Thích Nhất Hạnh
Chương 31
Sang xuân Ta sẽ trở về.
Ngay
ngày hôm sau, Bụt và các vị trưởng thượng trong giáo
đoàn đi thăm viếng Trúc Lâm. Thật là một nơi cư trú lý
tưởng cho giáo đoàn khất sĩ. Khu vườn rộng vào
khoảng bốn chục mẫu. Tre mọc xanh tốt, đủ cả các loại. Hồ
Kalandaka tọa lạc ở giữa rừng tre là một nơi rất thuận
lợi để các vị khất sĩ tắm giặt và đi kinh hành. Tre rất
nhiều, những chiếc thảo am có thể được dựng lên rải rác để làm chỗ cư
trú cho các vị đại đức lớn tuổi. Các vị đệ tử lớn như
Kondanna, Kassapa, Sariputta v.v... đều rất hoan hỷ. Họ họp nhau lại
và hoạch định cách tổ chức Trúc Lâm thành một tu
viện có quy củ. Bụt dạy:
-
Mùa mưa không tiện lợi cho sự du hóa. Các vị khất
sĩ cần có nơi an cư trong mùa mưa để cùng tu học với
nhau. Như vậy họ tránh được mưa giông và tránh dẫm đạp lên côn trùng, động
vật thường bò ra ngoài lúc mưa. Tôi muốn mỗi năm cứ vào đầu mùa mưa, các
vị khất sĩ phải tìm nơi an cư tu học với nhau, khỏi
phải đi du hành đây đó. Trong ba tháng ấy, thiện
nam và tín nữ có thể mang thực phẩm tới cúng
dường tại các trung tâm an cư, và mỗi ngày, họ sẽ được các
vị xuất gia chỉ dạy về đạo lý tỉnh thức. Truyền
thống an cư được thiết lập, chỉ còn mười lăm hôm nữa, mùa
an cư được bắt đầu.
Dưới
sự điều khiển của đại đức Moggallana, các vị khất sĩ trẻ
tuổi đã dựng lên một tịnh xá nhỏ cho Bụt và nhiều tịnh
xá nhỏ khác cho các vị khất sĩ trưởng thượng hoặc lớn tuổi.
Tất cả đều được làm bằng tre, tranh, và bùn đất. Tịnh xá của Bụt tuy
nhỏ nhưng rất xinh xắn. Phía sau tịnh xá có một bụi tre vàng rất
đẹp. Bên trái tịnh xá cũng có một bụi tre thật xanh tươi và cao. Bụi
tre này cho Bụt rất nhiều bóng mát. Thầy Nagasamala đã đóng cho Bụt một cái
chõng tre để người nằm nghỉ. Người cũng ngồi thiền trên đó. Thầy lại
còn kê cho Bụt một vại nước ở phía sau tịnh xá để người có chỗ rửa
mặt và tay chân. Thầy Nagasamala là một vị khất sĩ trẻ. Trước đây thầy
đã từng là đệ tử của đại đức Uruvela Kassapa, khi đại
đức còn chưa xuất gia theo Bụt. Từ ngày dọn về tu
viện Trúc Lâm, thầy Nagasamala được đại đức Kassapa tiến cử lên
Bụt để làm thị giả cho Người.
Đại
đức Sariputta đã tiếp xúc với một vị cư sĩ ở
thành Vương Xá và vị cư sĩ này đã đem cúng
dường tu viện Trúc Lâm một chiếc chuông đồng. Đại
đức đã cho treo chuông gần hồ Kalandaka dưới một cành cổ
thụ. Tiếng chuông báo hiệu giờ giấc tu học trong tu
viện, và trở thành hiệu lệnh cho tất cả tăng đoàn. Bụt dạy mỗi
khi nghe tiếng chuông, tất cả mọi người đều phải theo
dõi hơi thở và thực tập chánh niệm. Tiếng
chuông như vậy không chỉ có tác dụng thông báo giờ giấc mà
còn có tác dụng nhắc nhở mọi người trở
về với chánh niệm nữa.
Các
vị đệ tử cư sĩ của Bụt ngày nào cũng hay lui tới Trúc
Lâm để giúp đỡ công trình kiến thiết tu viện. Họ
được đại đức Kassapa cho biết là ngày trăng tròn sắp
đến, tăng đoàn sẽ bắt đầu an cư tu học tại Trúc
Lâm. Đại đức nói:
-
Đây là một dịp để các vị khất sĩ được thực
tập đạo giải thoát trực tiếp dưới sự hướng dẫn của Bụt. Họ sẽ có
nhiều thì giờ học hỏi và thực tập hơn trong mùa
an cư. Đồng thời họ cũng tránh được mưa giông và sự dẫm đạp
lên các loài chúng sinh thường xuất hiện rất nhiều vào mùa
mưa trên các con đường, nhất là những con đường thôn dã.
Trong thời gian ba tháng an cư của các thầy. Quý vị có thể mang thức
ăn tới cúng dường Bụt và tăng đoàn. Quý vị có thể họp nhau
để tổ chức việc cung cấp thực phẩm cho tăng đoàn, như thế
thì sẽ không có ngày nào thức ăn bị dư hoặc bị thiếu. Tất cả các
vị thí chủ, dù là người nghèo khổ nhất và chỉ có thể cúng
dường một vài chiếc bánh chappati, cũng đều được mời ở lại để nghe Bụt
hoặc một vị cao đệ của người thuyết pháp. Mùa an cư sẽ đem lại
nhiều tiến bộ cho sự tu học của tăng đoàn cũng
như là của các vị đệ tử tại gia.
Đại
đức Kassapa lãnh đạo tăng đoàn rất giỏi mà tổ chức
giới cư sĩ cũng giỏi. Thầy đã hội họp với những vị thí
chủ của tu viện và đã giúp cho họ điều hợp việc cúng
dường và hổ trợ tu viện. Các vị khất sĩ, ngoài áo cà
sa, bình bát và nệm ngồi thiền, còn được cúng
dường một chiếc khăn lau mặt và một chiếc lọc để lọc nước uống nữa.
Ngày an
cư đã đến, và thời khóa tu học do các vị trưởng
thượng ấn định, đã được tăng đoàn chấp hành theo một
cách nghiêm chỉnh. Buổi sáng vào lúc đầu canh tư, đã có
chuông báo thức. Sau khi rửa mặt, các vị khất sĩ bắt
đầu thiền tập ngay tại chỗ của mình. Mọi người thực
tập thiền tọa và kinh hành nhiều lần cho
đến khi mặt trời đã lên tới đầu ngọn tre. Sau đó là giờ
đi khất thực. Đại chúng chỉ nghỉ đi khất thực vào
những ngày có thí chủ cúng dường thực phẩm đầy đủ
cho tu viện. Vào những ngày này, các vị khất sĩ có thể sử
dụng thì giờ buổi sáng để đi tìm y chỉ sư của mình
mà học hỏi thêm giáo lý và tham vấn về những điều
mình chưa nắm vững trong lãnh vực giáo nghĩa cũng như
trong lãnh vực thực tập.
Y
chỉ sư là một vị khất sĩ đã đạt tới nhiều tiến bộ trên
con đường học hỏi và hành trì. Các vị đại đức như
Kondanna, Assaji, Kassapa, Sariputta, Moggallana, Bhaddhiya, Vappa, Mahanama
v.v... đều là những vị y chỉ sư lớn, mỗi vị phụ trách hướng
dẫn năm sáu mươi vị khất sĩ mới học. Có những vị y chỉ
sư hướng dẫn mười vị, có vị hướng dẫn hai mươi vị, có vị hướng dẫn ba mươi
vị ... Vị khất sĩ mới học nào cũng có y chỉ sư của mình. Đó
là người huynh trưởng trong đạo mà mình cần nương tựa vào để học
hỏi. Đại đức Kassapa đã cùng với đại đức Sariputta làm công
việc sắp xếp này rất kỹ lưỡng trước ngày an cư.
Vào
đầu giờ Ngọ, các vị khất sĩ đều đã có mặt tại tu viện. Họ
mang bát đứng thành từng hàng dài ở sân cạnh bờ hồ. Sau khi đã được cúng
dường hoặc đã san sẽ thực phẩm xin được cho nhau, mọi
người ngồi xuống trên bãi đất trống và bắt đầu thọ trai trong im
lặng. Họ không bao giờ ngồi trên bãi cỏ để thọ trai hay dẫm đạp lên cây cỏ. Buổi
trai phạn hoàn tất vào cuối Ngọ. Mọi người quây quần bên
Bụt. Có khi Người giảng dạy cho các vị khất sĩ và các vị
cư sĩ được dự thính. Lại có những buổi giảng dạy cho các em thiếu
nhi và tất cả những người lớn tuổi của cả hai giới xuất
gia và tại gia. Thường thường trong các buổi giảng cho trẻ
em, Bụt hay dùng những câu chuyện tiền thân.
Có
khi các đại đức cao đệ của Bụt đứng ra giảng dạy thay Bụt.
Những lúc ấy, Bụt ngồi nghe, và Người thường mở lời khen ngợi
khi đạo lý giải thoát được diễn bày một cách đúng mức
và thông minh. Sau buổi thuyết pháp, giới đệ tử tại
gia ra về. Mọi người có được một thời gian nghỉ ngơi.
Sau đó chuông lại báo hiệu giờ thiền tọa và thiền
hành. Các thầy thực tập tham vấn và học hỏi cho
đến đầu giờ Hợi mới đi nghỉ.
Bụt
thường thiền tọa cho đến nửa đêm. Người hay bắc chiếc chõng tre
ra trước tịnh xá ngồi cho mát, nhất là vào những đêm có trăng. Mỗi
buổi sáng khi thức dậy, Người ưa đi thiền hành, Người không cần ngủ
nhiều giờ như các vị khất sĩ trẻ tuổi. Đại đức Kassapa cũng
thức rất khuya để thiền tập.
Vua
Bimbisara rất siêng năng đến Trúc Lâm để thăm Bụt và tăng đoàn.
Vua không đem theo hàng trăm người như lần đầu đi gặp Bụt ở rừng Kè.
Những lần đi thăm Bụt ở Trúc Lâm, vua chỉ đem theo hoàng hậu
Vedehi và thái tử Ajatasattu. Có khi vua đến một mình. Để
xe tứ mã và quân hầu phía ngoài tu viện, vua đi bộ vào tịnh
xá của vị đại sa môn.
Có
một hôm, thấy các vị khất sĩ ngồi dưới mưa để nghe giảng, vua bạch
với Bụt xin xây cất một Pháp đường trong đó chư vị xuất
gia có thể thọ trai và nghe Pháp. Được sự chấp thuận của
Bụt. Pháp đường được xây dựng ngay sau cuộc viếng thăm của
vua. Pháp đường không những che mưa nắng cho trên một ngàn
vị xuất gia mà còn che mưa nắng được cho khoảng một ngàn
vị đệ tử cư sĩ nữa. Từ hôm Pháp đường được xây
dựng xong, đời sống của tu viện đã bắt đầu có
đủ tiện nghi.
Bụt
đưa vua vào thăm tịnh xá bằng tre của mình và mời vua ngồi thử trên
chiếc chõng tre của Bụt. Thầy thị giả của Bụt cũng đã đóng cho Bụt
hai chiếc ghế bằng tre để Bụt tiếp khách. Một hôm Bụt mời vua ngồi chơi
với Bụt trên những chiếc ghế tre đặt trước tịnh xá. Sau một hồi đàm đạo,
vua tâm sự:
-
Trẫm có một đứa con trai khác mà Bụt chưa gặp. Trẫm rất muốn nó và mẹ nó tới
thăm Ngài. Thưa Thế Tôn, mẹ nó không phải là hoàng hậu Vedehi. Mẹ nó tên
là Ambapali, nó tên là Jivaka, năm nay mười sáu tuổi. Mẹ nó cư trú tại Vesali,
phía Bắc thành phố Pataliputta. Ambapali không ưa đời sống chật hẹp
trong cung cấm. Ambapali không màng chức tước và địa vị. Nàng chỉ
thích tự do. Trẫm đã ban cho hai mẹ con mấy cơ sở tự
túc kinh tế, trong đó có một vườn Xoài rất đẹp. Jivaka rất thông
minh và đôn hậu. Jivaka cũng không thích chính trị và quyền binh.
Hiện nó đang ở gần thủ đô và đang học nghề y sĩ. Trẫm thương nó
lắm, cầu xin Bụt cũng thương nó như trẫm. Nếu được đức Từ
Bi chấp nhận, trẫm sẽ bảo nó về đây thăm Ngài và để được học
hỏi với Ngài.
Bụt mỉm
cười lặng thinh, đó là dấu hiệu Người ưng thuận. Vua chắp
tay chào Bụt và từ giã.
Một
buổi chiều hôm nọ, có hai người khách đặc biệt tới viếng Bụt
ở tu viện Trúc Lâm. Hai người ấy đến từ quê hương của Bụt, kinh đô
Kapilavatthu. Đó là Kaludayi và Channa. Kaludayi là bạn học từ thuở bé của Bụt,
và Channa là người hầu cận ngày xưa thường đánh xe đưa Bụt đi chu du
khắp vương quốc. Cuộc gặp gỡ này làm ấm cả Trúc Lâm tịnh xá.
Bụt
xa nhà đã bảy năm, và Người cũng muốn nghe về tin tức ở quê nhà.
Người hỏi thăm Kaludayi về phụ vương, hoàng hậu, Yasodhara, Nanda,
Sundari Nanda, Rahula và tất cả những người thân thuộc. Kaludayi tuy còn
rất khỏe nhưng nét mặt đã dạn dày sương gió. Channa thì đã già hẳn đi. Hai
người được Bụt tiếp chuyện rất lâu trước túp lều tranh của Người. Kaludayi đã
có chức tước quan trọng trong triều và đã trở thành một trong những
người phụ tá thân tín của vua Sudhodana. Ông nói là tin
Bụt thành đạo và đang hoằng hóa ở vương quốc Magadha đã được truyền
về Kapilavatthu liên tiếp từ hai tháng nay. Ai nghe tin này
cũng vui mừng khôn xiết.
Mừng
rỡ nhất là vua, hoàng hậu, và Gopa. Khi nguồn tin đã được liên
tiếp xác nhận, vua đã ủy thác cho Kaludayi đi mời Bụt trở
về quê hương. Kaludayi rất sung sướng khi được vua giao cho
trọng trách này. Ông để ra ba hôm để chuẩn bị chuyến đi, và suốt cả mấy đêm ông
không ngủ được vì náo nức trong dạ. Ông đã qua thăm Yasodhara để trình bày
với phu nhân về chuyến đi. Phu nhân rất vui mừng và đề nghị
cho Channa đi theo. Khi được báo tin là sẽ cùng thượng quan Kaludayi đi
mời Bụt trở về, Channa đã mừng rơi nước mắt. Hai người đã đi gần một tháng mới
tới được tu viện Trúc Lâm.
Theo
lời Kaludayi thì sức khỏe phụ vương đã có phần suy giảm. Ngài
vẫn còn sáng suốt, và hiện nay ngài có đủ người phụ tá giỏi
trong công việc triều chính. Hoàng hậu Gotami vẫn còn rất khỏe. Hoàng tử
Nanda đã lớn và đã đính ước với một tiểu thư con nhà dòng dõi tên là
Kalyani. Nanda rất đẹp trai và rất ưa chưng diện, nhưng tính
tình không được cương nghị cho mấy. Sundari Nanda em gái Bụt đã trở nên
một cô thiếu nữ kiều diễm. Phu nhân Yasodhara, thì từ ngày
Bụt ra đi, bà đã bỏ hết mọi đồ trang sức. Bà ăn mặc rất giản dị, bao
nhiêu vật quý giá trong cung bà đã cho đem bán hết để lấy tiền giúp đỡ cho
những gia đình túng quẩn ở các xóm nghèo.
Nghe nói Bụt mỗi ngày chỉ ăn một bữa, bà cũng bắt đầu mỗi ngày chỉ ăn một bữa. Bà
vẫn còn làm việc từ thiện xã hội như xưa với sự góp sức của
hoàng hậu Gotami. Rahula đã trở thành một cậu bé bảy tuổi xinh
đẹp, mạnh khỏe, hai mắt đen láy, thông minh và quả cảm.
Rahula rất được ông nội và bà nội cưng chiều, yêu quý không khác gì cưng quý
Siddhatta ngày xưa.
Bụt
ngồi nghe và cảm thấy rất ấm lòng. Cuối cùng, Kaludayi hỏi
Bụt chừng nào Người có thể lên đường trở lại quê
hương, Bụt nói:
-
Đầu mùa xuân, tôi sẽ về. Bây giờ đang là mùa mưa, việc du
hành đã trở nên không thuận lợi. Với lại trong số một ngàn
hai trăm năm mươi vị khất sĩ, có rất nhiều vị còn non yếu trên con
đường thực tập. Sau mùa an cư này họ sẽ vững vàng hơn,
và tôi có thể an tâm hơn để ra đi.
Kaludayi!
Bạn hãy ở lại đây chơi một tháng, Channa cũng vậy. Sau đó các vị có thể về nước
và báo tin cho phụ vương ta biết là đầu mùa xuân ta sẽ lên
đường trở lại quê nhà.
Kaludayi
và Channa lưu lại tu viện Trúc Lâm như người khách. Họ làm quen
với các vị khất sĩ. Họ thấy được nếp sống thanh tịnh an
lạc của người xuất gia. Họ thấy được ảnh hưởng của
đạo giải thoát trên tâm hồn và trong nếp
sống hàng ngày của người xuất gia. Kaludayi ngày nào cũng được gần
Bụt. Ông quán sát Bụt rất kỹ. Ông thấy được sự an nhiên mầu
nhiệm của Bụt. Con người này đã đạt tới chỗ không còn mong muốn
hay tìm cầu một cái gì khác nữa. Bụt như một con cá thảnh thơi trong
nước, như một đám mây thảnh thơi bay trên trời. Người hoàn
toàn tỉnh thức và an trú trong hiện tại.
Cái
nhìn và nụ cười của Bụt chứng minh rằng Bụt đã đạt tới tự
do tuyệt đối của thân tâm. Không còn gì có thể ràng
buộc được con người này, nhưng cũng không ai có được
sự hiểu biết và lòng thương yêu rộng lớn và không điều
kiện của Người. Kaludayi thấy người bạn học năm xưa đã bỏ mình xa
quá trên con đường hiểu biết. Ông bỗng ao ước được
sống đời sống tịnh lạc của một kẻ xuất gia dưới sự hướng
dẫn của Bụt. Ông muốn bỏ hết địa vị, chức tước và những lo
lắng phiền muộn của cuộc sống lợi danh. Sau ngày thứ bảy cư trú
tại Trúc Lâm, ông ngõ ý xin Bụt xuất gia. Bụt tỏ vẻ ngạc nhiên,
nhưng Người đã gật đầu ưng thuận.
Channa
là một người hầu cận rất trung thành. Thấy Kaludayi được xuất gia,
ông cũng muốn được xuất gia. Nhưng ông nghĩ rằng, bây giờ ông không
thể xuất gia nếu chưa được phép của lệnh bà Yasodhara. Vì
vậy ông tự bảo phải chờ đến khi Bụt trở về Kapilavatthu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét