22 thg 1, 2021

ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG (Phần 5 - Chương 22)

Thích Nhất Hạnh

Phần 5

Chuyển pháp luân

Chương 22

Chuyển pháp luân kinh.

Thầy Anada là một vị sa môn tính tình nhu hòa rất dễ mến. Người thầy rất đẹp. Thầy có trí nhớ thật diệu kỳ, bất cứ Bụt dạy điều gì, thầy đều ghi nhớ không sót một mảy. Thầy đã nhắc lại mười một điều mà Bụt nói trong buổi pháp thoại nghệ thuật chăn trâu, theo thứ tự trước sau. Vị sa môn trẻ Svastika nghĩ rằng tất cả những gì mà chú vừa thuật cho thầy nghe, thầy đều đã ghi vào trong ký ức của thầy đầy đủ.

Trong khi thuật lại giai đoạn Bụt còn ở trong rừng với bọn trẻ, Svastika thường thỉnh thoảng ngước nhìn ni sư Gotami. Chú thấy hai mắt bà lóng lánh. Chú biết bà rất ưa được nghe những chuyện này, chú đã cố gắng thuật lại với thật nhiều chi tiết. Bà rất vui khi nghe chú kể tới những chuyện mà bọn trẻ đứa nào  cũng ngồi im lặng ăn quít với Bụt ở trong rừng.

Rahula nghe Svastika kể chuyện cũng rất lấy làm thích thú, còn thầy Assaji nữa. Thầy là người nghe im lặng nhất, từ cả ngày hôm qua cho đến ngày hôm nay. Chú biết thầy là một trong năm vị sa môn từng tu khổ hạnh với Bụt tại Uruvela. Chú rất muốn được thầy kể lại cuộc gặp gỡ giữa Bụt và năm vị sa môn, sau khi Bụt rời khỏi chú và bọn trẻ, nhưng chú chưa dám. Vừa lúc ấy thì ni trưởng Gotami lên tiếng:

- Chú có muốn đại đức Assaji kể cho chú nghe về những gì đã diễn ra từ khi Bụt rời khỏi Uruvela không? Đại đức Assaji đã từng thân cận với Bụt trong suốt mười năm nay, chính ta cũng chưa được nghe ai kể về những gì đã xảy ta trong mười năm hành đạo của Người. Thưa sa môn Assaji, chúng tôi có thể thỉnh cầu đại đức kể lại cho chúng tôi nghe về quãng đường đó của Bụt được không?

Thầy Assaji chắp tay đáp lễ:

- Xin ni sư cứ gọi tôi bằng sa môn, vừa đơn giản vừa thân mật. Vâng, mấy hôm nay chúng ta đã nghe chú Svastika kể nhiều về thời gian Bụt lên đường tầm đạo, tuy nhiên cũng lại gần đến giờ thiền tọa buổi tối. Vậy chiều mai xin mời ni sư, đại đức Ananda và hai chú sang lều xá tôi. Nhớ được gì, tôi sẽ xin tường thuật lại hết cho quý vị nghe.

Mọi người chắp tay chào tạm biệt lẫn nhau để về lại nơi trú ngụ của mình. Ai cũng mong chờ nghe câu chuyện tiếp theo của Bụt sau thời gian mà Người đã giác ngộ.

Hồi đó, sa môn Assaji vẫn còn tu theo lối khổ hạnh tại vườn Nai ở Isipatana. Một hôm, sau giờ thiền tọa, thầy Assaji trông thấy thấp thoáng bóng một vị sa môn đang từ ngoài xa đi đến. Nhìn kỹ, ông biết đó là Siddhatta. Ông vội báo cho các bạn cùng biết. Thầy Bhaddiya nói:

- Siddhatta hồi đó đang tu khổ hạnh với chúng ta thì nửa chừng bỏ cuộc. Ông ta ăn cơm, uống sữa, vào ra thôn lạc và làm quen với bọn trẻ trong xóm. Sa môn Siddhatta đã làm cho chúng ta thất vọng. Vậy nếu ông ấy có tới thăm chúng ta thì chúng ta cũng không nên đón tiếp nồng hậu làm gì.

Cả năm người đồng ý là sẽ không ra tận ngõ để đón tiếp mà cũng không cần đứng dậy khi Siddhatta bước vào.

Nhưng sự tình lại xảy ra khác hẳn. Khi Siddhatta vừa bước vào tới cổng, không ai bảo ai, cả năm người đều tức khắc đứng dậy. Sa môn Siddhatta có phong độ thật uy nghiêm. Người ông như tỏa sáng hào quang. Mỗi bước chân của ông như nói lên được sức mạnh của trí tuệ giác ngộ và cái nhìn của ông như lấy đi hết tất cả mọi ý niệm kháng cự ẩn chứa trong năm người sa môn đã cùng tu chung với ông thuở trước. Sa môn Kondanna bước tới trước. Ông đỡ lấy bình bát trên tay Siddhatta. Sa môn Mahanama chạy đi múc nước cho Siddhatta rửa tay và rửa chân. Sa môn Bhaddiya kê một chiếc ghế mời Siddhatta ngồi. Sa môn Vappa đi tìm một quạt bằng lá cây thốt nốt để quạt cho Siddhatta. Assaji thì đứng lặng trân một bên ngắm Siddhatta, chẳng biết phải làm gì.

Sau khi Siddhatta đã rửa tay, rửa mặt, rửa chân và ngồi xuống, Assaji mới vội đi tìm rót một bát nước lạnh đem tới cho Siddhatta giải khát. Rồi năm người bạn cũ cùng ngồi quanh Siddhatta. Ông đưa mắt nhìn các bạn, rồi nói:

- Này quý vị, tôi đã tìm ra đạo giải thoát rồi, và tôi sẽ chỉ dạy lại cho quý vị.

Nghe nói như thế, sa môn Assaji nửa tin nửa ngờ. Có lẽ bốn người kia cũng có cảm tưởng như ông. Mọi người im lặng hồi lâu. Bỗng Kondanna lên tiếng:

- Sa môn Gotama! Hồi trước trong thời gian tu tập với chúng tôi, ngài đã nửa chừng bỏ cuộc, ngài đã ăn cơm, uống sữa và giao thiệp với người lớn và trẻ con trong xóm. Làm sao ngài có thể tìm được đạo giải thoát? Làm sao bạn có thể chỉ dạy cho chúng tôi về đạo giải thoát?

Siddhatta nhìn vào mắt sa môn Kondanna, ông hỏi:

- Sa môn Kondanna, bạn đã quen biết tôi từ hơn sáu năm nay. Trong thời gian ấy tôi đã từng nói dối một lần nào chưa?

Kondanna giật mình. Ông thẳng thắn nói:

- Sa môn Gotama nói đúng, Tôi chưa bao giờ từng nghe sa môn nói một điều không phù hợp với sự thực.

- Vậy các bạn hãy nghe đây. Tôi đã tìm ra được Đạo lớn và tôi sẽ chỉ dạy cho các bạn. Các bạn là những vị sa môn đầu tiên trên đời được nghe giáo pháp mầu nhiệm mà tôi đã tìm ra. Giáo pháp này không phải là kết quả của suy luận. Giáo pháp này là hoa trái của thực chứng. Các vị hãy đem hết nhận thức thanh tịnh mà nghiêm chỉnh lắng nghe.

Giọng nói của Bụt mang uy lực tâm linh rất lớn khiến năm người đều tự động đổi thế ngồi, nghiêm chỉnh hướng về Người. Họ chắp tay lại. Kondanna thành kính nói:

- Xin sa môn Gotama đem hết lòng xót thương mà dạy cho chúng tôi.

Bụt nghiêm trang mở lời:

- Này các vị sa môn, có hai thái cực mà người tu đạo nên tránh: một là lao mình vào khoái lạc nhục thể, hai là hành hạ thân xác cho hao mòn. Cả hai con đường này đều đưa tới sự phá hủy của thân tâm. Con đường mà tôi đã tìm ra là con đường trung đạo tránh được hai thái cực ấy và có thể đem đến trí tuệ, giải thoát và an lạc. Con đường đó là con đường Bát chánh đạo: nhận thức chân chính, tư duy chân chính, ngôn ngữ chân chính, hành động chân chính, sinh kế chân chính, chuyên cần chân chính, niệm lực chân chính và định lực chân chính. Tôi đã đi theo con đường bát chánh đó và đã thực hiện được trí tuệ, giải thoát và an lạc.

Này các vị, sao gọi là chánh đạo? Sở dĩ gọi là chánh đạo, vì con đường này không phải là con đường trốn tránh đau khổ mà là con đường đối diện trực tiếp khổ đau để diệt trừ khổ đau. Con đường bát chánh này là con đường của sự sống tỉnh thức, vì vậy chánh niệm là khởi điểm. Có chánh niệm thì sẽ có chánh định, nghĩa là định lực có tác dụng đưa tới trí tuệ. Nhờ có niệm lực và định lực chân chính thì nhận thức, tư duy, ngôn từ, hành động, sinh kế và sự chuyên cần cũng sẽ đi vào chánh đạo. Trí tuệ từ đó được phát sinh sẽ giải thoát cho hành giả khỏi tất cả mọi ràng buộc khổ đau và làm phát sinh nơi người hành giả nguồn an lạc chân chính.

Này các vị, có bốn sự thật mà con người phải thấu hiểu và công nhận: sự có mặt của những khổ đau, sự có mặt của những nguyên nhân dẫn đến khổ đau, sự chấm dứt khổ đau và con đường đi tới sự chấm dứt khổ đau. Bốn sự thật ấy là bốn sự thật mầu nhiệm, gọi là Tứ diệu đế.

Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ nhất: sự có mặt của khổ đau trong cuộc sống như sinh, già, bệnh và chết là khổ; buồn, giận, ghen, tức, lo lắng, sợ hãi và thất vọng là khổ; sự chia ly người thân yêu là khổ, chung đụng với người ghét bỏ là khổ, tham đắm và si mê kẹt vào năm uẩn là khổ.

Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ hai: nguyên nhân dẫn đến khổ đau. Vì u mê, vì không tỉnh giác, vì không nhận thức đúng thực tại, vì không biết rõ nguồn gốc sinh khởi của sự vật và không hiểu được sự thật về bản thân, về cuộc đời, cho nên con người bị những ngọn lửa của tham lam, mê đắm, giận hờn, ghen tức, sầu não, lo lắng, sợ hãi và thất vọng ... ngày đêm thiêu đốt và hành hạ thân tâm.

Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ ba: chấm dứt khổ đau. Đó là trí tuệ giác ngộ, là nhận thức được thực tại, là hiểu biết sự thật về bản thân và cuộc đời. Trí tuệ này, cái thấy này đưa đến sự chấm dứt khổ đau, giải thoát mọi ràng buộc dẫn đến khổ đau và làm phát sinh niềm an lạc.

Này các vị sa môn, đây là sự thật thứ tư: con đường diệt khổ. Đó là con đường Bát chánh mà tôi đã trình bày. Bản chất của Bát chánh đạo được nuôi dưỡng bằng nếp sống tỉnh thức hàng ngày, đó tức là chánh niệm. Chánh niệm đưa tới định và tuệ, có năng lực giải thoát con người khỏi mọi đau thương và đem lại niềm vui và phúc lạc thực sự. Tôi sẽ hướng dẫn cho các vị từng bước trên con đường thực hiện này.

Trong khi Siddhatta giảng giải về bốn sự thật mầu nhiệm, sa môn Kondanna bỗng thấy tâm mình bừng sáng. Ông lập tức thấy được con đường giải thoát thật sự mà lâu nay ông tìm kiếm. Nét mặt ông rạng rỡ. Thấy thế, Bụt chỉ ông và nói lớn:

- Sa môn Kondanna! Bạn đã hiểu! Bạn đã hiểu!

Kondanna chắp tay quỳ xuống bên ghế ngồi của Bụt. Ông thành kính nói:

- Sa môn Gotama, xin thầy hãy nhận Kondanna này làm học trò của thầy. Con biết rằng dưới sự chỉ dạy của thầy, Kondanna sẽ thành đạt nguyện lớn.

Bốn vị sa môn kia thấy vậy cũng quỳ xuống cả dưới chân Bụt và chắp tay cầu xin Bụt nhận họ làm đệ tử. Bụt nâng tay đỡ cả năm người dậy. Người bảo họ ngồi lên ghế. Người cũng ngồi xuống chỗ cũ của mình. Bụt nói:

- Này quý vị! Bọn trẻ trong làng Uruvela đã đặt tên cho tôi là Bụt. Có lẽ quý vị cũng có thể dùng danh từ ấy để gọi tôi.

Kondanna hỏi lại:

- Những đứa trẻ gọi sa môn Gotama là Bụt? Bụt có nghĩa là “người tỉnh thức"?

- Đúng như vậy, và chúng gọi con đường mà tôi tìm ra là “đạo tỉnh thức".

- Người tỉnh thức! Đạo tỉnh thức! Hay lắm! Hay lắm! Danh xưng vừa chính xác, vừa đơn giản và thân mật. Chúng con xin từ nay gọi thầy là Bụt và nền đạo lý mà thầy tìm ra là đạo Bụt. Đạo tỉnh thức. Đúng lắm, bởi vì nếp sống tỉnh thức hàng ngày, như thầy nói, là căn bản cho sự tu hành.

Năm người đã tôn kính sa môn Gotama làm thầy, và bây giờ đều gọi sa môn là Bụt.

Bụt mỉm cười nhìn họ:

- Xin các vị tinh tấn tu hành. Con đường chánh đạo đã được tìm ra. Chỉ cần quý vị thực tập nghiêm túc thì chỉ trong vòng sáu năm quý vị sẽ đạt tới quả vị giải thoát.

Bụt ở lại Isipatana một thời gian sau đó để chỉ dạy cho năm vị sa môn. Họ chấm dứt lối tu khổ hạnh. Mỗi ngày ba vị luân phiên cầm bát đi khất thực trong xóm. Trưa về, ba người san sẻ thức ăn cho ba người ở lại, trong đó có Bụt. Bụt ở lại để hướng dẫn sự tu học cho mọi người. Năm vị tu học rất kiên trì và người nào cũng đạt được nhiều tiến bộ.

Bụt dạy cho họ về tự tính vô thường và vô ngã của vạn vật. Người phân tích cho họ thấy năm uẩn đều như những dòng sông luôn luôn trôi chảy sinh diệt và biến đổi, trong đó không có một cái gì là chủ thể, không có cái gì có tính đồng nhất và bất biến. Năm uẩn ấy được gọi là thân thể (sắc), cảm giác (thọ), tri giác (tưởng), tâm ý (hành) và nhận thức (thức). 

Bụt dạy họ quán sát sự trôi chảy của năm dòng sông ấy trong tự thân của mỗi người để có thể thấy được tính vô thường và vô ngã của chúng, từ đó thấy được bản chất của vạn hữu, và cũng thấy những liên hệ mật thiết và mầu nhiệm giữa vũ trụ và bản thân mình.

Nhờ sự tu học tinh cần, năm vị dần dần đạt được cái thấy mầu nhiệm ấy. Người đầu tiên chứng ngộ quả vị giải thoát là Kondanna. Rồi ba tháng sau là đến lượt Vappa và Bhaddhiya. Cuối cùng Mahanam và Assaji cũng đạt tới quả vị A la hán.

Bụt rất vui mừng. Người nói:

- Các ngài đã thành tựu. Giờ đây chúng ta đã có đoàn thể xứng đáng với tên gọi Sangha, đoàn thể của những người biết sống trong tỉnh thức, rồi đây quý vị sẽ cùng với tôi mang những hạt giống của đạo tỉnh thức này gieo mầm ở khắp thế gian.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài Quan Tâm

NHỮNG CÂU NÓI Ý NGHĨA TRONG ĐẠO PHẬT

*** Đừng lãng phí cuộc đời mình tại những nơi mà nhất định bạn sẽ hối hận. ***