Thích Nhất Hạnh
Phần 4
Giác ngộ
Chương 17
Chiếc lá Pippala.
Ngồi dưới gốc cây Pippala, sa môn Gotama tập
trung hết định lực và quán chiếu vào nội thân. Định
lực của ông dạt dào và niệm lực của ông mạnh mẽ. Ông thấy cơ thể
mình như một dòng sông đang trôi chảy bất tận và những tế bào trong
cơ thể là những giọt nước xô đẩy nhau trên dòng sinh khởi, trưởng
thành và biến diệt. Ông không thấy được một cái gì có tính chất đồng
nhất và bất biến có thể gọi là tự ngã cả. Xen lẫn trong trong
dòng sông cơ thể, ông nhận thấy có một dòng sông khác: đó là dòng
sông cảm thọ, trong đó mỗi cảm giác là một giọt nước. Những giọt
nước cảm giác này cũng xô đẩy nhau trong quá trình sinh
khởi, tồn tại và biến diệt của chúng. Có những cảm giác dễ
chịu, có những cảm giác khó chịu, và có những cảm giác không dễ
chịu cũng không khó chịu.
Tự thân của những cảm giác cũng vô thường và
luôn luôn sinh diệt giống như tự thân của các tế bào trong
cơ thể. Với định lực vững chắc, sa môn Gotama khám
phá ra thêm dòng sông tri giác đang trôi chảy len lõi
giữa các dòng sông cơ thể và dòng sông cảm giác. Những giọt nước trong
dòng sông tri giác cũng xô đẩy nhau và ảnh hưởng lẫn nhau
trên đà sinh trưởng và hoại diệt của chúng. Thế
giới hiện hữu của ta là thế giới của tri giác; tri
giác chính xác thì thực tại hiển lộ, tri giác sai
lầm thì thực tại lu mờ. Tri giác sai lầm làm phát
sinh bao nhiêu cảm giác khổ đau trong dòng sông cảm
thọ. Con người sở dĩ lặn hụp trong khổ đau là vì những nhận
thức sai lầm của họ: vô thường thì cho là thường, vô
ngã thì cho là ngã, không sinh diệt thì cho là có sinh
diệt, cùng chung một tự tính mà lại cho là riêng lẻ tách
biệt.
Sa môn Gotama quán chiếu những hiện
tượng tâm lý thường được xem là nguồn gốc của các cảm thọ khổ
đau: những tâm lý sợ hãi, giận dữ, căm thù, kiêu
mạn, ganh ghét, tham đắm, ham muốn và u mê. Chánh niệm bừng tỏ nơi
ông như một mặt trời. Đem mặt trời chánh niệm ấy soi vào
lòng của các hiện tượng tâm lý kia, ông thấy rằng bản
chất của chúng đều là sự u mê tăm tối. Tên nó là vô minh. Tên nó
là sự thiếu sáng suốt. Chìa khóa của giải thoát chính là đập
tan u mê, và thể nhập vào bản chất của thực tại, để có
một cái biết sâu sắc và chân thực về thực tại. Cái biết này
không phải là cái biết của tri thức lý luận ở thế gian. Cái biết này phải là cái biết trực tiếp từ trải nghiệm tu tập, của thực chứng.
Cái biết của sự xuất thế.
Ngày ấy, sa môn Siddhatta đã tìm đủ mọi cách để chế ngự sợ
hãi, chế ngự giận dữ, chế ngự tham đắm, chế ngự ham muốn, nhưng
những phương cách ấy đều không có hiệu quả, vì chúng chỉ là sự kiểm
soát, đè nén và đàn áp thân tâm. Giờ đây, Siddhatta biết được bản
chất thực sự của chúng chỉ là u mê: giải tỏa u mê và đi tới
sự hiểu biết. Khi thấu hiểu chúng, tức là làm cho chúng tự tan biến, ví như ánh mặt
trời ló dạng thì tự khắc bóng tối không còn. Sự hiểu biết này là
kết quả của quá trình quán chiếu. Giải thoát không phải là
kết quả của sự lẫn tránh thực tại, mà giải thoát chính là sự
thấu hiểu được tự thân của thực tại, để đạt tới sự tự do, buông
xả tất cả để cắt đứt mọi sợi dây ràng buộc.
Sa môn Gotama mỉm cười. Ông ngửng lên, thấy một chiếc lá
Pippala in trên nền trời xanh, đuôi lá hướng xuống đất và phe phẩy như đang gọi
ông. Chiếc lá này là một thực tại mầu nhiệm. Nhìn chiếc lá, ông
thấy được cả vũ trụ, mặt trời và trăng sao. Nếu
không có vũ trụ thì không có mặt trời, nếu không có mặt
trời, thì không có ánh sáng và sức nóng, chiếc lá không thể nào có
mặt trên đời này. Cái này có mặt vì cái kia có mặt. Ông lại thấy một đám
mây bay lửng lơ trong chiếc lá. Nếu không có đám mây kia
thì không có những giọt mưa và nếu không có mưa thì đất không có
nước, nếu vậy thì làm gì có chiếc lá này tồn tại. Ông thấy đại địa. Ông
thấy thời gian. Ông thấy không gian. Ông thấy tâm thức. Tất cả
đều đang có mặt trong chiếc lá. Cả vũ trụ đã có mặt trong chiếc lá
này. Địa, thủy, hỏa, phong, không, thời, phương, thức, tất cả đều có mặt với
chiếc lá trong giờ phút hiện tại này.
Cái này sinh thì cái kia sinh, và ông thấy thực tại của
chiếc lá cùng với thực tại của bản thân ông chỉ là một.
Chiếc lá ấy dường như chỉ mới có mặt từ đầu mùa xuân năm nay, nhưng
thật ra chiếc lá đã có mặt không biết tự bao giờ. Trong ánh nắng đã
có sẵn chiếc lá. Trong đám mây đã có sẵn chiếc lá. Trong cây đã có sẵn
chiếc lá, và trong Siddhatta, cũng đã có sẵn chiếc lá. Chiếc lá thực
ra chưa từng bao giờ sinh, chưa từng bao giờ diệt, chiếc lá chỉ là
biểu hiện hình tướng vật chất mà thôi. Sa môn Siddhatta
cũng chưa bao giờ từng sinh, cũng chưa từng diệt, sa
môn Siddhatta cũng chỉ được hiểu hiện qua hình tướng của một con người.
Những ý niệm sinh diệt và còn mất là những ý niệm xuất
phát từ nhận thức sai lầm, từ vô minh mà ra. Tự thân của chiếc lá
Pippala cũng như tự thân của vị sa môn Gotama chưa từng bao
giờ sinh diệt. Sự có mặt của một hiện tượng kéo theo sự có mặt
của tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ. Một đối tượng là bao hàm
cho tất cả, và tất cả được có mặt trong một đối tượng.
Chiếc lá không có cá thể biệt lập, không có một cái ngã
thường tại bất biến. Sa môn Gotama cũng vậy, ông không thể có
mặt biệt lập với vũ trụ vạn hữu, ông không có một cái ngã thường
tại bất biến. Thấy được tính cách trùng trùng duyên
khởi của vạn hữu cũng là đồng thời chứng
nghiệm được quy luật sâu xa trong tính cách vô
ngã của vạn hữu. Và chính vì vậy, chìa khóa mở
cánh cửa giải thoát sinh tử và khổ đau của nhân loại là nguyên lý của duyên sinh, nguyên lý của vô ngã.
Một đám mây trắng bay qua, và chiếc lá Pippala giờ đây
đang in hình trên nền trắng ấy. Đám mây kia chiều nay có thể sẽ gặp
một luồng khí lạnh và sẽ biến thành mưa. Đám mây là một
biểu hiện của hiện tượng, mưa là một biểu hiện nước. Tự thân của đám
mây không có sinh diệt và còn mất. Nếu đám mây biết
điều đó thì khi cần được biến thành mưa, đám mây sẽ ca
hát khi rơi xuống thành giọt trên núi rừng, trên ruộng lúa. Sa
môn Gotama thấy được rằng trong thực tại, không có gì được sinh ra, không
có gì mất đi, không có gì từ không mà trở thành có, không có gì từ có
mà trở về không, đó chỉ là sự chuyển hóa của vật chất vạn hữu trong tự nhiên và
ông vượt thoát được các ý niệm có không và sinh diệt.
Sa môn Gotama lấy cái ánh sáng chân lý này và soi chiếu lại vào những dòng
sông cơ thể, cảm thọ, tri giác, tâm tư và nhận
thức của con người. Ông thấy hầu hết những khổ đau của con
người đều được phát xuất từ nhận thức sai lầm của con
người. Nếu nhân loại thấy được tính cách vô thường, vô
ngã của thực tại thì họ sẽ giải thoát được khổ
đau. Vô thường và vô ngã là điều kiện tất yếu của
sự sống; nếu không có vô thường và vô ngã thì
không có biến chuyển sinh diệt, vì vậy không có gì có
thể sinh trưởng và phát triển. Hạt lúa nếu không có vô
thường và vô ngã thì không thể mọc thành cây lúa. Đám
mây nếu không vô thường và vô ngã thì không thể
nào biến thành cơn mưa. Em bé nếu không có vô
thường và vô ngã thì không thể lớn lên. Vì vậy chấp
nhận sự sống tức là chấp nhận vô thường và vô ngã. Khổ
đau bắt nguồn từ sự nhận thức vô thường là thường, và vô
ngã là ngã. Chứng nhập được tự tánh vô
thường và vô ngã của vạn hữu là thoát ra được vòng khổ
đau luân hồi.
Sa môn Gotama thấy rằng một khi đã chứng
nhập được tự tánh vô thường và vô
ngã của vạn hữu thì tự tánh không của vạn
hữu cũng bắt đầu hiển lộ. Không tức là không sinh cũng
không diệt, không có cũng không không, không một cũng không nhiều, không
trong cũng không ngoài, không lớn cũng không nhỏ, không nhơ cũng không sạch ...
Tất cả những ý niệm về không và có, sinh và diệt, một và nhiều, trong
và ngoài, lớn và nhỏ, nhơ và sạch ... đều do những khuôn khổ khái niệm phân
biệt hẹp hòi của tri giác tạo nên. Thâm nhập được
vào thể tính không của vạn pháp, Siddhatta vượt lên trên của tất
cả mọi phạm trù ấy của tri giác.
Đêm này qua đêm khác, sa môn Gotama ngồi
thiền định dưới gốc cây Pippala, chiếu rọi ánh sáng
vào thân tâm và vào vũ trụ. Năm người bạn đồng tu của
ông đã bỏ ông từ lâu. Bạn tu của ông bây giờ cũng là núi rừng, là dòng
sông, là chim chóc, là hàng vạn côn trùng dưới đất trên cây. Hoặc bạn tu của
ông giờ là cây đại thọ Pippala. Đêm nào ông cũng ngồi thiền định
cho tới khuya. Bọn trẻ con trong xóm mỗi khi đem thức ăn cho ông
thường chỉ ở lại một lát vào giờ trưa, giờ nóng bức nhất trong ngày.
Trưa hôm ấy, Sujata đem cúng dường ông một bát đề
hồ nấu với sữa và mật ong. Svastika cũng đem đến tặng cho ông một mớ cỏ Kusa
rất tươi để ông trải làm tọa cụ. Svastika lùa trâu đi rồi, ông biết là nội
trong đêm nay, ông sẽ đạt tới được tận cùng của sự thức tỉnh mầu
nhiệm.
Chiều hôm ấy, sa môn Gotama đi thiền hành bên bờ
sông, lội xuống sông tắm gội, rồi lại lên bờ sông đi thiền hành. Khi nắng
bắt đầu tắt bên sông, ông trở lại với gốc cây Pippala quen
thuộc. Nhìn gốc cây với thảm cỏ Kusa mới trải, Siddhatta mỉm cười. Ngồi ở
nơi đây, ông đã thực hiện được bao nhiêu khám phá quan
trọng. Ông biết giờ phút mà ông chờ đợi từ lâu đã sắp đến. Cánh cửa của sự
giác ngộ hoàn toàn sắp được mở tung.
Khoan thai, Siddhatta ngồi xuống và điều chỉnh thế ngồi
trong tư thế hoa sen. Ông đưa mắt nhìn xung quanh. Dưới kia dòng
sông đang lặng lẽ trôi. Những ngọn gió thật nhẹ đang lướt qua bờ cỏ.
Rừng chiều vắng lặng nhưng sống động. Xung quanh ông có
tiếng rì rào của muôn loại côn trùng. Ông nhiếp tâm theo hơi
thở và khép nhẹ đôi mi. Sao Hôm đã bắt đầu ló dạng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét