Thích Nhất Hạnh
Chương 30
Venuvana.
Ngày
trăng tròn đã tới. Buổi sáng, Bụt khoác cà sa, mang bát, cùng với một ngàn
hai trăm năm mươi vị khất sĩ đi vào thành Rajagaha, đáp
lại lời mời của quốc vương Bimbisara. Đoàn người
đi trang nghiêm và lặng lẽ. Đường phố mà các vị khất sĩ đi
qua đã được treo cờ và kết hoa. Dân chúng đổ ra hai bên đường chào đón đông
nghịt. Tới một ngã tư, Bụt và giáo đoàn không đi lên được
nữa, bởi vì dân chúng đã đổ ra đông quá, làm bít mất con đường.
Lúc
ấy, khất sĩ Uruvela Kassapa đang đi sát sau lưng Bụt, còn chưa biết
làm cách gì để khai thông con đường thì thầy bỗng thấy xuất
hiện trước mặt Bụt một chàng thanh niên tuấn tú, tay cầm cây đàn
mười sáu dây. Thanh niên cất tiếng hát, giọng chàng trong
sáng và vọng lớn lên như tiếng chuông đồng, Tay đàn, miệng hát,
chàng rẽ đám đông để đi tới. Quần chúng tránh đường cho chàng đi. Con
đưòng được mở rộng, lúc ấy Bụt và giáo đoàn mới tiến
lên được.
Thầy
Kassapa nhận ra người thanh niên đang mở đường cho Bụt và tăng
đoàn bằng âm nhạc và thi ca. Đó là một chàng thi sĩ đã
tới quy y với Bụt cách đây chưa đầy một tháng. Chàng đang ứng
khẩu hát lên những cảm nghĩ của mình. Chàng hát:
-
“Sáng nay trên đất nước, có mùa xuân thắm tươi
Giữa
thủ đô ta có bậc giác ngộ tuyệt vời
Cùng
một ngàn hai trăm năm mươi đệ tử, người đi vào thành Vương
Xá
Bậc điều
ngự đang ung dung bước tới, dung quang lặng
lẽ mà sáng ngời.”
Quần
chúng nghe chàng một cách say mê. Mọi người nhìn vào chàng, rồi
lại nhìn vào Bụt. Chàng mỉm cười rồi hát tiếp:
-
“Bởi ta có may mắn là học trò của bậc toàn giác
Hãy
cho ta ca ngợi tình thương và trí tuệ không bờ bến của
Người
Cho
ta ca ngợi con đường đưa tới chân trời tự tại
Cho
ta ca ngợi tăng đoàn đang đi trên chánh đạo soi sáng cho
đời.”
Chàng
còn hát nữa, cho đến khi Bụt và tăng đoàn tới được
cổng hoàng cung. Lúc ấy chàng mới cúi đầu làm lễ Bụt rồi biến
mất trong đám đông.
Vua
Seniya Bimbisara đích thân ra tận ngọ môn để đón chào Bụt và tăng đoàn.
Các nhân sĩ và tân khách của vua, có tới hàng ngàn người, cũng theo vua ra đón
Bụt. Vua đưa Bụt vào hoàng cung. Sân rồng đã được che nắng bởi
những chiếp rạp dựng lên cho cuộc đón tiếp long trọng này. Rạp được
kết bằng hoa lá rất mỹ lệ. Chỗ ngồi của Bụt được đặt ở vị trí trung
tâm. Chỗ ngồi của một ngàn hai trăm năm mươi vị khất sĩ cũng đã được
chuẩn bị chu đáo. Sau khi Bụt đã ngồi xuống trên ghế của người, vua
Bimbisara thỉnh cầu các vị khất sĩ và toàn
thể quan khách an tọa. Vua ngồi một bên Bụt. Phía bên kia là khất
sĩ Kassapa.
Ngôi chủ
khách đã phân, thái tử Ajatasattu mang nước và khăn ra cho Bụt
rửa tay chân. Tiếp theo, quân hầu cũng đem nước và khăn ra cho tất cả các
vị khất sĩ rửa tay chân. Lễ tẩy tịnh đã xong, vua đích thân đứng
dậy cúng dường các thức ăn cho Bụt. Vua cung
kính sớt các thức ăn vào bát của mỗi người. Trong khi
đó, phu nhân của nhà vua, hoàng hậu Vedehi, hướng dẫn người hầu
trong hoàng cung cúng dường thức ăn cho các vị khất
sĩ.
Bụt
và giáo đoàn khất sĩ mặc niệm và thanh tịnh chú
nguyện trước khi ăn. Vua Bimbisara và tất cả các quan khách cũng đều
giữ im lặng trong thời gian dùng bữa. Trong sáu ngàn tân
khách của vua, không ai là không cảm nhận được sự thanh tịnh và an
lạc thoát ra từ nhân cách của Bụt và của giáo đoàn khất sĩ.
Sau
khi Bụt, tăng đoàn và quan khách đã thọ trai xong, bình
bát của các vị khất sĩ được người hầu đem rửa và trả lại cho mỗi
vị.
Vua
Bimbisara hướng về Bụt, cung kính chắp tay. Hiểu được ý vua,
Bụt lên tiếng dạy về chánh pháp. Người nói về năm
giới như là phương thức tạo dựng và bảo vệ hòa bình và hạnh
phúc trong quốc gia. Người nói năm giới có thể
được nhận thức như là những nguyên tắc sống hòa bình và an lạc,
trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
-
Giới thứ nhất là không sát hại. Giữ gìn giới này là để nuôi
dưỡng lòng từ bi. Tất cả các loài sinh vật, từ người cho
đến chim muông và cầm thú, loài nào cũng sợ chết. Nếu ta biết
tôn quý sự sống của ta thì ta cũng phải biết tôn quý sự sống của loài sinh vật
khác. Không những ta không được tiêu diệt sự sống của con người,
mà ta còn nên tránh việc tiêu diệt sự sống của các
chủng loài khác. Ta phải sống hòa bình với con người và sống hòa
bình với các loài sinh vật. Nuôi dưỡng được lòng thương, ta làm
cho cuộc đời bớt khổ và đẹp đẽ thêm lên. Nếu mọi
người trong nước đều biết giữ giới không sát hại thì
đất nước sẽ không bị loạn lạc, và dân chúng được sống hòa bình.
Khi mọi người thương nhau và đoàn kết với nhau thì dân giàu
và nước mạnh, không nước nào sẽ có đủ sức để xâm lăng nước mình, và
tuy có quân đội hùng mạnh, quốc gia sẽ không cần sử
dụng đến. Quân đội sẽ có thì giờ để làm những công việc xây
dựng đường xá, cầu cống, chợ búa và đê điều.
-
Giới thứ hai là không xâm phạm đến tài sản của kẻ khác.
Nếu tài sản của mình là do mình tạo ra bằng sức làm việc hàng ngày
của mình thì không ai có quyền xâm phạm đến. Tất cả những lời
nói và hành động nào nhằm tước đoạt tài sản ấy đều được xem
là phạm giới. Không được ăn trộm, ăn cướp, lường gạt, hoặc
dùng quyền lực mình để cưỡng chiếm tài sản của kẻ
khác. Lợi dụng sự khờ dại, sức lao động của kẻ khác và hoàn
cảnh khó khăn của họ để làm giàu cũng phạm vào giới này. Nếu dân trong một
nước mà biết hành trì giới này thì trong nước sẽ có công
bằng xã hội và những tội ác như cướp của và giết người
sẽ giảm bớt đi rất nhiều.
-
Giới thứ ba là không xâm phạm tiết hạnh của kẻ khác. Ngoài vợ
mình hay chồng mình, người giữ giới không được chung
chạ với kẻ khác. Giữ được giới này thì tạo được đức
tin và hạnh phúc trong gia đình mình, đồng
thời cũng tránh được sự gây ra đổ vỡ khổ đau trong các gia
đình khác. Muốn có hạnh phúc, muốn có thì giờ và tâm trí để
lo việc ích quốc lợi dân thì nên tránh việc có nhiều tỳ thiếp.
-
Giới thứ tư là không nói dối và không nói những lời gây chia
rẽ căm thù. Lời nói phải phù hợp với sự thật: có
thì nói có, không thì nói không. Lời nói có thể tạo nên niềm
tin và hạnh phúc. Lời nói cũng có thể tạo nên đổ vỡ và
sự thù oán, có khi còn đưa tới sự chém giết lẫn nhau. Có
khi lời nói cũng có thể tạo ra chiến tranh. Ta phải rất cẩn
thận cho lắm mới được.
-
Giới thứ năm là không uống rượu và không sử dụng các chất kích
thích ảo giác. Rượu và các chất kích thích ảo giác làm cho ta
mất sáng suốt. Khi say ta có thể tạo ra nhiều đổ vỡ cho bản thân,
cho gia đình và cho tổ quốc. Giữ giới này, ta giữ
cho thân thể ta được khỏe mạnh và tâm hồn được sáng
suốt, vì vậy bậc thức tỉnh luôn luôn phải giữ
giới này. Nếu đại vương và các vị chức sắc của triều đình
mà thấu triệt và giữ được năm giới này thì đó là một điều
đại phước cho quốc gia và cho tất cả nhân dân thiên
hạ trong vương quốc.
Đại
vương, bậc quốc vương đứng đầu một nước cần sống trong tỉnh
thức và biết được những gì đang xảy ra trong vương quốc mình. Nếu đại
vương làm cho trong triều ngoài quận ai cũng hiểu thấu và thực
hành được năm giới, tức là năm nguyên tắc sống hòa bình và an
lạc, thì vương quốc Magadha sẽ trở nên thịnh vượng nhất trong hoàn vũ”.
Vua
Bimbisara sung sướng tiến tới trước Bụt và làm lễ Người. Hoàng
hậu Vedehi cũng đứng dậy từ chỗ ngồi của bà. Cầm tay thái
tử Ajatasattu, bà đi tới trước Bụt. Bà dạy thái tử chắp
tay thành búp sen để vái chào Người, rồi bà nói:
-
Lạy Bụt, hôm nay có thái tử Ajatasattu, con của con và nhiều trẻ em
khác của các vị vương tử đại thần và quan khách. Các em đông có tới bốn trăm
đứa. Xin Bụt đem lòng thương xót chỉ bày cho các em thiếu nhi con
đường của tỉnh thức và của thương yêu.
Nói
xong hoàng hậu sụp xuống lạy Bụt. Thái tử Ajatasattu cũng được bà chỉ
bảo sụp xuống lạy Bụt. Bụt mỉm cười đưa tay cầm lấy tay thái tử.
Hoàng hậu quay lại làm dấu hiệu. Tất cả các em thiếu nhi có mặt đều được
đưa ra trình diện. Đây toàn là trẻ em nhà quyền quý và khá giả,
nên em nào cũng được phục sức rất tươm tất. Trai cũng như gái đều có
đeo vòng ở cổ tay và cổ chân. Các bé gái mặc những chiếc sari lộng lẫy đủ màu
trông rất xinh xắn. Thái tử Ajatasattu cũng ngồi xuống ngay dưới chân
Bụt.
Bụt
mỉm cười hoan hỷ và nhớ lại những em bé nghèo mà Người đã gặp dưới cây
hồng táo ở ngoại thành Kapilavatthu. Người tự hứa là mai này về
lại quê hương sẽ đi tìm gặp lại những em bé như thế để làm tròn ước
nguyện.
Người
nói:
-
Này các con, trước khi ta được làm người, ta đã từng làm đất đá, cây cối, chim
chóc và muông thú. Các con cũng vậy, trong những kiếp xưa các con đã từng làm
đất đá, cây cối và chim muông. Ngày hôm nay ta được gặp các con, cũng có thể là
vì trong những kiếp xa xưa ta và các con đã từng gặp nhau. Chúng
ta đã có thể làm cho nhau vui sướng. Chúng ta cũng đã có
thể làm cho nhau khổ đau.
Hôm
nay ta muốn kể cho các con nghe một câu chuyện đã từ vô lượng kiếp trước.
Đây là chuyện của một còn cò, một con cua, một cây bông sứ và rất nhiều tôm cá.
Các con nên nhớ, ngày ấy trong số chúng ta ở đây có thể đã là cây bông sứ, có
thể đã là con cò, có thể đã là con cua và có thể đã là tôm cá.
Trong câu
chuyện này, con cò là một đứa nham hiểm và có mưu tính lường gạt
kẻ khác. Nó đã làm cho biết loài vật khác khổ đau và chết chóc. Qua
câu chuyện sau đây, chúng ta sẽ được một bài học. Đó là: khi mình gian tham lừa
gạt và làm khổ đau kẻ khác thì chính mình cũng sẽ tự rước lấy nỗi đau khổ cho
mình.
Trong
kiếp xa xưa đó, có một cây bông sứ đứng gần một cái hồ sen rất thơm và rất mát.
Hồ sen này lại không có cá.
Cách
hồ sen ấy không xa, lại có một cái ao nhỏ hẹp, ít nước hơn và nóng bức,
nhưng lại có nhiều cá tôm. Một con cò đi ngang qua đây thấy tôm cá quá nhiều
mới nảy sinh ra một gian kế. Nó tới đứng gần bên bờ hồ và tự tạo cho mình
một vẻ mặt đăm chiêu.
Bọn
cá hỏi:
-
Bác Cò, bác suy nghĩ gì đấy?
-
Ta đang suy nghĩ đến số phận của các chú. Ở đây, ao hẹp, nước ít
lại nóng bức. Các chú lại thiếu thức ăn. Đời sống của các
chú có vẻ khổ cực, ta thương lắm.
-
Vậy bác có cách gì giúp tụi cháu không, bác Cò?
-
Nếu tụi bay để ta chở từng đứa tới bỏ xuống cái hồ sen đàng kia, thì ở đó tụi
bay sẽ được tha hồ bơi lội trong nước mát và sẽ có vô
số thức ăn.
-
Bác Cò ơi, tự thuở cha mẹ sinh ra, chúng cháu chưa bao
giờ nghe nói là loài cò mà lại có lòng tốt với loài tôm cá. Bác
bày ra cách đó chẳng qua chỉ là để ăn thịt chúng cháu, đứa này rồi
tới đứa khác, vậy thôi. Có phải không?
-
Tụi bay đa nghi lắm. Tao là bác của tụi bay, không lý tao lại gạt tụi
bay hay sao. Sự thật là đàng kia có một cái hồ sen rộng lắm, nước
nhiều mà lại mát nữa. Nếu tụi bay không tin thì một đứa hãy theo tao qua đó
xem. Xem xong tao lại trả nó về đây để nó báo cáo lại sự
thật cho tụi bay biết.
Bọn
tôm cá châu đầu vào nhau để bàn luận một hồi lâu. Cuối
cùng chúng cử một bác cá nhám đi với con cò. Con cá nhám này đã
già, thân thể cứng gần như một cục đá. Nó bơi lội giỏi đã đành, mà nó
cũng có thể di chuyển dễ dàng trên đất cạn. Con cò cáp lấy con cá
nhám vào mỏ và bay về phía hồ sen. Nó thả con cá vào hồ sen để bơi
lội thỏa thích và đi thăm mọi nơi trong hồ. Quả thật là
hồ rộng, nước rất mát và thực phẩm rất nhiều. Một lát sau, con cò chở
con cá nhám về ao, và nó kể lại tất cả những gì nó đã thấy cho bọn chúng trong
ao nghe.
Bọn
tôm cá nghe kể rất lấy làm vui sướng. Chúng yêu cầu con cò chở
chúng sang hồ, mỗi chuyến một đứa. Cò bằng lòng. Nó cắp con cá đầu tiên vào mỏ
và bay đi, nhưng thay vì thả cá xuống hồ sen, nó bay về phía cây bông sứ, nó
buông cá vào một chỉa ba của thân cây. Nó dùng mỏ rỉa cá ra và ăn
thịt con cá. Ăn xong, nó hất xương cá xuống gốc cây bông sứ. Rồi nó bay về
phía ao để “chở” một con cá khác, và luôn luôn bỏ xương cá xuống gốc cây.
Cây
bông sứ đã chứng kiến tất cả những điều này. Cây rất tức giận con cò nhưng
không thể nào ngăn cản được con cò. Cây không thể chạy tới ao để vạch
rõ cho bọn tôm cá biết âm mưu của con cò. Cây cũng không thể vươn
cành ra để ngăn con cò ăn thịt cá. Cây đứng yên chịu trận. Mỗi
lần cò mang tới một con cá và mổ cho cá toét ra để ăn thịt là mỗi lần
cây bông sứ đau đớn rúng động cả châu thân, nhựa cây như chảy dồn dập
hơn, da cây như co rúm lại. Có khi cây bông sứ rung rung và những giọt sương
rơi xuống như giọt nước mắt xót thương. Con cò không để ý tới những
dấu hiệu đó. Ngày này sang ngày khác, nó mang cá tới cây bông sứ để ăn
thịt. Ăn hết cá nó ăn đến tôm. Đống xương cá dưới gốc cây đã cao bằng
hai cái thùng lớn. Với niềm thương trong lòng, cây thầm nguyện sau
này nếu được làm người, sẽ gắng hết sức để bảo vệ kẻ yếu và ngăn chận
không cho kẻ hung bạo và xảo quyệt đi lừa gạt và tàn hại kẻ khác.
Ngày
hôm ấy, dưới ao, cá và tôm đã hết. Chỉ còn có một con cua. Lúc đầu cò
ta chê, nhưng sau đó đói bụng quá, nó lại gần bờ nước và nói:
-
Này cháu, tất cả những tôm cá mà ta đã chở tới hồ sen, hiện đang sung
sướng vẫy vùng bên đó. Cháu lại đây, bác chở qua đó luôn.
-
Bác thì làm sao chở được cháu? Cháu là một con cua mà.
-
Thì bác cắp cháu trong mỏ bác, như đã chở những đứa khác.
-
Bác mà cắp cháu trong mỏ bác thì không chắc lắm. Bác có thể để cho cháu rơi
xuống và cháu sẽ vỡ toang.
-
Đừng có sợ, cháu. Bác sẽ ngậm cháu thật chặt.
Con
cua suy nghĩ: có thể là cò đã thả tất cả tôm cá xuống hồ sen. Cũng có thể
là cò đã ăn thịt hết tất cả họ hàng nhà tôm và họ
hàng nhà cá. Ta hãy cẩn thận. Ta phải đề phòng. Nếu cò thả ta
xuống hồ thì đó là chuyện tốt. Nếu cò muốn ăn thịt ta thì ta cũng có
sẽ cách tự vệ.
Nghĩ
như thế, cua nói với cò:
-
Bác ơi, mỏ bác không đủ mạnh để giữ cho cháu khỏi rơi đâu. Bác phải để cháu bám
vào cổ bác bằng hai cái càng của cháu mới được.
Cò
bằng lòng ngay, nó để cho cua bám vào cổ nó. Cò vỗ cánh bay đi, nhưng thay vì
bay ra phía hồ sen, cò lại bay thẳng đến cây bông sứ.
-
Bác ơi, tại sao bác không đưa cháu xuống hồ mà lại đem cháu đi đâu thế?
-
Cháu ơi, ai dại dột mà đi chở mướn cho bọn bay. Tao đâu có phải là
đầy tớ của bọn mày. Tao chỉ muốn chở bọn mày tới đây để ăn thịt từng
đứa mà thôi. Coi kìa, mày có thấy đống xương cá cao nghệu dưới gốc
cây bông sứ không? Đó, mày cũng sẽ chấm dứt cuộc đời của
mày nơi đó.
-
Bác cò ác độc ơi, tụi tôm cá ấy dại dột quá nên mới bị bác
lừa và ăn thịt, nhưng cháu thì bác đừng có hòng mà ăn thịt được
cháu. Bác hãy mang cháu về dưới hồ đi, nếu không cháu sẽ kẹp đứt cổ
bác cho mà xem.
Nói
xong, cua bắt đầu xiết những gọng kềm của mình trên cổ cò. Những cái càng cua
siết cứng khiến cho cò ta đau quá. Cò kêu lên:
-
Thôi anh Hai ơi, anh Hai đừng kẹp tôi đau quá. Để tôi đưa anh xuống hồ.
Tôi không dám ăn thịt anh đâu.
Cò
nghiêng cánh bay ra hồ sen và đặt cua xuống bờ nước, nơi có chút
ít bùn lầy. Cua vẫn chưa buông cổ cò. Nghĩ tới bao nhiêu tôm cá trong hồ bị
cò tàn sát hết. Cua nghiến răng kẹp hai cái càng thật mạnh, khiến cho cổ cò bị
thương, rồi cua mới bò xuống nước. Cò hoảng sợ và đau đớn bay đi, không còn dám
bén mảng đến hồ sen nữa.
Ngày
ấy ta là cây bông sứ, ta chứng kiến từng chi tiết nhỏ
của tấn bi kịch này. Ở đời, ăn hiền ở lành thì sẽ được
người hiền lành giúp đỡ. Ăn ở độc ác sớm muộn gì cũng
lâm vào cảnh thảm thương. Ta đã học được bài học đó. Ta nguyện đời
đời sẽ làm việc lợi ích cho muôn loài. Ta đã làm người trong
nhiều vạn kiếp. Giờ đây, gặp các con, ta muốn truyền lại bài học ta đã
học ngày xưa cho các con nghe.
Tất
cả các trẻ em có mặt tại hoàng cung đều chăm chú nghe Bụt thuật
chuyện tiền thân. Đứa nào cũng thương cho cây bông sứ và cho tất cả những
loài tôm cá bị lừa gạt. Đứa nào cũng căm giận con cò và khen con cua là
biết lo xa. Bụt lặng yên và những em thiếu nhi quay lại thầm
thì với nhau về câu chuyện người vừa kể.
Vua
Bimbisara đứng dậy. Đi tới trước Bụt, vua chắp tay lại làm lễ Người. Vua nói:
-
Hôm nay bậc tôn quý trên đời đã ban cho người lớn và các em thiếu nhi
một bài học thật quý giá. Trẫm mong thái tử Ajatasattu thấm
nhuần được lời dạy và đạo đức của Người. Vương quốc Magadha có
được may mắn lớn nên Người mới dừng chân hoằng hóa nơi đây. Trẫm có
một món quà muốn dâng lên bậc giác ngộ và tăng đoàn của
Người, không biết Người có đồng ý cho trẫm được dâng cúng món quà ấy không?
Bụt
không nói. Người đưa mắt nhìn vua, có ý muốn vua nói tiếp.
Vua im lặng một lát rồi nói:
-
Về phía Bắc thủ đô Rajagaha có một vườn tre rất rộng và rất đẹp mà trẫm gọi
là Trúc Lâm, hay gọi là Venuvana. Trúc Lâm cách cửa Bắc của kinh
đô chỉ chừng hai dặm. Công viên này rất yên tĩnh, rất mát mẻ và có
rất nhiều con sóc hiền lành. Trẫm muốn hiến cúng công viên ấy lên Bụt
và tăng đoàn của người để làm trụ sở tu học và hành
đạo. Mong đức Từ Bi chấp nhận cho lòng thành của trẫm.
Bụt suy
nghĩ. Đây là lần đầu tiên tăng đoàn được hiến tặng một trú sở để làm
nơi tu học. Các vị khất sĩ trong tăng đoàn có người thì khỏe,
nhưng có người thì già yếu, cũng cần có một nơi để an cư trong mùa
mưa. Ta nên vì họ mà chấp nhận tặng phẩm này.
Nghĩ
như thế, Bụt mỉm cười và gật đầu ưng thuận. Vua Bimbisara
mừng rỡ. Vua nghĩ rằng cơ sở đó có thể giữ được bậc giác ngộ lâu
dài tại vương quốc mình. Trong số các vị tân khách, có nhiều người thuộc
giới lãnh đạo Bà la môn. Họ không mấy hoan hỷ về quyết
định này của vua, nhưng họ vẫn giữ im lặng.
Vua
truyền mang ra một cái bình vàng. Ngài tự tay làm lễ rót nước trong bình lên
tay Bụt, và trang trọng tuyên bố:
-
Bạch Thế Tôn, cũng như nước trong chiếc bình vàng này tuôn chảy vào tay Người,
khu vườn Trúc Lâm đã được trẫm hiến tặng cho Người và giáo
đoàn do Người lãnh đạo.
Lễ
bàn giao đã xong. Cuộc thừa tiếp giáo đoàn đã kết
thúc, Bụt và một ngàn hai trăm năm mươi vị khất sĩ từ
giã hoàng cung.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét