tỉnh thức. Con nghe em Sujata nói gần sáu tháng nay Bụt
ngồi tu thiền dưới gốc của cây Pippala này, và chính đêm qua Bụt đã thành
đạo dưới gốc cây Pippala này. Cây Pippala này là loài cây đẹp nhất
trong rừng. Chúng con muốn đặt tên cây này là cây tỉnh thức có được không?
Cây tỉnh thức tức là cây Bồ đề, bởi vì chữ Bồ đề (bodhi)
cũng cùng một họ với chữ Bụt, cũng có nghĩa là sự tỉnh thức.
Sa
môn Siddhatta Gotama gật đầu. Ông rất hoan hỷ. Ông đã không nghĩ
đến việc đặt tên, nhưng trong một buổi nói chuyện ngắn ngủi với bọn trẻ nhỏ
trong rừng mà ông đã có tên mới, đạo của ông mới tìm được đã có tên, và
cây đại thọ nơi ông tìm ra đạo lớn cũng đã có tên.
Nandabal chắp
tay:
-
Chúng con xin bái biệt Bụt hôm nay. Trời đã gần tối, ít hôm nữa chúng con sẽ
trở lại để được Bụt dạy dỗ.
Bọn trẻ nhất loạt đứng dậy chắp tay búp sen để cảm ơn và từ giã Bụt. Chúng ríu rít vui mừng như một đàn chim. Bụt đã quyết định ở lại rừng này trong một thời gian để chiêm nghiệm cách gieo mầm giác ngộ đến với bọn trẻ, đến với mọi người, đến với cuộc đời của bao chúng sinh khốn khổ. Đồng thời cũng để có thời gian trải nghiệm đầy đủ niềm an lạc lớn lao do sự chứng đạo mang tới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét