Thích Nhất Hạnh
Phần 3
Lên đường tầm đạo.
Chương 13
Đạo tràng đầu tiên.
Siddhatta
và người hầu cận đã đi suốt như thế cho đến khi trời rạng sáng thì
vượt khỏi biên giới vương quốc Sakya. Trước mặt họ là con
sông Anoma. Hai người cho ngựa đi dọc theo bờ sông tìm chỗ nước cạn
để vượt qua bên kia. Qua bên kia sông, họ đi thêm một chặng đường nữa
thì dừng lại. Trước mặt là một khu rừng. Thấp thoáng trong sương
mai có bóng một con nai đi qua. Chim chóc bay quanh không hề biết sợ hãi.
Siddhatta nhảy xuống ngựa. Chàng mỉm cười đưa tay vuốt bờm con
Kanthaka:
-
Kanthaka, con giỏi lắm. Con đã giúp ta tới được nơi đây, ta cảm ơn con.
Con
ngựa quý đưa mắt nhìn chàng. Siddhatta rút thanh kiếm đeo bên yên ngựa. Với tay
trái, chàng nắm mớ tóc mây và tay mặt cầm kiếm, chàng cắt ngang mái tóc. Channa
đã xuống ngựa. Chàng đưa mớ tóc và thanh kiếm cho Channa. Rồi chàng cởi tràng
ngọc đang đeo trên cổ ra:
-
Channa, anh hãy đem chuỗi ngọc, thanh kiếm và mớ tóc này về cho phụ vương
ta. Anh thưa với ngài rằng: xin ngài hãy có đức tin nơi ta, ta bỏ
nhà ra đi như thế này không phải vì ta íck kỷ, hay vì ta muốn trốn
tránh bổn phận. Ta đi vì mọi người và vì muôn loài. Anh
hãy giúp ta an ủi phụ vương. Anh hãy an ủi hoàng hậu. Anh
hãy an ủi Yasodhara. Ta nhờ anh ...
Channa
tiếp lấy chuỗi ngọc, hai khóe mắt rưng rưng:
-
Điện hạ ơi, mọi người chắc là sẽ đau khổ lắm. Con chẳng biết sẽ ăn
nói ra sao với quốc vương, với hoàng hậu và với lệnh bà Yasodhara. Điện hạ
ơi, làm sao mà điện hạ có thể sống được trong rừng và ngủ dưới gốc
cây như những ông thầy tu khổ hạnh? Điện hạ từ xưa tới nay chỉ quen với
nệm ấm chăn êm trong cung vàng điện ngọc?
Siddhatta mỉm
cười:
-
Anh đừng lo. Người khác sống như thế nào thì ta cũng sẽ sống được theo
như thế ấy. Channa! Thôi anh trở về đi, về để kịp báo tin cho những người
thân, kẻo họ sốt ruột. Hãy để ta ở lại đây một mình.
Channa
đưa tay chùi nước mắt:
-
Xin điện hạ cho con ở lại đây để hôm sớm hầu hạ ngài. Xin điện hạ làm phúc! Xin
đừng bắt con mang cái tin dữ này về cho những người mà con tôn kính!
Siddhatta vỗ
vai người hầu cận, giọng chàng nghiêm nghị:
-
Này Channa! Anh biết là ta cần anh trở về báo tin cho những
người thân thuộc. Nếu anh thực sự thương ta thì anh nghe lời ta.
Ta không cần anh ở đây. Người xuất gia tu hành đâu có cần tới kẻ
hầu cận. Ta cần anh về với những người thân thuộc. Thôi anh về đi!
Channa miễn
cưỡng vâng lời. Cậu trân trọng cất giữ mớ tóc và chuỗi ngọc trong
áo, treo thanh gươm trên yên con Kanthaka, rồi đưa cả hai tay nắm lấy cánh tay
Siddhatta:
-
Con xin nghe lời điện hạ, nhưng xin điện hạ thương con,
thương mọi người. Xin điện hạ đừng quên trở về ngay sau
khi tìm được đạo.
Siddhatta gật
đầu. Chàng mỉm cười nhìn Channa với một cái nhìn khuyến khích. Chàng
vỗ đầu Kanthaka:
-
Kanthaka, con về nhé.
Channa
cầm lấy dây cương của con Kanthaka và leo lên lưng ngựa của mình. Con Kanthaka
nghểnh cổ nhìn Siddhatta một lần cuối trước khi quay gót. Hai
mắt nó dường như cũng ướt như mắt của người đã dắt nó.
Đợi
cho Channa và hai con ngựa đi khuất rồi, Siddhatta mới bước về phía cửa rừng.
Chàng đã bắt đầu cuộc sống lấy trời làm màn, lấy đất làm chiếu. Khu
rừng này sẽ là nhà của Siddhatta từ hôm nay. Một cảm giác thoải
mái và tự tại phát sinh trong chàng.
Vừa
lúc ấy, có một người từ trong rừng đi ra. Thoạt nhìn, Siddhatta tưởng rằng
đó là một vị sa môn, bởi vì người này khoác một cái áo màu chàm thường là
màu áo của người ẩn sĩ, nhưng nhìn kỹ lại, Siddhatta thấy tay người ấy cầm cung
và lưng người ấy đeo một bó tên.
-
Anh là thợ săn phải không? Siddhatta hỏi.
-
Vâng. Người ấy trả lời.
-
Anh là thợ săn, vậy tại sao anh mặc áo sa môn?
Người
thợ săn bật cười:
-
Tôi phải khoác bộ áo này để bọn thú rừng mới không sợ. Nhờ đó mà tôi dễ dàng bắt
lấy chúng.
Siddhatta
lắc đầu:
-
Như vậy là anh đã lợi dụng lòng từ bi, thương yêu chúng sinh của
người tu hành rồi. Anh có muốn tôi đổi cái áo này của tôi cho anh
không?
Người
thợ săn nhìn Siddhatta. Chiếc áo mà người đối diện mình đang mặc là
một chiếc áo trị giá ngàn vàng.
-
Ông muốn đổi thật không? Người thợ săn hỏi lại.
-
Thật chứ sao không. Siddhatta mỉm cười. Có cái áo này, anh có thể đem bán
làm vốn để tìm một nghề khác mà sinh sống, đừng làm thợ săn nữa. Còn tôi, tôi
muốn làm sa môn cho nên tôi cần cái áo của anh.
Người
thợ săn mừng rỡ. Hai người đứng ở cửa rừng đổi áo cho nhau. Người thợ săn được bộ
áo hoàng bào quý giá, hấp tấp đi ngay. Siddhatta trong chiếc áo mới đã có dáng
dấp một vị tu sĩ. Chàng bước vào rừng. Tìm một gốc cây, chàng ngồi xuống tĩnh
tọa. Lần đầu tiên trong đời, chàng sống tha phương, không nhà không cửa.
Sau
một ngày dài ở trong hoàng cung và một đêm thâu trên lưng ngựa, giờ đây
Siddhatta cảm thấy thoải mái lạ thường trong tư thế tọa
thiền. Chàng ngồi như để nghỉ ngơi và nuôi dưỡng cảm giác thư
thái mà chàng đã nếm được khi mới bước vào rừng.
Nắng
đã lên cao, một tia nắng xuyên qua những tán cây và đến đậu trên mí
mắt Siddhatta. Chàng mở mắt. Trước mặt Siddhatta hình như có một
người. Chàng ngửng lên và thấy một vị sa môn đang đứng ngắm chàng.
Vị sa môn này khuôn mặt khắc khổ, thân hình gầy ốm,
Siddhatta đứng dậy chắp tay chào hỏi. Chàng cho vị sa
môn biết là chàng vừa mới bỏ nhà đi làm sa môn, nhưng chưa
có dịp gặp được một vị đạo sư nào thu nhận cả. Chàng nói
chàng có ý định về miền Nam để tìm tới đạo
tràng của đạo sư Alar Kalama để thụ giáo.
Vị sa
môn cho Siddhatta biết là ông đã từng tu học dưới sự chỉ
dẫn của đạo sĩ Alara Kalama. Ông còn cho biết, hiện
thời đạo sĩ đang mở đạo tràng ở phía Bắc thành phố Vesali,
và đang dạy trên bốn trăm vị đệ tử. Ông biết đường đi về đạo
tràng này và sẵn sàng đưa Siddhatta tới đó.
Chàng
theo chân vị sa môn vượt qua khu rừng già, rồi theo một con
đường mòn lên ngọn đồi để đi tới một khu rừng già khác. Đi như vậy tới
trưa. Vị sa môn bảo Siddhatta ngừng lại. Rồi ông ta chỉ cho Siddhatta
cùng đi tìm hái những trái rừng và những đọt lá rừng để hai người ăn cho đỡ
đói. Siddhatta dò hỏi để biết tên của những trái cây rừng và những đọt lá rừng
này. Vị sa môn cho biết nhiều khi phải đi đào những rễ cây để ăn, nếu
không hái được trái và lá. Biết rằng mình phải sống lâu ngày trong rừng
núi. Siddhatta ghi nhớ kỹ lưỡng những lời chỉ dẫn của vị sa môn.
Siddhatta được biết rằng vị sa môn này tu theo lối khổ hạnh, chỉ
sống bằng trái rừng, đọt cây và rễ cây. Ông tên là Bhargava. Vị này cho
biết rằng, các vị sa môn tu theo đạo sĩ Alara Kalama,
không theo lối khổ hạnh, bởi họ cũng đi khất thực hoặc
nhận thực phẩm của dân cư các vùng lân cận mang
đến cúng dường.
Chín
hôm sau, hai người tới Anupiya rồi đi dần về phía đạo
tràng của đạo sĩ Alara Kalama. Đạo tràng này
được thiết lập trong một khu rừng. Họ đến vừa lúc đạo
sĩ Alara đang giảng đạo cho các đệ tử. Hơn bốn trăm người
đang vây quanh. Đạo sĩ Alara tuổi chừng bảy mươi. Người ông gầy
yếu nhưng mắt ông còn sáng và giọng ông ngân vang như tiếng
chuông đồng. Siddhatta và người bạn đồng hành đứng chờ bên ngoài
vòng và lắng nghe hết những lời giảng dạy. Buổi giảng dạy chấm
dứt, mọi người đi tứ tán trong rừng để thực tập. Siddhatta tiến
tới làm lễ đạo sĩ Alara, tự giới thiệu mình,
rồi cung kính nói:
-
Bạch thầy, xin thầy cho phép con được gia nhập vào đoàn thể
các vị sa môn ở đây và tu học dưới sự hướng dẫn của thầy.
Đạo
sĩ chăm chú ngồi nghe Siddhatta, ngắm nhìn chàng hồi lâu và tỏ
vẻ hài lòng:
-
Siddhatta, thầy rất vui và chấp nhận con. Con cứ ở lại đây. Nếu con
hành được theo pháp và luật của thầy thì chỉ trong một thời gian thôi
là con đắc đạo.
Siddhatta vui
mừng lạy tạ. Đạo sĩ Alara ở trong một túp lều do các vị đệ
tử dựng lên. Trong rừng rải rác cũng có những chòi lá khác của các sa
môn đệ tử. Tối hôm đó, Siddhatta tìm một nơi bằng phẳng để ngủ. Chàng gối
đầu lên trên một cái rễ cây. Vì mệt quá nên Siddhatta ngủ say cho
đến sáng ngày mai. Khi thức dậy, nắng đã lên, và chim chóc đã ca hát
vang rừng.
Siddhatta
chỗi dậy. Các bạn đồng tu đã dậy từ lâu và đã hoàn
tất buổi ngồi thiền đầu tiên trong ngày. Họ đang chuẩn bị
để đi vào thôn làng khất thực. Siddhatta được trao cho một chiếc
bát và dạy cho phương pháp đi vào thôn làng xin ăn.
Theo
các vị sa môn, Siddhatta ôm bát đi vào thành phố Vesali. Lần đầu
tiên ôm bát đi khất thực, Siddhatta cảm thấy cuộc đời của
người tu hành thực sự dính líu rất nhiều với đời sống xã hội con
người. Chàng học cách ôm bát, học cách đi, cách đứng, cách nhận
thức cúng dường và cách chú nguyện để cảm tạ người thí
chủ. Hôm ấy, Siddhatta đã được cúng dường một ít cơm nóng và nước cà
ri chan lên trên.
Khi
Siddhatta theo các bạn đồng tu về tới rừng thì mọi người đã bắt đầu
ngồi thọ thực. Sau buổi ăn, chàng đi tìm đạo sư Alara để được chỉ
giáo về phương pháp tu tập. Lúc chàng tới thì Alara đang
ngồi nhập định. Để chờ đợi, Siddhatta cũng ngồi nhiếp tâm trước
mặt thầy. Lâu lắm, đạo sĩ Alara mới mở mắt. Siddhatta cúi
lạy, xin thầy chỉ giáo cho mình.
Đạo
sĩ Alara gọi Siddhatta là sa môn, bởi vì Siddhatta đã chính
thức là một vị sa môn khi được chấp nhận vào giáo
đoàn. Ngài dạy cho vị sa môn về lòng tin, về sự tinh cần,
về cách thở và về sự tập trung tâm ý. Ông bảo:
- Giáo
lý của ta không phải chỉ là lý thuyết. Giáo lý của ta là
sự hành trì. Cái biết của ta là cái biết của sự tự tri, tự chứng, tự
đạt mà không phải là cái biết của lý luận. Con phải thực
hiện cho được những trạng thái thiền định, mà muốn thực
hiện cho được những trạng thái thiền định thì phải bỏ hết
những vọng tưởng về quá khứ, về tương lai và chỉ nhắm tới
hướng giải thoát mà thôi.
Vị
Sa môn Siddhatta hỏi thêm về cách điều phục thân
thể và cảm giác, rồi bái tạ vị đạo sư đi tìm một góc
rừng để hành trì. Ông đi bẻ cây bẻ lá che một mái lều dưới một gốc cây để
làm nơi nương náu mà thực tập thiền định.
Siddhatta thực tập rất chuyên cần. Cứ năm bảy hôm, ông trở lại với
Alara Kalam để thỉnh giáo về những chỗ còn bị vướn mắc. Tu tập như vậy
trong ít lâu, ông đạt được nhiều tiến bộ đáng kể.
Ngồi
lại trong tư thế thiền định, ông buông bỏ hết mọi suy tư và
mọi ám ảnh về quá khứ cũng như về tương lai và thực
hiện được sự thanh tịnh an lạc. Tuy nhiên, trong
niềm an lạc này, ông vẫn thấy có bóng dáng và mầm mống của
những suy tư. Mấy tuần sau, trong một trạng thái thiền
định cao hơn. Siddhatta loại trừ được các mầm mống của suy tư, rồi
ông đi vào được một trạng thái trung tâm ý trong
đó ý niệm về an lạc và không an lạc cũng không
còn. Trong trạng thái tập trung tâm ý đó, hình như năm cánh cửa giác quan
đã hoàn toàn đóng lại. Tâm ông tĩnh lặng như một mặt hồ khi không có
gió.
Khi
đem trình bày kết quả thực tập của mình cho đạo sĩ Alara
Kalama, sa môn Siddhatta được đạo sĩ hết lời khen
ngợi. Đạo sĩ bảo rằng ông đã bước những bước tiến bộ rất
lớn trong một khoảng thời gian rất ngắn. Đạo sĩ bắt đầu dạy
ông về phương pháp thực hiện một trạng thái thiền
định gọi là không vô biên xứ, trong đó tâm của thiền
giả được đồng nhất với không gian vô biên. Trong không
gian vô biên ấy mọi hiện tượng vật chất và
mọi hình sắc đều tan biến, và không gian trở thành nền tảng
của vũ trụ vạn hữu.
Sa
môn Siddhatta vâng lời thầy về cố công thực
tập. Trong vòng chưa đầy mười hôm, vị sa môn trẻ đạt tới
sự thành công, nhưng Siddhatta có cảm tưởng định không vô
biên xứ không giúp cho ông giải tỏa được những tâm tư sâu kín nhất của
mình. An trú trong định đó, ông vẫn còn thấy bế tắc. Ông trở
lại với Alara và trình bày tri kiến ấy.
-
Con phải bước lên thêm một nấc nữa, đạo sĩ nói. Cái hư
không vô biên mà con đạt tới đó, nó cũng cùng một chất liệu
với tâm thức con. Nó không phải là đối tượng của tâm thức mà
nó chính là tâm thức của con. Vậy con hãy nổ lực mà đạt cho
được trạng thái thiền định kế tiếp là thức vô biên xứ.
Siddhatta trở
về góc rừng của mình, không bao lâu, ông đạt được tầng thiền thức
vô biên xứ. Ông thấy được tâm thức mình trong một hiện tượng vũ
trụ. Song, vị sa môn vẫn không thể giải tỏa được những gút mắc và
thao thức của mình. Ông trở về gặp vị đạo sĩ và trình bày
chỗ thắc mắc ấy. Alara nhìn Siddhatta bằng một con mắt kính phục. Vị
đạo sĩ nói:
-
Con đã đi gần tới đích. Hãy quán chiếu về tính cách hư
giả của vạn pháp. Mọi hiện tượng trong vũ trụ đều
do tâm thức ta tạo nên. Tâm thức là khuôn đúc của tất cả
mọi hiện tượng. Hình sắc, âm thanh, hương, vị, và những xúc
chạm, nóng lạnh, cứng mềm đều là những sáng tạo của tâm
thức. Chúng nó không có thật như ta thường tưởng tượng. Tri
giác của chúng ta là vị họa sư; nó vẽ ra hết mọi hình tướng.
Phải đạt cho được cảnh giới vô sở hữu xứ thì con sẽ thành
công. Vô sở hữu xứ là cảnh giới trong đó ta thấy được rằng:
không có một hiện tượng nào là thật sự hiện
hữu như tri giác của ta tưởng tượng.
Vị sa
môn trẻ tuổi này chắp tay lĩnh giáo. Ông lại trở
về góc rừng của mình. Trong thời gian tu học với đạo
sĩ Alara, Siddhatta đã làm quen với nhiều vị sa môn đồng đạo. Bởi
bản tính hòa nhã nên ai cũng mến yêu ông. Có ngày, Siddhatta không
cần đi kiếm thực phẩm mà vẫn có thức ăn lót dạ vào
buổi trưa. Có khi xuất thiền, ông thấy thức ăn đã để sẵn một bên,
hoặc là một vài trái chuối, hoặc là một mâm cơm tín thí cúng dường, mà
một vị sa môn nào đó đã kín đáo chia sẻ lại. Đạo
sĩ Alara đã có lần hỏi về gốc tích của ông, và sau đó có người cũng đã
biết được tung tích ông. Siddhatta chỉ mỉm cười mỗi khi có
một bạn đồng tu hỏi ông về cái gốc tích vương giả ấy. Ông khiêm tốn
mà nói:
-
Cái đó không quan trọng gì. Có lẽ chúng ta chỉ nên chia sẻ với
nhau về kinh nghiệm hành đạo mà thôi.
Rất
nhiều vị sa môn đồng tu rất ưa được làm bạn với Siddhatta để
được học hỏi. Họ đã được nghe lời ca tụng về ông, trực tiếp
từ vị đạo sư của họ. Trong khoảng thời gian ngắn,
Siddhatta thực hiện được định vô sở hữu xứ. Ông rất vui
mừng thấy mình đạt tới cái thấy này. Trong nhiều tuần lễ kế
tiếp, Siddhatta ngồi khai thác cái thấy ấy để giải quyết những bế tắc
lâu ngày của tâm ý, nhưng định vô sở hữu xứ, dù là một trạng thái thiền
định khá sâu sắc, nhưng vẫn không giúp ông được. Cuối
cùng Siddhatta phải trở về thỉnh ý đạo sư Alara.
Đạo
sư Alara ngồi nghe Siddhatta một cách chăm chú. Mặt ông sáng rỡ lên. Đổi
cách xưng hô, ông nói:
- Sa
môn Siddhatta, Ngài là một vị tài ba lỗi lạc. Ngài đã đạt tới
chỗ cao nhất mà tôi đã đạt. Cái gì mà tôi đạt tới, ngài cũng đã đạt
tới. Sa môn Siddhatta, xin ngài ở lại đây. Hai chúng ta sẽ
cùng nhau dìu dắt giáo đoàn tu sĩ này.
Siddhatta im
lặng. Ông suy nghĩ. Định vô sở hữu xứ tuy là một hoa trái quý
giá của sự tu học nhưng không giải quyết được vấn
đề sinh tử, không giải phóng được ta ra khỏi những khổ đau, bệnh
tật, không đưa ta đến chỗ giác ngộ hoàn toàn. Mục đích của
ta không phải là làm giáo chủ một giáo đoàn. Mục
đích của ta là tìm con đường giải thoát đích thực. Nghĩ như
thế, Siddhatta chắp tay lại trình đạo sĩ:
-
Thưa thầy, mục đích thực sự cầu đạo của con chính là tìm ra con
đường để giải thoát sanh tử. Con xin cảm ơn thầy đã có lòng
chiếu cố và yêu mến con. Xin thầy cho phép con được đi du phương tìm
đạo. Thầy đã dạy dỗ con hết lòng trong những tháng vừa qua. Con xin
ghi nhớ ơn thầy.
Đạo
sĩ Alara Kalama tỏ ý buồn bã và tiếc nuối, nhưng ý của Siddhatta
đã quyết. Ngày hôm sau, ông lại lên đường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét